Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận môn tài chính quốc tế Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.71 KB, 33 trang )

Mục lục
Phần 1: Lí thuyết tổng quan
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại khủng hoảng tài chính.
1.1.1.1. Khái niệm khủng hoảng tài chính
Có rất nhiều khái niệm về khủng hoảng tài chính nhưng tóm lại khủng hoảng tài chính
được hiểu là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong việc đáp ứng
đầy đủ bổn phận, nghĩa vụ tài chính của mình. Hay nói cách khác khủng hoảng tài chính
là tình trạng tài chính (quỹ) mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn đến sụp đổ quỹ. Khủng
hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá so với nguồn cung. Nhu cầu về tiền mặt
của người dân hay các nhà đầu tư nước ngoài đã gây sức ép cho hệ thống ngân hàng và
thị trường tài chính khiến cho hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính có thể sụp đổ.
1.1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, có hiện tượng khan hiếm tín dụng, cầu về dự trữ quá lớn khiến cho ngân
hàng không thể cùng một lúc đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người.Giá trị tài sản của
ngân hàng giảm mạnh dẫn đến mất khả năng trả nợ. Điều này dẫn đến một số ngân hàng
sụp đổ và xuất hiện tình trạng đổ xô đến các ngân hàng, các “bong bóng” giá tài sản nổ
tung, sự sụt giá ban đầu trong các giá trị tài sản buộc các ngân hàng phải bán tiếp tài sản
và làm giá tài sản giảm mạnh hơn nữa. Các khoản tín dụng hình thành trong thời điểm
bùng nổ thì được mang ra bán tháo.
Thứ hai, toàn bộ bộ máy tài chính – tín dụng quốc gia lâm vào tình trạng tồi tệ: sự phá
vỡ hệ thống thanh toán, tài chính nhà nước; sự phá sản của các định chế tài chính trung
gian; phá giá đồng nội tệ, áp lực lạm phát.
Thứ ba, cán cân thanh toán, cán cân mậu dịch, ngân sách nhà nước bị mất cân bằng
nghiêm trọng.
Thứ tư, vay nợ nước ngoài tăng nhanh và có thể kéo tới suy thoái kinh tế trầm trọng.
Ngoài những biểu hiện trên khủng hoảng tài chính còn được thể hiện qua những tác
động tiêu cực khác đến nền kinh tế của các nước, gây ra tăng trưởng kinh tế chậm và có
thể kéo theo suy thoái kinh tế ở nhiều nơi. Bên cạnh đó dự báo quan trọng trước một cuộc
khủng hoảng tài chính là khi một nền kinh tế tăng trưởng quá nóng và có một tỷ giá hối
đoái quá yếu hoặc quá mạnh. Điều này được lý giải là do đẩy sự đầu tư vào thị trường


Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 2
chứng khoán, bất động sản, thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời lượng tiền được đầu tư
vào những nơi sinh lợi cao và đầu cơ tăng nhanh của các nhà đầu tư.
1.1.1.3. Phân loại
Có nhiều cách để phân loại khủng hoảng tài chính, song cơ bản khủng hoảng tài chính
được chia ra làm các loại chính như sau:
Thứ nhất, khủng hoảng ngân hàng là hiện tượng xảy ra khi các ngân hàng can thiệp quá
sâu hoặc cho doanh nghiệp vay vốn vào những hoạt động kinh doanh có rủi ro cao như
bất động sản, chứng khoán, vốn tín dụng được đầu tư quá nhiều cho lĩnh vực nhiều rủi ro
dẫn tới tình trạng mất cân đối tài chính kinh tế. Tỉ lệ nợ xấu quá lớn.Trong một vài trường
hợp, khủng hoảng ngân hàng là do hiện tượng đột ngột rút tiền gửi của những người gửi
tiền do mất lòng tin vào khả năng thanh toán của to chức tín dụng và lo lắng cho tài sản
của mình gửi ở đó.
Thứ hai là khủng hoảng tiền tệ. Theo nghĩa hẹp, khủng hoảng tài chính gắn liền với chế
độ tỷ giá hối đoái cố định, khi nền kinh tế đi xuống hoặc vấp phải những làn sóng đầu cơ
cực mạnh sẽ phải điều chỉnh ở trong nước chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi
Theo nghĩa rộng, khủng hoảng tiền tệ chính là hiện tượng mà khi đó mức độ biến động
của tỷ giá hối đoái vượt quá phạm vi một quốc gia có thể gánh chịu. Khủng hoảng tiền tệ
còn có thể hiểu đơn giản là hiện tượng giá trị đối ngoại của nội tệ bị suy giảm một cách
nghiêm trọng và nhanh chóng.
Thứ ba: là khủng hoảng nợ. Khủng hoảng nợ là trường hợp quốc gia vay nợ nước ngoài
quá nhiều và sự dụng không hiệu quả nên không trả được nợ đúng hạn, lâm vào khủng
hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xóa nợ hoặc tuyên bố vỡ nợ. Khủng hoảng nợ thường
xảy ra ở một số nước đang phát triển
Thứ tư là khủng hoảng thị trường tài chính. Khủng hoảng thị trường tài chính là sự rối
loạn nặng nề trên thị trường tài chính vốn, có thể dẫn đễn sự sụp đổ nghiêm trọng một
cách đột biến do sự suy giảm khả năng thực hiện có hiệu quả chức năng của thị trường.
1.1.2. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Thị trường sơ cấp là một phần của thị trường tài chính, đây là nơi các chứng khoán mới,
chẳng hạn như trái phiếu và cổ phiếu được bán lần đầu cho các nhà đầu tư. Thị trường

thứ cấp là một phần của thị trường tài chính, là nơi mà các cổ phiếu/trái phiếu đã phát
hành lần đầu được mua đi bán lại.Thị trường sơ cấp không phổ biến, vì các chứng khoán
được phát hành lần đầu thường không công khai cho công chúng. Để cổ phiếu có thể
được phát hành trên thị trường sơ cấp, thì phải có sự tham gia của một định chế tài chính
có vai trò rất quan trọng, đó là ngân hàng đầu tư. Ngân hàng đầu tư sẽ bảo lãnh phát hành
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 3
chứng khoán: cam kết đảm bảo một mức giá tối thiểu cho cổ phiếu của công ty và bán cổ
phiếu ra công chúng.
Thị trường thứ cấp có 2 nhiệm vụ quan trọng.
• Thứ nhất, nó giúp các công ty dễ dàng và nhanh trong bán các sản phẩm tài chính
(cổ phiếu, trái phiếu…) của mình ra thị trường để thu về tiền mặt, tức là thị trường
thứ cấp tạo tính thanh khoản cho sản phẩm tài chính.
• Thứ hai, thị trường thứ cấp giúp xác định giá cả của các cổ phiếu mà công ty phát
hành trên thị trường sơ cấp. Giá cổ phiếu trên thị trường sơ cấp càng cao thì công
ty sẽ thu về được nhiều vốn hơn khi tiến hành phát hành thêm cổ phiếu.
1.1.3. Thế chấp dưới chuẩn
Một khoản thế chấp là một khoản cho vaydài hạn được đảm bảo bằng bất động sản. Các
khoản vay dưới chuẩn là những khoản cho vay dành cho những người vay không đủ điều
kiện vay mượn ở lãi suất thị trường thông thường – vì họ có xếp hạng tín dụng cá nhân
thấp và vì các khoản vay này vượt quá khả năng chi trả nếu căn cứ trên thu nhập của họ.
Vay dưới chuẩn cho mua xe, thẻ tín dụng là những ví dụ điển hình.
1.1.4. Chứng khoán hoá các khoản thế chấp
Chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp:
Các khoản cho vay thế chấp dưới chuẩn thường rất khó bán để thu hồi lại vốn vì chúng :
o nhỏ lẻ, khó kết hợp các khoản vay thế chấp lại với nhau
o yêu cầu thẩm định một khoản vay dưới chuẩn thường phức tạp
o luôn có biến động lớn về rủi ro
ví dụ: khoản vay thế chấp mua nhà 250000 USD ,
Do vậy, nhằm huy động vốn thì các định chế tài chính đã phát hành chứng khoán nợ mà
tài sản đảm bảo là các khoản vay thế chấp: các khoản vay thương mại, các khoản vay thế

