Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Thực trạng và xu hướng của loại hình bảo hiểm này ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.62 KB, 16 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Trong cuộc sống sinh hoạt đời thường và những hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù chúng ta đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng vẫn có nguy cơ
gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra dù muốn hay không chúng ta cũng ít nhiều sẽ
gặp những rủi ro này, không thể lường trước hết mọi khả năng cũng như đề phòng hết
mọi trường hợp sẽ sảy đến. Chúng ta có thể cẩn thận hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất
nhưng không thể loại bỏ hoàn toàn được. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân, ví dụ
như :
- Các rủi ro bắt nguồn từ môi trường tự nhiên: bão, sóng thần, động đất, rét, hạn hán,
sương muối, dịch bệnh , lở núi…những rủi ro này tuy có thể dự báo được tuy nhiên
không thể ngăn nó không sảy ra. Chúng ta chỉ có thể tìm kiếm những biện pháp nhằm
hạn chế và khắc phục hậu quả của nó.
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học và kỹ thuật khoa học và kỹ
thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống
của con người: nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn ô tô,
hàng không, tai nạn lao động
- Các rủi ro do môi trường xã hội: đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra
rủi ro cho con người. Chẳng hạn, nếu xã hội tổ chức quản lý chặt chẽ - mọi người làm
việc và sống theo pháp luật thì sẽ không xảy ra hiện tượng thất nghiệp, trộm cắp; nếu
làm tốt cong tác chăm sóc sức khoẻ sẽ hạn chế được các rủi ro không đáng có như hoả
hoạn, bạo lực, v v
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó
khăn trong cuộc sống như mất việc hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều tài sản, làm
ngưng trệ sản xuất và kinh doanh ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát
cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây nên. Theo quan điểm của các nhà quản lý
rủi ro, có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro và hậu quả do rủi ro gây ra - đó là
nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro và nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro.
+ Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các hiện tượng tránh né rủi ro, ngăn


ngừa tổn thất, giảm thiếu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn chặn
hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.
+ Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo
hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc
phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có.
2
Bảo hiểm là một phương pháp nằm trong nhóm biện pháp tài trợ - Người tham gia bảo
hiểm (cá nhân hay tổ chức) được trợ cấp, bồi thường những thiệt hại thực tế do rủi ro,
bất ngờ gây ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Nhờ đó họ nhanh chóng ổn định kinh tế, khôi
phục đời sống và sản xuất kinh doanh,tập trung nguốn vốn phát triển kinh tế xã
hội,tích lũy ngân sách hay tạo cho những người tham gia bảo hiểm yên tâm trong cuộc
sống do đó nó còn mang tính cộng đồng và nhân văn sâu sắc…
Bảo hiểm phi nhân thọ là loại hình bảo hiểm không chỉ đảm bảo cho các rủi ro
về con người (sức khoẻ, tai nạn, du lịch…), mà còn đảm bảo các rủi ro cho tài sản
(nhà cửa, ôtô…) và trách nhiệm.do đó nó thật sự cần thiết và càng ngày càng phổ biến
hiện nay đó cũng là lí do nhóm nghiên cứu về loại hình bảo hiểm phi nhân thọ.
2. Mục đích của đề tài :
Nhóm muốn cung cấp những thông tin cơ bản nhất về loại hình bảo hiểm phi nhân thọ
để các bạn biết và nắm rõ được những đặc điểm, vai trò,phân loại cũng như thực
trạng và xu hướng của loại hình bảo hiểm này ở việt nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi của đề tài :
- Đối tượng : loại hình bảo hiểm phi nhân thọ (BHPNT) nằm trong nhóm biện pháp tài
trợ rủi ro
- Phạm vi nghiên cứu : Loại hình bảo hiểm phi nhân thọ trong các công ty kinh doanh
bảo hiểm ở việt nam.
- Phương pháp nghiên cứu : thu thập thông tin dữ liệu từ nguồn dữ liệu thứ cấp. Tham
khảo các tài liệu và giáo trình
4. Kết cấu đề tài :
I. Lời mở đầu
II.Tổng quan về BHPNT