chấp mua nhà, các khoản cho vay thẻ tín dụng…
Nghiệp vụ trên gọi là chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp.
Quá trình chứng khoán hóa được thực hiện cơ bản như sau:
Các ngân hàng đầu tư tạm ứng vốn cho các công ty tài chính chuyên cho vay thế chấp
dưới chuẩn.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 4
Thông qua hệ thống đại lý của mình, các CTTC sẽ giải ngân cho vay thế chấp rùi bán lại
các khoản vay này lại cho NHĐT (thực ra là thanh toán tiền tạm ứng).
NHĐT dưới sự hỗ trợ các công ty xếp hạng tín dụng sẽ chứng khoán hóa các khoản vay
dưới chuẩn trên và bán lại cho công ty phát hành nợ tín dụng đặc biệt.
Cuối cùng, các CTPHNTD sẽ phát hành chứng khoán nợ cho các nhà đầu tư.
Phần 2: Nguyên nhân khủng hoảng thị trường tín dụng thứ cấp bùng nổ
và lan rộng.
2.1. Nguồn gốc sâu xa của cuộc khủng hoảng
Trong thời kì tổng thống Bill Clinton (1992-2000), có 2 sự kiện đáng chú ý đã xảy ra, thứ
nhất là sự sụp đổ của bong bóng chứng khoán (khủng hoảng dot-com) - điều làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến khả năng thế chấp cho các khoản vay của tầng lớp trung lưu Mỹ
và sự kiện Bill Clinton thông qua đạo luật Gramm-leach-Bliey, khai tử đạo luật Glass-
Steagal (1933). Đạo luật mới này cho phép các ngân hàng thương mại tham gia vào các
hoạt động đầu tư rất rủi ro, và điều này đã làm xuất hiện các hình thức giao dịch phái sinh
trên thị trường cho vay đầu tư bất động sản.
Trong giai đoạn tổng thống Geogre Bush (2001-2008) cầm quyền, nền kinh tế Mỹ mất
cân đối vĩ mô trầm trọng. Mỹ chịu gánh nặng của 2 cuộc chiến Iraq và Afganistan, và
điều này làm tăng thâm hụt ngân sách. Ngoài ra, thâm hụt cán cân thương mại và nợ ròng
nước ngoài của Mỹ liên tục tăng. Sau cuộc khủng hoảng bong bóng công nghệ, Alan
Greenspan – Chủ tịch cục dữ trữ liên bang Mỹ lúc đó, đã cho phép hạ thấp lãi suất cơ
bản nhằm kích thích đầu tư, tiêu dùng trong nước và giảm giá đồng USD nhằm kích thích
xuất khẩu. Tuy nhiên, quyết định này của Alan Greenspan lại là sai lầm, thay vì làm sản
xuất được phục hồi, nó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phình to của bong
bóng tiêu dùng và bất động sản.

Như vậy, có thể nói rằng những quyết sách sai lầm của Bill Clinton, Alan Greenspan, và
sự bất ổn kinh tế vĩ mô đã ươm mầm cho cuộc khủng hoảng 2007.
2.2. Những nguyên nhân cốt lõi của cuộc khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng 2007-2009 có thể truy ra từ 3 nguyên nhân cốt lõi: Do sự phát triển
của thị trường thế chấp, vấn đề chi phí đại diện và vai trò của sự bất cân xứng thông tin
trong việc đánh giá xếp hạng tín dụng.
Trong giai đoạn trước năm 2000, chỉ có những người có xếp hạng tín dụng tốt nhất mới
có thể tiếp cận các khoản vay thế chấp.Máy tính và những tiến bộ trong khoa học tài
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 5
chính đã giúp tiến hành tính toán và gộp các khoản vay nhỏ (các khoản vay thế chấp) này
lại với nhau để tạo thành các chứng khoán nợ đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS –
Mortgage Backed Securities). Nhờ việc có thể thu về dòng tiền từ các cổ phiếu MBS và
khả năng thanh khoản dồi dào, các ngân hàng đã cho vay dưới chuẩn nhiều hơn. Số lượng
các khoản vay dưới chuẩn tăng và rủi ro của chúng không đồng đều. Trong khi đó các
nhà đầu tư trên thị trường có xu hướng chấp nhận rủi ro không đồng đều, do vậy một
danh mục các khoản vay thế chấp đã được cấu trúc thành các trái phiếu được đảm bảo
bằng các khoản nợ có thế chấp (CMO – Collateralized Mortgage Obligations) với 3 gói
khác nhau: Gói siêu hạng (super trance) – xếp loại tốt nhất, gói cấp trung (mezzanine
tranche) và gói sở hữu (equity tranche) – xếp loại rủi ro nhất và nằm cuối cùng trong
chuỗi thanh toán, dưới 2 gói trên. Trong cùng thời gian này, các kỹ thuật tài chính tinh vi
phát triển hơn, cùng với các khoản nợ thế chấp, nhóm tài sản bảo đàm còn bao gồm thêm
một số lượng lớn những khoản vay công ty, vay mua ô tô, thẻ tín dụng… Và loại trái
phiếu được đảm bảo bằng các khoản nợ có bảo đảm (CDO – Collateralized Debt
Obligations). Các khoản bảo đảm của CDOs không đồng nhất và được chia theo tiêu
chuẩn thanh toán (CDO1, CDO2,…), mỗi gói CDO có các đặc điểm và rủi ro khác nhau.
Cấu trúc của các CMO, CDO này phức tạp đến nỗi chúng được tạo ra không phải bởi các
chuyên gia ngân hàng mà bởi các tiến sỹ toán học, thống kê học, và các nhà khoa học tài
chính. Sự phát minh ra chứng khoán hoá nợ dưới chuẩn và các kỹ thuật tài chính tinh vi
đã giúp ngân hàng đóng gói các khoản nợ, bán nó ra thị trường, thu về dòng tiền, dòng
tiền sau đó lại quay trở lại thị trường thế chấp dưới chuẩn, và làm phình to hơn bong

bóng bất động sản, bong bóng tiêu dùng.
Những nhà môi giới cho vay thế chấp trên thị trường thế chấp đã không nỗ lực đánh giá
khả năng trả nợ của những người đi vay trên thị trường. Họ tin rằng việc danh mục các
khoản vay sẽ nhanh chóng bán hết cho các nhà đầu tư dưới dạng chứng hoán. Những nhà
môi giới nhận được phí từ việc môi giới cho vay thế chấp, và trong bối cảnh thị trường
bất động sản liên tục tăng giá, và các ngân hàng liên tục phát hành thành công MBS,
CMO, CDO thì những nhà môi giới này không chịu áp lực về việc phải thẩm định đúng
khả năng thanh toán của người đi vay. Các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư
cũng thu được rất nhiều lợi nhuận từ việc bảo lãnh phát hành các loại chứng khoán nợ thế
chấp. Càng cho nhiều người vay thế chấp, những nhà môi giới thu được càng nhiều phí,
càng phát hành nhiều chứng khoán nợ thế chấp, ngân hàng càng thu được nhiều lợi
nhuận. Sự khác biệt trong lợi ích cốt lõi giữa người môi giới (đại lý) – và công ty cho vay
thế chấp (hoặc ngân hàng) – nhà đầu tư (người mua cổ phiếu/trái phiếu nợ thế chấp) dẫn
đến những hành vi đi ngược lại lợi ích của nhau được gọi là vấn đề chi phí đại diện.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 6
Có thể hiểu 1 cách đơn giản, chi phí đại điện là loại chi phí phát sinh khi một tổ chức gặp
phải vấn đề về sự thiếu đồng thuận giữa mục đích của người quản trị và người sở hữu và
vấn đề thông tin bất cân xứng. Vấn đề thông tin bất cân xứng tồn tại giữa người sở hữu
và CEO là một dạng điển hình của dạng chi phí này. Người đại diện (nhà quản trị doanh
nghiệp) chính là người làm việc thay mặt cho người sở hữu, nói cách khác là các cổ đông
của doanh nghiệp.Thông thường cổ đông của doanh nghiệp không hoặc rất ít có điều kiện
giám sát thường xuyên từng hành động của người quản trị. Đây là một điểm dễ làm phát
sinh tình trạng thông tin bất cân xứng và tiếp tục gây ra các vấn đề rủi ro đạo đức và lựa
chọn đối nghịch.
Vấn đề chi phí đại diện cũng có thể nhận thấy trong quá trình đầu tư của doanh nghiệp:
phần lớn các khoản đầu tư vào các chứng khoán nợ đã được thực hiện thông qua các quỹ
hưu trí và các định chế khác. Những người ra quyết định đầu tư không làm việc cho tiền
của chính mình, mà họ đang thay mặt cho những người uỷ thác các khoản quỹ để nhờ họ
quản lý. Những giám đốc điều hành thay vì quan tâm về hiệu quả hoạt động, họ dành sự
chú tâm của mình cho việc tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn, vì tiền lương họ nhận

được không dựa trên thành quả dài hạn mà ảnh hưởng bởi giá cả (chứng chỉ quỹ) trên thị
trường chứng khoán, và giá chứng chỉ quỹ này thì lại phụ thuộc vào việc lợi nhuận hàng
quý có ở mức cao hay không. Có thể nói vấn đề đại diện cũng chính là nguyên nhân
khiến cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp lan rộng.
Với sự ưa thích rủi ro của mình, nhiều người dân xếp hàng đi vay thế chấp để mua nhà, vì
họ tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng giá nhà đất sẽ tăng liên tục, bất chấp việc họ biết rõ
nếu giá nhà đất giảm xuống, họ sẽ mất tất cả. Chính những quy định lỏng lẻo trong việc
thẩm định cho vay và vấn đề chi phí đại diện tạo điều kiện cho họ có thể dễ dàng tiếp cận
các khoản vay thế chấp, bất chấp họ không đủ khả năng thanh toán, hoặc có thể gian lận
thông tin để được chấp nhận cho vay. Mặt khác, các công ty bảo hiểm tài chính như AIG
cũng thu được rất nhiều phí bảo hiểm từ việc ký kết các hợp đồng bảo hiểm trị giá hàng
trăm tỉ đô la hợp đồngCDS - Credit Default Swap (Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng).
Khi một CMO, CDO được kí một hợp đồng CDS, thì nó sẽ được đánh giá giảm rủi ro,
làm tăng xếp hạng tín dụng, như vậy những công ty bảo hiểm như AIG cũng chính là một
thủ phạm tiếp tay cho việc CMO, CDO lan rộng.
Nguyên nhân cốt lõi tiếp theo dẫn đến sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng là do sự bất cân
xứng thông tin của các tổ chức xếp hạng tín dụng với nhà đầu tư. Các tổ chức này là
người đánh giá rủi ro của các chứng khoán nợ, nhưng đồng thời cũng là người tư vấn cho
các khách hàng của họ trong việc làm thế nào để cấu trúc các công cụ tài chính (chẳng
hạn như CDOs) sao cho xếp hạng tín dụng tốt.Nếu như các cơ quan đánh giá tín dụng
làm đúng chức năng của mình, thì các tài sản thế chấp sẽ ít được bán cho các quỹ hưu trí,
và độ lớn của bong bóng có thể được hạ thấp đáng kể. Nhưng những công ty này, vì
muốn kiếm được khoản lợi nhuận rất lớn thu được từ việc tư vấn xếp hạng tín dụng và
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 7
việc xếp hạng tín dụng nên đã đánh giá và công bố không chính xác rủi ro của các chứng
khoán nợ, vànhững thông tin sai lệch này đã khiến nhà đầu tư không nhận thức chính xác
được rủi ro của chứng khoán nợ.
2.3. Lý do khiến cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp của Mỹ lan rộng
Như đã phân tích ở phần trên, chính sách tiền tệ nới lỏng, vấn đề chi phí đại diện khiến sự
bất cân xứng thông tin dẫn đến rủi ro không được nhận diện đúng đắn đã khiến cuộc

khủng hoảng bùng nổ, và đó cũng là một trong những lý do khơi mào cho sự lan rộng của
khủng hoảng. Tuy nhiên, đây lại không phải là nguyên nhân cốt lõi, lý do nằm ở chỗ các
thị trường tài chính trên thế giới đều gắn bó mật thiết với nhau(Điều này được chứng
minh khi gần ¼ các khoản vay thế chấp của Mỹ đã được các nhà đầu tư, quỹ đầu tư của
nước ngoài mua lại, và 2 trong số 3 đối tượng chủ chốt tham gia vào chiến dịch giải cứu
AIG của chính phủ Mỹ là các ngân hàng nước ngoài)và vì Mỹ là nền kinh tế thị trường tự
do lớn nhất thế giới. Sự suy thoái của Mỹ sẽ rất dễ ảnh hưởng tới toàn cầu.
Mỹ đã rất thành công trong việc xuất khẩu lý thuyết thị trường tự do ra nước ngoài, và
chính thị trường tự do đã tạo điều kiện cho các tổ chức đầu tư nước ngoài mua các chứng
khoán nợ thế chấp. Iceland là ví dụ tiêu biểu của những sai lầm của một quốc gia có nền
kinh tế nhỏ và mở cửa đã vận dụng những lý thuyết thị trường tự do một cách mù quáng.
Đất nước có 300.000 dân này chỉ có 3 ngân hàng nhận tiền gửi và đã mua một số chứng
khoán nợ có tổng trị giá khoảng 176 tỉ đôla (Theo Stigliz, “Rơi tự do”, chương 7:Khủng
hoảng toàn cầu, 2010) gấp 11 lần so với GDP thời điểm đó. Và hành vi thiếu thận trọng
này của các ngân hàng đã đẩy Iceland vỡ nợ, kinh tế và tương lai đất nước nguy ngập.
Nhưng mọi chuyện không dừng ở đây.Iceland đã quá ngây thơ khi cho rằng thị trường sẽ
tự điều chỉnh, và họ tích cự bơm các khoản giải cứu vào các ngân hàng mà không có một
sự quản lý chặt chẽ. Những người cầm quyền ở Iceland đã quên rằng họ đang nằm trong
khối thị trường chung Châu Âu – có nghĩa là các ngân hàng Châu Âu được quyền hoạt
động ở bất cứ quốc gia nào – và các khoản giải cứu của chính phủ nhanh chóng chảy vào
túi của những ngân hàng tư nhân nước ngoài, thay vì giúp vực dậy thị trường tài chính và
nền kinh tế.Khi Mỹ rơi vào khủng hoảng, nhiều người Châu Âu cho rằng họ vẫn có thể
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế của mình bất chấp sự suy thoái của Mỹ, và họ chần chừ
không tham gia vào quá trình giải cứu thị trường tài chính của Mỹ, vì họ tin rằng sự phát
triển ở Châu Á sẽ là cứu cánh cho họ. Tuy nhiên, nền kinh tế Châu Á hãy còn quá nhỏ
(Toàn bộ lượng tiêu thụ hàng hoá của châu Á chỉ bằng 40% Hoa Kỳ - Stigliz, “rơi tự do”,
2010), sự tăng trưởng của họ chủ yếu dựa vào xuất khẩu hàng hoá sang Hoa Kỳ, đến
ngay như tăng trưởng của Trung Quốc cũng giảm sút khoảng 3-4% so với trước khủng
hoảng. Khủng hoảng Mỹ nổ ra khiến người dân không thể duy trì thói quen tiêu dùng như
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 8

trước, họ buộc phải gia tăng tiết kiệm và chính phủ thực hiện chính sách “thắt lưng buộc
bụng”, cầu tiêu dùng tại Mỹ sụt giảm đã khiến nền kinh tế nhiều nước châu Á lao đao.
Kết luận: cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp bùng nổ và lan rộng có thể quy lại từ những
nguyên nhân sau:
- Do sai lầm trong việc nới lỏng các quy định dành cho ngân hàng (đạo luật
Gramm-leach-Bliey).
- Sai lầm trong việc điều hành chính sách tiền tệ (FED hạ lãi suất xuống 1%)
- Do sự phát triển của thị trường thế chấp và khoa học tài chính
- Vấn đề chi phí đại diện
- Sự bất cân xứng thông tin của các tổ chức xếp hạng tín dụng và các quy định lỏng
lẻo trong việc thẩm định cho vay.
- Sự xuất khẩu lý thuyết thị trường tự do của Mỹ
- Cầu tiêu dùng của thị trường Mỹ sụt giảm.
Phần 3: Diễn biến của khủng hoảng tài chính toàn cầu
3.1. Giai đoạn 1 từ năm 2001-2004: FED cắt giảm lãi suất -
giá bất động sảnhình thành bong bong
Cho đến năm 2001, khi những tàn dư của khủng hoảng Dot-com ở Mỹ còn chưa
chấm dứt thì ngày 11/9/2001 cả thế giới kinh hoàng chứng kiến vụ khủng bố ngay trong
lòng nước Mỹ làm tòa tháp đôi sụp đổ. Thời điểm đó đánh dấu sự hình thành của bong
bóng nhà đất trên thị trường Mỹ sau khi Cục dự trữ liên bang Mỹ 11 lần giảm lãi suất từ
mức 6.5% xuống mức 1.75%, nhằm vực dậy nền kinh tế đang suy thoái sau sự sụp đổ của
ngành công nghiệp Dot-com và cơn hoảng loạn sau vụ khủng bố.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 9
Biểu đồ 3.1.1 Lãi suất của Mỹ giai đoạn 01/2000 đến 03/2013 (Nguồn:
)
Từ năm 2002 đến 2004, được sự hỗ trợ của lãi suất thấp giá cả ở các bang Arizona,
California, Florida, Hawai và Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ
bắt đầu. Bong bóng nhà đất kéo dài suốt giai đoạn 2001-2005, lãi suất thấp đã khuyến
khích người dân mua nhà từ nguồn vay cầm cố, đẩy giá nhà liên tục leo thang, giá nhà
tăng 10% năm 2002 và tăng bình quân trên 25%/năm vào giai đoạn 2003-2005. Nhưng sự

bùng nổ giá nhà ở giai đoạn này là một yếu tố quan trọng đóng góp vào sự phục hồi nền
kinh tế của Mỹ, do lãi suất giảm làm giảm giá trị các khoản thanh toán cầm cố hàng tháng
của người dân trong khi giá nhà tăng giúp họ có được những khoản vay mới lớn hơn để
chi tiêu tiêu dùng từ đó mới kích thích kinh tế Mỹ tăng trưởng.
3.2 Giai đoạn 2 từ năm 2005 đến 2007: FED tăng lãi suất – bong bóng bất động
sản bắt đầu xì hơi.
• Đến tháng 8/2005, do sự phục hồi của kinh tế Mỹ cùng với nguy cơ lạm phát gia tăng bởi
những yếu tố từ cung, cầu thúc đẩy Cục dự trữ liên bang Mỹ tăng lãi suất trở lại, lãi suất
liên ngân hàng định hướng của Mỹ đạt mức 3.75%/năm và dự kiến còn tiếp tục tăng nên
không còn là mức lãi suất hấp dẫn đối với người mua nhà. Bong bóng nhà đất bắt đầu xì
hơi. Thu nhập của những người mua nhà bằng cho vay thế chấp không đủ trang trải cho
lãi suất tăng cao. Tỷ lệ vỡ nợ của người đi vay tăng lên, đặc biệt là những người vay dưới
tiêu chuẩn thường xuyên ở trong tình trạng khó khăn về tài chính. Một số người buộc
phải bán nhà để trả nợ hoặc bị siết nợ. Rất nhiều người khác không có khả năng trả được
nợ lại cũng rất khó bán bất động sản để trả nợ và kể cả bán được thì giá trị của bất động
sản cũng giảm tới mức không thể thanh toán được các khoản vay nợ. Cung nhà đất mỗi
lúc một tăng lên, giá nhà đất bị cuốn theo vòng xoáy giảm giá khủng khiếp, cùng với nó
là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động siết nợ từ các công ty cho vay.
• Năm 2006: thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất động sản
trì trệ. Lượng nhà dư thừa vẫn mỗi lúc một tăng. Giữa tháng 8/2006, chỉ số Xây dựng
Nhà ở tại Mỹ suy giảm hơn 40% so với một năm trước đó đánh dấu nguy cơ khủng
hoảng tín dụng trên thị trường cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 10
Biểu đồ: Nhu cầu nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-20007 (Nguồn:)
Trong biểu đồ 3.2.1 ta có thể thấy là cầu về nhả ở chạm đỉnh vào cuối năm 2005 và bắt
đầu giảm xuống.Lượng cầu sụt mạnh trong 2 năm 2006 và 2007. Trong khi đó, lượng nhà
bán được ngày càng giảm sút mạnh (từ cuối năm 2005), lượng nhà tồn kho cũng không
ngừng tăng lên Biểu đồ 3.2.2. Chín trong giai đoạn này giá nhà bát đầu đi xuống rõ rệt do
chênh lệch từ cung-cầu.
Biểu đồ :Doanh số bán nhà và lượng nhà tồn kho ở Mỹ giai đoạn 1995-2007

Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 11
Nguồn:
3.3 Giai đoạn 3 từ cuối năm 2007 đến 2009: khủng hoảng tài chính bùng phát
và lan nhanh trên diện rộng
Từ năm 2007-2009: cuộc khủng hoảng từ ngành bất động sản Mỹ bắt đầu lan rộng ra
các lĩnh vực khác của nền kinh tế và lan ra toàn câu. Hàng loạt thể chế tài chính Mỹ phải
chịu cảnh phá sản, kể cả những tổ chức có lịch sử lâu đời từng sống sót qua cuộc khủng
hoảng 1930-1933
Cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra hết sức tàn khốc ở Mỹ, cuộc đại khủng hoảng
2008 bắt đầu phát triển là và lan rộng ra các nước công nghiệp Châu Âu, làm nhiều công
ty phá sản. Những nạn nhân đáng kể đầu tiên đều liên quan trực tiếp tới hoạt động cho
vay dưới chuẩn như Northern Rock và Countrywide Financial vào tháng 8 và 9/2007.
Northern Rock, ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh, vào tháng 9/2007, sau khi mất thanh khoản
nghiêm trọng do hoạt động cho vay thế chấp bất động sản đã phải cầu cứu NHTW Anh.
Nhà đầu tư lũ lượt kéo đến rút tiền khiến Chính phủ buộc phải tiếp quản tập đoàn này.
Trước đó, Country Financial, tập đoàn tài chính chuyên cho vay thế chấp địa ốc Mỹ cũng
bị phá sản do nợ khó đòi vào tháng 8/2007. Đến tháng 1/2008, ngân hàng lớn nhất nước
Mỹ về giá trị vốn hóa và tiền gửi, Bank of America, đã mua lại Country Financial với giá
trị 4 tỷ USD. Tiếp đến, vào ngày 17/02/2008, Northern Rock chính thức bị quốc hữu
hóa. Sự kiện Northern Rock và Financial là dấu hiệu báo trước cơn bão sắp đổ xuống thị
trường tài chính toàn cầu. Nhưng cơn địa chấn thực sự nổ ra vào ngày 7/9/2008 khi hai
nhà cho vay cầm cố khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được
chính phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản.Sự kiện này tiếp tục châm ngòi cho vụ
đổ vỡ với những tên tuổi cỡ lớn khác. Vào ngày 15/09/2008, ngân hàng đầu tư lớn thứ 4
nước Mỹ, Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại đã tuyên bố phá sản. Đúng 10 ngày sau,
Washington Mutual tạo nên vụ phá sản ngân hàng lớn nhất lịch sử vởi tổng thiệt hại lên
tới 307 tỷ USD.Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính, vào ngày 14/09/2008 ngân hàng đầu
tư số một nước Mỹ, Merill Lynch cũng bị thâu tóm bởi Bank of America. Tiếp đó,
17/09/2008, chính phủ đã buộc phải bơm 85 tỷ USD cho AIG, tập đoàn bảo hiểm lớn
nhất thế giới, để tránh cho thị trường tài chính nước này một kết cục tồi tệ hơn nữa.

Tháng 9 và 10 năm 2008 cũng trở thành giai đoạn đen tối với Wall Street khi chỉ số Dow
Jones sụt tới 25% giá trị chỉ sau một thán kể từ ngày 15/09/2008. Kể từ sau giai đoạn này
biến động tại Wall Street trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại
trong hàng chục năm bị phá.
Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm 2008 cũng chứng kiến các cơn sốt
dầu, lương thực và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là giá dầu từ
mức 90 USD/thùng vào đầu năm đã leo lên trên 147 USD/thùng vào tháng 11/7/2008.
Dầu leo thang kéo giá hàng hóa cơ bản và lương thực lên theo. Trong đó, vàng lập kỷ lục
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 12
trên 1000 USD/ounce vào 17/03/2008. Còn giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra căng thẳng
thực sự tại nhiều nơi, thậm chí cả các quốc gia xuất khẩu lương thực. Nạn lạm phá từ đó
cũng xảy ra tràn lan tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh vào tháng 7/2008, giá
dầu bất ngờ lao dốc không phanh, nguyên nhân là nhu cầu sử dụng tại nhiều quốc gia,
đặc biệt Trung Quốc và Ấn Độ, sụt giảm mạnh do khó khăn kinh tế. Giá nhiên liệu này
chỉ còn khoản 40 USD/thùng, mất hơn 100 USD, bất chấp những nỗ lực cắt giảm sản
lượng của OPEC.
Tình trạng thị trường tài chính đóng băng ngày càng tồi tệ đã khiến NHTW Mỹ, Anh,
Nhật, EU và nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi suất hàng loạt để khơi thông dòng vốn.
Mỹ kể từ đầu năm 2008 đã 8 lần cắt giảm lãi suất, từ 5% đã xuống chỉ còn 0,25%. Không
dừng lại ở các điều chỉnh tài khóa, các quốc gia trên cũng tích cực bơm tiền nhằm hỗ trợ
thanh khoản cho các tập đoàn tài chính, cũng như kích thích hoạt động tiêu dùng và cho
vay. Trong đó FED quyết định dùng 700 tỷ USD để mua lại nợ xấu của các ngân hàng,
trước khi được thông qua vào ngày 1/10/2008, kế hoạch này đã vấp phải sự phản đối tại
Quốc hội Mỹ vào ngày 29/9/2008, điều này đã tạo ra cú sốc tại Wall Street, khiến chỉ số
Dow Jones trải qua ngày giảm điểm tồi tệ nhất trong lịch sử. Không lâu sau khi kế hoạch
của FED được thông qua, 13-14/10/2008, các quốc gia Châu Âu đã công bố gói giả pháp
hỗ trợ kinh tế khổng lồ có giá trị lên tới 2300 tỷ USD. Bước vào quý IV 2008, cuộc
khủng hoảng kinh tế được đẩy lên một nấc thang mới khi nền tài chính và kinh tế của
nhiều quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng.Iceland là nước đầu tiên có nguy cơ phá sản trên
quy mô quốc gia. Cơn bão khủng hoảng tài chính đã càn quét và nhấn chìm hệ thống

ngân hàng của quốc gia từng có thu nhập trên đầu người cao nhất thế giới, chính phủ
Iceland đã phải đóng cửa thị trường chứng khoán và quốc hữu hóa những ngân hàng hàng
đầu. Tại Châu Á, kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi đồng won mất giá hơn 40% kể
từ đầu năm 2008, chính phủ Hàn Quốc đã phải thực hiện một số biện pháp khẩn cấp như
cắt giảm lãi suất và bơm tiền vào hệ thống tài chính. Trước tình hình trên Quỹ tiền tệ
quốc tế đã phải can thiệp bằng cách bơm tiền vào Iceland, Hungary và Ukraine để ngăn
chặn những kết cục tồi tệ hơn có thể xảy ra. Nhiều nền kinh tế lớn như Nhật và EU tuyên
bố rơi vào suy thoái. Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự
giảm sút trong các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người dân.
Hệ quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất nghiệp tại
nhiều quốc gia tăng cao, chi tiêu và chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi xuống mức
thấp nhất trong nhiều năm. Trong ba tháng, tính tới cuối tháng 9/2008, đã có hơn 30.000
doanh nghiệp Mỹ phá sản. Chưa dừng lại ở đó, mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu
ba nhà sản xuất xe hơi hàng đầu là Ford, General Motors (GM), và Chrysler phá sản. Kể
từ đầu năm đến nay, ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ đã bị khủng hoảng tài chính
"quật" cho tơi tả.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 13
Bước sang năm 2009, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tiếp tục tác động tiêu cực
đến nền kinh tế các nước trên toàn thế giới. Tăng trưởng kinh tế giảm, sản xuất công
nghiệp sụt giảm mạnh trong những tháng đầu năm 2009. Tiêu biểu là ngành công nghiệp
ô tô của Mỹ. Bên cạnh đó, ngành ngân hàng Mỹ tiếp tục gặp khó khăn khi số ngân hàng
bị giải thể từ tháng 1 đến tháng 12/2009 đã lên tới con số 140. Đây là con số kỷ lục về số
vụ giải thể ngân hàng tại Mỹ kể từ năm 1992. Năm ngoái, chỉ có 25 ngân hàng Mỹ đổ vỡ.
Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ cho hay, cơ quan này đã phải chi 30 tỷ USD để
giải quyết các vụ đóng cửa ngân hàng trong năm nay và dự kiến sẽ phải chi thêm khoảng
100 tỷ USD cho công tác này trong bốn năm tới. Mặt khác, đồng đô la Mỹ USD - đơn vị
tiền tệ thuộc loại mạnh nhất trên thế giới đã trải qua một năm tuột dốc không phanh.Bên
cạnh Mỹ, nền kinh tế Nhật Bản cũng bị suy giảm mạnh. Theo các số liệu được công bố
hôm 9/12/2009 từ Văn phòng nội các Nhật Bản, trong quý III/2009, GDP của Nhật giảm
0,3% so với quý II/2009. Văn phòng Nội các Nhật Bản cho hay, nguyên nhân chủ yếu

khiến cho kinh tế Nhật Bản giảm trong quý III/2009 là nhu cầu của thị trường nội địa có
những thay đổi lớn, mức tăng trưởng bị điều chỉnh giảm thành âm, những đóng góp cho
tăng trưởng kinh tế của thị trường nội địa từ 0,8% cũng chỉ còn 0,1%. Vấn đề thất nghiệp
trở nên đáng báo động trên toàn cầu.Tỷ lệ người thất nghiệp ngày càng tăng. Có thể nói
2009 là một trong những năm đen tối nhất đối với người lao động. Theo thống kê của
Văn phòng lao động quốc tế (ILO), so với năm 2007, tức thời kỳ tiền khủng hoảng, trận
động đất tài chính và kinh tế lần này cướp mất công việc làm của từ 40 – 60 triệu người
trong năm 2009; đẩy khoảng 200 triệu người lao động vào cảnh khốn cùng với thu nhập
chưa đầy hai USD một ngày. Tầng lớp bị tác động nhiều nhất là thanh niên và phụ nữ. Số
thanh niên dưới 26 tuổi không có việc làm nhảy vọt từ 12% lên thành 15% trong một
năm vừa qua. Nhưng nguy hiểm nhất là các khoản nợ quốc gia trở thành một trong những
tác động nặng nề nhất của cuộc đại khủng hoảng này tới nền kinh tế thế giới trong năm
2009.Sau những gói kích thích kinh tế, nhiều quốc gia sẽ phải coi việc trả nợ là nhiệm vụ
trọng tâm trong kế hoạch tài khóa năm nay.Trong suốt năm 2009, nhiều tổ chức nghiên
cứu kinh tế đã cảnh báo về tình trạng nợ của các chính phủ sau khi chi rất nhiều tiền cho
các biện pháp kích thích kinh tế.Tình trạng này đặc biệt phổ biến tại châu Âu khi thâm
hụt ngân sách ở hầu hết các quốc gia đều vượt quá 3%.
Đến cuối năm 2009, có những dấu hiệu tích cực cho thấy nền kinh tế toàn cầu
bước đầu đã cho thấy những bước hồi phục nhất định, trong đó các quốc gia Châu Á
đóng vai trò là đầu tàu trong quá trình vực dậy nền kinh tế khu vực. Kinh tế các nước bắt
đầu tăng trưởng trở lại, sản xuất bắt đầu được phục hồi.
Sang năm 2010, nền kinh tế thế giới tiếp tục có những dấu hiệu khả quan hơn.Triển
vọng phục hồi của nền kinh tế Mỹ cũng lớn dần. Tổng sản phẩm công nghiệp cũng như
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 14
các đơn đặt hàng mới ở các nước EU cũng gia tăng. Các quốc gia Châu Á như Trung
Quốc, Nhật Bản, Singapore cũng có những bước hồi phục đáng kể.Tuy nhiên vấn đề về tỷ
lệ thất nghiệp cao và vấn đề về các khoản nợ khổng lồ của các quốc gia vẫn đang là
những khó khăn lớn cho nền kinh tế thế giới.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 15
Phần 4: Những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008

4.1. Những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đến nền kinh tế
thế giới
4.1.1. Tác động tới thị trường chứng khoán
• Có thể nói những tác động đầu tiên và mạnh mẽ nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu là những tác động lên thị trường chứng khoán. Trong năm 2008, cũng do tác động của
cuộc khủng hoảng nên thị trường tài chính toàn cầu mất khoảng 17.000 tỷ USD. Thị trường
chứng khoán các nước mới nổi giảm 54,72%, thị trường các nước phát triển giảm 42,72%.
Mức sụt giảm cao nhất rơi vào các nước Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc khoản hơn
70%. Ma-rốc và Israel là những thị trường có diễn biến tốt nhất.
• Chứng khoán Chây Mỹ, Châu Âu, Châu Á sụt giảm kỷ lục
Ở châu Á, các thị trường đều mất điểm mạnh từ 40,7% đến 65,9% - cùng đó là hàng
nghìn tỷ USD đã bốc hơi khỏi thị trường này. Chỉ số KOSPI của Hàn Quốc có mức giảm
thấp nhất (-40,7%), trong khi chỉ số VN-Index của Việt Nam, chỉ số Shanghai Composite
của Trung Quốc giảm mạnh nhất với sự sụt giảm hơn 65% giá trị so với các thị trường
được đưa vào so sánh.Riêng chỉ số Nikkei 225 của Nhật đã giảm tới 42,1% - mức giảm
mạnh nhất kể từ năm 1990 (-39%).
Ở châu Âu, chỉ số CAC 40 của Pháp đã giảm mạnh nhất (-42%) và chỉ số FTSE 100 của
Anh giảm ít nhất (31,5%). Chỉ số DAX của Đức đã giảm 39,5%.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 16
Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể thấy, ở hầu hết các thị trường, ngưỡng giá trị mở cửa năm
2008 cũng gần bằng với ngưỡng cao nhất trong năm, trong khi đó ngưỡng giá trị đóng
cửa ngày cuối năm đã cao hơn điểm thấp nhất trong năm một tỷ lệ % nhất định. Như vậy,
xu hướng tăng điểm phần nào đã diễn ra vào thời điểm cuối năm.
Trong khi đó, ở biểu đồ dưới đây, chúng ta có thể thấy rõ hơn về xu hướng đường biểu
diễn ngưỡng giá trị đầu năm của các chỉ số chứng khoán luôn bám sát ngưỡng giá trị cao
nhất trong năm 2008.
Cơn bão tài chính đã tác động mạnh tới thị trường chứng khoán toàn cầu khiến các chỉ số
chứng khoán có nhiều ngày giảm trên 10% và có ngày tăng trên 10%, điều được cho là
bất thường từ nhiều chục năm nay.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 17

4.1.2. Tác động đến hệ thống tài chính
Không chỉ tác động đến thị trường chứng khoán toàn cầu, cuộc khủng hoảng tài chính
còn có những ảnh hưởng nặng nề lên hệ thống ngân hàng trên toàn thế giới.Các ngân
hàng bị đổ vỡ, sáp nhập, giải thể hoặc quốc hữu hoá tăng nhanh chóng. Từ ngày
15/9/2008 đến 6/1/2009, ở Mỹ đã có 14 ngân hàng, tính chung các nước như Mỹ, Châu
Âu và Nhật là 23 ngân hàng. Từ đầu năm 2008 đến 6/1/2009, chỉ tính riêng tại Mỹ con số
này đã lên tới 25 ngân hàng và lên tới 140 ngân hàng trong năm 2009. Theo số liệu IMF
công bố vào tháng 4/2010, ngành ngân hàng thế giới thiệt hại 2,28 nghìn tỷ USD vì
khủng hoảng tài chính, trong đó ngành ngân hàng Mỹ thiệt hại 885 tỷ USD. Bên cạnh đó,
hàng loạt những ngân hàng lớn trên thế giới như Northern Rock (Anh), BNP Paribas
(Pháp) và hệ thống ngân hàng của một số nước khác cũng đang gặp khó khăn. Lãi suất
biến động mạnh do các điều kiện trên thị trường tài chính thế giới bước vào giai đoạn
khủng hoảng sâu sắc nhất trong nhiều thập kỷ qua buộc một loạt NHTW các nước thực
hiện nới lỏng bằng cách liên tục cắt giảm lãi suất để đối phó với suy thoái kinh tế và bơm
thanh khoản vào hệ thống ngân hàng. Lãi suất Libor, Sibor biến động mạnh. Lãi suất
Sibor kỳ hạn qua đêm ngày 17/9 tăng lên kỷ lục 6,75%/năm, ngày 05/01/2009 giảm
xuống mức thấp kỷ lục 0,105%/năm, lãi suất Libor kỳ hạn qua đêm tăng kỷ lục
6,87%/năm ngày 30/9/2008 giảm xuống mức thấp kỷ lục là 0,11%/năm vào ngày
19/12/2008.Những diễn biến ngoài dự đoán của thị trường tài chính làm bùng nổ khủng
hoảng tài chính toàn cầu đã khiến nhu cầu thanh khoản USD của các ngân hàng trên toàn
thế giới tăng đột biến, đẩy đồng USD tăng giá mạnh so với các đồng tiền khác. Đồng
thời, nguy cơ suy thoái kinh tế tại những nền kinh tế đối trọng của Mỹ như khu vực đồng
Euro, Nhật Bản đã làm giảm đi lợi thế cạnh tranh giữa các đồng tiền này với USD. Diễn
biến đồng USD từ lúc bắt đầu khủng hoảng đến 12/1/2009 lên giá 6,99% so với Euro; lên
giá 18,06% so với GBP; nhưng giảm giá 17,3% so với JPY và ổn định so với CNY
(NHNN 2009).
4.1.3. Tác động tới thương mại quốc tế
Nhìn chung, cuộc khủng hoảng tác động đến thương mại thế giới làm thương mại thế
giới giảm mạnh, tính từ tháng 4/2008 đến tháng 5/2009 đã giảm 21%. Sự sụt giảm này ở
một vài nước ít rõ rệt hơn khi giá cả hàng hóa và tỷ giá hối đoái thay đổi thất thường.

Đến tháng 10/2009, thương mại thế giới có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn thấp hơn mức
tăng trưởng thương mại cùng kỳ giai đoạn trước khủng hoảng là 2,1%.
Bên cạnh đó, tổng giá trị nhập khẩu của những nước có thu nhập cao cũng sụt
giảm. Sự sụt giảm tổng giá trị nhập khẩu của toàn thế giới giảm 40% tốc độ hàng năm
vào quý I/2009, trong đó nhập khẩu của các nước có thu nhập cao trên thế giới giảm 24%
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 18
so với tháng 4/2008, nhập khẩu của các nước đang phát triển giảm 25%. Sự sụt giảm
thương mại này ít rõ rệt hơn ở các nước Châu Á, một phần vì kích thích tài chính ở Trung
Quốc. Hầu hết các đối tác thương mại của Trung Quốc được hưởng lợi từ việc tăng nhập
khẩu trở lại của Trung Quốc. Trong quý III/2009, nhu cầu nhập khẩu đều tăng giữa hầu
hết các nước (EC 2010).
Bên cạnh đó, sự thay đổi số liệu xuất khẩu theo từng tháng cho thấy rõ hơn mức độ suy
giảm của thương mại. Ngân Hàng Thế Giới (WB) đã ước tính rằng, trong tháng 10/2008
giá trị xuất khẩu của 44 nền kinh tế lớn trên thế giới (hiện chiếm khoảng 3/4 giá trị
thương mại toàn cầu) giảm khoảng 7,4% và tiếp tục giảm 15,4% trong tháng tiếp theo
trước khi được giữ vững trong tháng 12/2008 rồi tiếp tục giảm 12,2% vào tháng 01/2009.
Tuy nhiên, tính chung cả năm 2008, xuất khẩu trên toàn thế giới vẫn tăng 2%, song đã
thấp hơn nhiều tốc độ tăng trưởng 6% của năm 2007.Ở Châu Á, ảnh hưởng rõ rệt và thấy
rõ nhất là Trung Quốc. Quốc gia đông dân nhất thế giới này hiện là thị trường xuất khẩu
khổng lồ và đang phải chịu nhiều khó khăn khi các đối tác xuất khẩu chính như Châu Âu
(đối tác chiếm khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc) cũng đang chìm sâu
trong khủng hoảng. Trong tháng 2/2009, xuất khẩu của Trung Quốc giảm 26% so với
cùng kỳ năm ngoái và 28% so với tháng 1/2009.
4.1.4. Tác động tới đầu tư quốc tế
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 dẫn đến suy thoái xảy ra ở hầu hết các
nước trên thế giới. Những nền kinh tế lớn của thế giới như Mỹ, Nhật, EU cũng không
phải là ngoại lệ, do vậy như một kết quả tất yếu lượng đầu tư quốc tế giảm rõ rệt: trong
năm 2008 chỉ tăng 3,5% - thấp hơn nhiều so với mức 13,2% của năm 2007, dự đoán giảm
9,7% vào năm 2009 và sẽ tăng 4,9% trong năm 2010. Đặc biệt do tác động kéo dài của
cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính lớn nhất trong vòng 80 năm qua, đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài (FDI) toàn cầu trong năm 2009 đã giảm 38,7% so với năm 2008, xuống còn
1.040 tỷ USD. Theo báo cáo Giám sát xu hướng đầu tư toàn cầu hàng quý của Hội nghị
của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), đây là năm thứ 2 liên tiếp
FDI toàn cầu giảm và chỉ bằng xấp xỉ 50% so với năm 2007 (khoảng 2.000 tỷ USD).
Trong đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ những nước có thu nhập cao dành
cho các nước đang phát triển giảm khá mạnh so với trước khi khủng hoảng tài chính toàn
cầu 2008 xảy ra. Năm 2009, vốn FDI đổ vào những quốc gia đang phát triển giảm
34,7%, sau 6 năm tăng liên tục. FDI đổ vào các nước phát triển cũng giảm 41,2%. Mỹ
vẫn là quốc gia tiếp nhận vốn FDI lớn nhất thế giới trong năm 2009 với 137 tỷ USD cho
dù con số này đã giảm 57% so với năm 2008. Vị trí thứ 2 thuộc về Trung Quốc với 90 tỷ
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 19
USD (giảm 2,6%) và thứ 3 là Pháp với 65 tỷ USD (giảm 35%). Trong khi đó, vốn FDI
vào Nhật Bản giảm 53,4% xuống còn 11,4 tỷ USD (UNCTAD 2009).
4.1.5 Tác động tới tăng trưởng kinh tế
Cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 ảnh hưởng đến các nước có nền kinh tế đang
phát triển trước hết thông qua sự sụt giảm mạnh của những hoạt động kinh tế toàn cầu
như: sự cắt giảm đột ngột trong các dự án đầu tư, nhu cầu về hàng tiêu dùng bền, nhu cầu
về hàng xuất khẩu giảm, giá cả hàng hóa.
Biểu đồ tăng trưởng kinh tế của một số nước giai đoạn 2003-2011
Nguồn:www. Worldbank.org
Ghi chú: tăng trưởng kinh tế được tính theo giá trị của USD năm 2000
Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng GDP ở nhóm các nước đang phát triển giảm mạnh.
Ước tính tốc độ này sẽ giảm từ 8,1% năm 2007 xuống còn 1,2% năm 2009. Trong đó,
khu vực Châu Âu và Trung Á chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc đại khủng hoảng
2008 với tốc độ tăng trưởng GDP ước tính năm 2009 là -6,2%. Khu vực Mỹ Latinh và
Địa Trung Hải cũng được dự đoán sẽ tăng trưởng âm ở mức -2,6% năm 2009. Tốc độ
tăng trưởng GDP ở các khu vực còn lại trong nhóm các nước đang phát triển cũng giảm
mạnh song vẫn giữ ở mức tăng trưởng dương.

Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 20

Bảng: Tăng trưởng một số nước trên thế giới (Đơn vị: %)
Quốc gia 2008 2009 2010 2011
Argentina 6.8 0.9 9.2 8.9
Australia 3.8 1.4 2.3 1.9
Brazil 5.2 -0.3 7.5 2.7
Canada 0.7 -2.8 3.2 2.5
Trung Quốc 9.6 9.2 10.4 9.3
Pháp -0.1 -3.1 1.7 1.7
Đức 1.1 -5.1 4.2 3
Hồng Kong 2.1 -2.5 6.8 4.9
Ai-len 1.2 -6.6 -4 2.6
Ấn Độ 3.9 8.2 9.6 6.9
Indonesia 6 4.6 6.2 6.5
Italy -1.2 -5.5 1.8 0.4
Nhật -1 -5.5 4.4 -0.7
Hàn Quốc 2.3 0.3 6.3 3.6
Luxembourg -0.7 -4.1 2.9 1.7
Malaysia 4.8 -1.5 7.2 5.1
Mexico 1.2 -6 5.5 3.9
Bồ Đào Nha 0 -2.9 1.4 -1.7
Nga 5.2 -7.8 4.3 4.3
Singapore 1.7 -1 14.8 4.9
Thái Lan 2.5 -2.3 7.8 0.1
Anh -1 -4 1.8 0.8
Mỹ -0.4 -3.5 3 1.7
Việt Nam 6.3 5.3 6.8 5.9
Nguồn: www.worldbank.org
Bên cạnh đó, GDP của nhiều nước tăng trưởng âm liên tiếp, từ những nước có nền
kinh tế phát triển cao như: Mỹ, Pháp, Anh, Đức đến những nước kinh tế mới nổi như:
Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan. Cụ thể Bộ thống kê quốc gia Trung Quốc cho biết, tăng

trưởng GDP của quốc gia này trong quý I/2009 đã sụt giảm xuống còn 6,1% so với mức
tăng trưởng của quý IV/2008 là 6,8% và mức tăng trưởng 2 con số từ năm 2003 đến năm
2007. Đây là mức tăng trưởng thấp kỷ lục tính theo quý từ năm 1992 đến nay. Tăng
trưởng GDP của Thái Lan cũng giảm 7,1% trong quí I/2009 - mức giảm lớn nhất kể từ
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997. Như vậy, tình hình suy thoái kinh tế diễn ra
trên diện rộng, suy thoái kinh tế là tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
âm liên tục trong 2 quý (World Bank 2010).
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 21
Mặt khác, tỷ lệ thất nghiệp ở hầu hết các nước trên thế giới đều tăng cao. Tỷ lệ thất
nghiệp tăng phản ánh nền kinh tế chững lại do khủng hoảng tài chính. Đầu tiên phải kể
đến Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp ở nước này tăng 6,7%, mức cao nhất kể từ 15 năm gần đây,
công bố của Bộ Lao động Mỹ ngày 5/12/2008. Theo Bộ này, trong tháng 11/2008 có
533.000 người ở Mỹ bị mất việc, điều chưa từng có kể từ năm 1974 đến nay. Tính đến
tháng 11/2008, số người thất nghiệp tại Mỹ là 10,3 triệu người, cao hơn thống kê đầu
năm 2008 là 2,7 triệu người, khi sự suy thoái hiện tại đã tác động đến toàn bộ lĩnh vực
của nền kinh tế. Và tính từ đầu kỳ chính thức suy thoái tại Mỹ vào tháng 12/2007 tỷ lệ
người thất nghiệp tăng 1,7%, và từ tháng 10/1993 tăng 6,7%, tỷ lệ tăng cao nhất kể từ 15
năm gần đây. Các nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Áo, Anh, v.v… cũng lâm vào tình
trạng tương tự. Tại Châu Á, Nhật Bản – nền kinh tế đã phát triển ở mức cao, tỷ lệ thất
nghiệp cũng gia tăng vào cuối năm 2008 với khoảng 2,7 triệu người thất nghiệp.
Singapore có khoảng 13.400 công nhân bị mất việc trong cả năm 2008, cao hơn nhiều so
với con số 7.700 trong năm 2007.Trung Quốc với con số thống kê cuối năm 2008 là 8,3
triệu người – đạt mức 4,2%, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm 2007 (World Bank 2010).
4.1.6. Tác động tới cơ cấu ngành
Không chỉ tác động đến sự tăng trưởng của các nền kinh tế trên thế giới, cuộc đại
khủng hoảng 2008 còn có ảnh hưởng sâu rộng đến cơ cấu các ngành trong nền kinh tế, từ
công nghiệp đến nông nghiệp và dịch vụ.
Thứ nhất là những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tới sản xuất công
nghiệp. Có thể nói, ngành công nghiệp là ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu. Giống như thương mại toàn cầu, nền công nghiệp của toàn thế

giới có dấu hiệu đi xuống, tháng 2/2009, sản xuất công nghiệp toàn cầu giảm 23,7%.
Bảng 4.1.6 Sự tăng trưởng trong sản xuất công nghiệp giai đoạn 2002-2011. Đơn vị: %
Quốc gia 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Thế giới 1.37 3.14 5.37 2.93 4.49 4.66 0.09 -6.04 8.43
Argentina -13.81 16.49 13.37 9.20 10.05 7.48 4.03 -1.19 7.80 9.23
Australia 3.54 5.50 1.31 2.13 2.71 4.56 3.96 -0.18 2.56 1.95
Brazil 2.13 1.31 7.85 2.08 2.17 5.31 4.08 -5.67
10.4
1
1.52
Canada 2.18 0.58 2.52 2.43 0.28 0.23 -2.79 -10.68 6.29
Trung Quốc 9.80 12.70 11.10 12.10 13.40
15.1
0
9.90 9.90
12.2
5
10.30
Pháp 0.03 1.10 1.23 1.78 0.64 2.50 -1.39 -8.65
Đức -1.77 -0.44 3.39 0.53 4.92 3.30 -3.11 -14.84 9.04
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 22
Quốc gia 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Ấn Độ 7.21 7.32 9.81 9.72 12.17 9.67 4.44 8.40 7.16 3.38
Indonesia 4.26 3.76 3.94 4.70 4.49 4.72 3.74 3.59 4.86 5.32
Italya 0.21 -1.63 1.07 0.33 2.83 1.58 -3.31 -13.87 2.88
Nhật Bản -1.94 2.30 3.68 0.30 3.76 3.47 -0.25 -15.05
13.5
6
Hàn Quốc 7.41 6.03 7.92 4.85 6.58 6.00 2.03 -0.59
10.7

1
4.96
Bồ Ban Nha -1.27 -2.64 0.43 -1.77 1.11 2.52 -1.87 -7.88 0.98
Nga 3.76 9.05 9.71 4.09 4.49 4.81 1.22 -10.31 6.34 3.88
Singapore 4.52 1.36 10.85 8.21 10.72 6.79 -1.46 -1.35
24.7
7
6.77
Tây Ban Nha 2.19 2.73 2.43 2.67 2.91 1.47 -1.48 -9.95 -1.89
Anh -0.32 0.77 1.65 -0.65 0.29 0.78 -2.44 -10.23 3.50
Mỹ 1.19 1.63 5.62 0.44 1.53 1.97 -5.50 -7.88 6.09
Việt Nam 9.48 10.48 10.22 10.69 10.38
10.2
2
5.98 5.52 7.70 6.73
Nguồn: www.worldbank.org
Cụ thể, theo Cơ quan thống kê Châu Âu (Eurostat), sản xuất công nghiệp của Châu Âu
trong tháng 5 đã giảm 1,9% trong khu vực Eurozone và giảm trung bình 1,4% trong biên
giới của 27 nước liên minh Châu Âu (EU), trong khi mức tương ứng trong tháng 4/2008
lần lượt là 1% và 0,3%.
Biểu đồ 4.1.6 tăng trưởng trong sản xuất công nghiệp
Nguồn: www.worldbank.org
Ngành sản xuất của Mỹ tháng 12/2008 cũng sụt giảm tháng thứ 5 liên tiếp do tác động
của cuộc khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Theo báo cáo của Viện quản lý nguồn cung
(Institute of Supply Management), chỉ số sản xuất chủ yếu trong tháng 11 đã giảm 3,8
điểm xuống 32,4 điểm, thấp hơn con số 35,4 điểm mà các nhà kinh tế dự đoán trước đó.
Đây là mức thấp nhất kể từ khi chỉ số này chạm mức 30,3 điểm vào tháng 06/1980.Chịu
ảnh hưởng nặng nề phải kể đến ngành sản xuất ô tô của Mỹ. Đáng kể nhất trong năm
2008 là cuộc khủng hoảng ba đại gia ngành công nghiệp chế tạo ô tô của Mỹ là GM, Ford
và Chrysler. Từng là biểu tượng của nền kinh tế Mỹ, nhưng cuối năm 2008 cả ba nhà sản

xuất lớn này đều đang đứng một chân bên bờ vực phá sản và phải chờ sự trợ giúp của
chính phủ nước này. Lĩnh vực sản xuất máy móc cũng suy giảm mạnh, khi các nhà máy ở
Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, đã hầu như đóng cửa. Các công ty sản xuất đã ngừng
sản xuất ra các mặt hàng mới và thu hẹp quy mô nhằm bù lại tốc độ chậm chạm của các
hoạt động do tác động của khủng hoảng kéo dài.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 23
Tuy nhiên, bắt đầu từ tháng 04-05/2009, sản xuất công nghiệp của toàn thế giới có
dấu hiệu phục hồi, ban đầu do tăng trưởng ở Trung Quốc sau gói kích thích kinh tế trọng
tâm vào chính sách tài khóa trị giá 575 tỷ USD. Nhu cầu nhập khẩu từ Trung Quốc tăng
lan rộng ra những nước khác với sản xuất công nghiệp tăng trưởng dương ở những nước
kinh tế mới nổi (trừ Trung Quốc) vào tháng 03/2009 và các nước thu nhập cao vào tháng
05/2009.
Thứ hai là những tác động đến ngành dịch vụ. Theo thống kê của WB, từ năm 2000 trở
lại đây, đóng góp tới gần 70% giá trị trong tổng GDP, có thể nói dịch vụ là một ngành có
một vai trò không thể thiếu trong nền kinh tế toàn cầu (WTO 2010). Dịch vụ bao gồm
những lĩnh vực chính như dịch vụ ngân hàng, tài chính, vận tải, bảo hiểm, du lịch. Cuộc
khủng hoảng tài chính xảy ra tác động không nhỏ đến ngành dịch vụ toàn cầu. Nhiều lĩnh
vực dịch vụ bị sụt giảm đáng kể. Tiêu biểu là ngành du lịch thế giới, theo báo cáo của tổ
chức Du lịch thế giới, lượng khách du lịch giảm 7% trong 6 tháng đầu năm 2009, trong
đó những nước Trung Âu và Đông Âu có mức giảm lớn nhất – 11%, trong khi những
nước Châu Phi lượng khách du lịch tăng nhẹ. Ngành du lịch Mexico cũng gặp khó khăn –
giảm 19% trong quý II/2009.
Tuy nhiên thời gian gần đây, du lịch thế giới đã xuất hiện những dấu hiệu khả quan
với lượt khách theo thống kê tháng 07/2009 chỉ giảm 4% so với cùng kỳ năm trước. Bằng
những nỗ lực nhằm hỗ trợ du lịch thông qua các khoản khuyến mãi, khấu trừ đặc biệt,
giảm các hạn chế trong việc cấp visa và những kế hoạch đầu tư đang được chuẩn bị.
Nguồn:www.worldbank.org
Bên cạnh đó, thương mại dịch vụ cũng bị những tác động đáng kể từ cuộc khủng hoảng
này. Theo thống kê của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong năm 2008, xuất khẩu
thương mại dịch vụ toàn thế giới đạt 3.730 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2007. Trong đó,

vận tải tăng 15%, du lịch tăng 10% và những dịch vụ thương mại khác tăng 10% . Những
dịch vụ thương mại khác – lĩnh vực bao gồm cả dịch vụ tài chính chiếm 51%, du lịch
chiếm 25% và vận tải chiếm 23% trong tổng lượng thương mại dịch vụ.
Nguồn:www.worldbank.org
Thứ ba là những tác động đến sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp là một ngành kinh tế
khác so với các ngành kinh tế khác vì nó cung cấp lương thực, thưc phẩm đáp ứng những
nhu cầu thiết yếu nhất của con người để sống và tồn tại. Vì vậy, so với ngành công nghiệp
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 24
và dịch vụ thì ngành nông nghiệp chịu tác động ít hơn từ cuộc đại khủng hoảng này. Tuy
nhiên, sản xuất nông nghiệp toàn cầu vẫn phải đối mặt với những thử thách to lớn. Trong
báo cáo “Triển vọng nông nghiệp” mới nhất, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên
Hợp Quốc (FAO) đã cảnh báo rằng cuộc khủng hoảng tài chính đang tác động tiêu cực
đến ngành nông nghiệp nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Trước hết, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra ngay sau đợt tăng giá lương thực
nên đã tác động xấu đến cung – cầu của thị trường nông sản thế giới cũng ngành nông
nghiệp của các nước đang phát triển. Tăng trưởng toàn cầu sụt giảm mạnh do tác động
của cuộc khủng hoảng làm giảm nhu cầu hàng hóa, đặc biệt là những sản phẩm được chế
biến từ gia súc và hàng tươi sống, những mặt hàng chủ lực như gạo sẽ chịu ít ảnh hưởng
hơn. Bên cạnh đó, thị trường kinh tế bất ổn và những dự báo về triển vọng ảm đạm trên
thị trường toàn cầu cũng khiến nhu cầu nông sản ngày càng giảm sút. Trên thực tế, cuộc
khủng hoảng tài chính đã tạo đà cho sự giảm giá nông sản vào cuối năm 2008, gây khó
khăn cho ngành nông nghiệp. Cụ thể từ tháng 9/2008 giá nông sản trên thị trường thế giới
giảm đột biến. Tiêu biểu nhất là thị trường cà phê và cao su thế giới. Giá cao su RSS2
cuối tháng 9 còn ở mức 4.100 USD/tấn đã giảm xuống còn 3.000 USD/tấn. Đối với thị
trường cà phê, ba tháng cuối năm 2008, giá cà phê thế giới sụt giảm mạnh. Giácàphê
robusta tháng 10/2008 đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng hơn 8 năm qua do lo
ngại tăng trưởng kinh tế của thế giới chậm lại sẽ làm giảm bớt nhu cầu tiêu thụ. Tiếp
theo, ngày 19/11/2008 theo hãng tin Bloomberg, giácàphê robusta trên thị trường thế giới
đã giảm 35% so với mức cao nhất trong năm 2008. Theo các nhà phân tích kinh tế nhận
định: đối với các mặt hàng cây công nghiệp như cao su, cà phê, hồ tiêu, điều do suy thoái

kinh tế và khủng hoảng tài chính làm cho các quỹ đầu cơ rút tiền khỏi các hoạt động đầu
tư dẫn đến giảm cầu tức thời trên các thị trường kỳ hạn, làm cho giá giảm đột ngột, đây
cũng chính là nguyên nhân chính tác động đến sự giảm sút tức thời của thị trường hàng
nông sản thế giới. Đối với các mặt hàng lương thực thiết yếu như lúa gạo do các yếu tố
cung cầu cơ bản về sản lượng, tồn kho và tiêu dùng quyết định. Ngoài ra, cũng do tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính làm đồng USD gần đây lại mạnh, gây áp lực giảm
giá xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Hoa Kỳ như thịt, dầu ăn, lúa gạo. Trong khi đó,
đồng Euro giảm mạnh so với USD làm cho nhu cầu tiêu thụ các nước châu Âu giảm, gây
áp lực giảm giá hàng nhập khẩu vào thị trường châu Âu trong đó có nông sản. Các quỹ
đầu tư chuyển sang nắm giữ đô la thay vì đầu tư vào hàng hóa trong đó có nông sản gây
áp lực giảm giá (Phạm Quang Diệu 2008).
Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra tác động mạnh mẽ đến hầu hết các
khía cạnh của nền kinh tế các nước. Đặc biệt những nước chịu tác động nặng nề hơn từ
cuộc khủng hoảng như Mỹ, Brazil hay khu vực Châu Âu lại là những khu vực sản xuất
lớn của thế giới. Điều này dẫn đấn việc sản lượng nông nghiệp toàn cầu giảm.Bên cạnh
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 Trang 25

×