1. Sự hình thành và phát triển
2. Khái niệm và vai trò
3. Phân loại
III.Thực trạng và xu hướng phát triển của BHPNT tại VN
1. Thực trạng
2. Xu hướng
IV.Lời kết.
3
I. Khái quát chung về bảo hiểm phi nhân thọ:
1. Sự hình thành và phát triển của BHPNT:
- Trên thế giới : BHPNT đã có lịch sử hơn nửa thiên niên kỷ phát triển. Sự ra đời và
quá trình phát triển của nó được ghi nhận bởi những điểm đáng chú ý sau:
+ Ai Cập (Khoảng 2500 năm TCN): những người thợ đẽo đá đã biết lập quỹ tương trợ
để giúp đỡ những người gặp hoạn nạn.
+ Babylon (khoảng 1700 năm TCN) và Athefnees (khoảng 500 năm TCN) : xuất hiện
hệ thống vay mượn với lãi suất cao. Điểm đáng chú ý ở đây là quan hệ cho vay mượn
là nếu hàng hóa có rủi ro, tổn thất thì người cho vay không phải trả khoản tiền đã vay.
+Roome: hệ thống vay mượn dựa trên những điều kiện tương tự đã được thiết lập, lãi
suất tối đa lên đến 50%. Tuy nhiên quan hệ vay mượn đó đã bị lạm dụng và sau này bị
cấm như một hình thức cho vay nặng lãi. Từ đó đã dần hình thành nên một hệ thống
mới : các nhóm nhà buôn chấp nhận trả một khoản tiền nhất định để được đảm bảo giá
trị tàu thuyền và hàng hóa chuyên chở.
Thế kỷ 14, những thỏa thuận bảo hiểm đầu tiên xuất hiện và gắn liền với hoạt
động giao lưu, buôn bán hàng hóa bằng đường biển đã rất phát triển. Bản hợp đồng cổ
nhất còn được lưu giữ đến nay được phát hành tại Genes - Italia vào năm 1347
Những thỏa thuận bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải đó có nội dung cơ bản là :
một bên là nhà buôn, chủ tàu chấp nhận trả một khoản tiền nhất định, nếu hàng hóa
tàu thuyền không đến được nơi giao hàng thì bên kia (nhà bảo hiểm) sẽ trả cho họ
một khoản tiền phù hợp. Những thỏa thuận này đã đánh dấu chính thức cho sự khởi
đầu của BHPNT. Kể từ thời điểm đó trong xã hội đã xuất hiện các tổ chức bảo hiểm.

Những tổ chức bảo hiểm bắt đầu đứng ra cung cấp một loại dịch vụ đặc biệt
trong xã hội. Họ ký kết các hợp đồng bảo hiểm đảm bảo cho khách hàng trước rủi ro.
Hoạt động bảo hiểm của họ mang tính kinh doanh hoàn toàn khác với công việc dự
trữ, dự phòng.
Sau bảo hiểm hàng hải là bảo hiểm hỏa hoạn. Tại những nơi thành thị đông đúc
của thế kỷ 17 ở châu Âu, hầu hết các nhà cửa đều dựng bằng gỗ, người ta dùng lửa để
sưởi, đun nấu và chiếu sáng. Vì thế rủi ro nhà cửa bị cháy là rất lớn ( Nawm1666, vụ
hỏa hoạn ở London đã thiêu cháy khoảng 1300 nóc nhà, trong đó có đến 87 nhà thờ).
Bảo hiểm hỏa hoạn ra đời sau sự cố đó.
Cuối thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của sản xuất đại công nghiệp cơ khí, hàng
loạt các nghiệp vụ bảo hiểm đã xuất hiện và phát triển nhanh chóng: bảo hiểm ô tô,
máy bay, trách nhiệm dân sự
4
Ngày nay, Bảo hiểm đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội.
Bảo hiểm thương mại nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng đang giữ một vị
trí rất quan trọng trong nền kinh tế nhiều quốc gia, đặc biệt ở các nước đang phát triển.
- Tại Việt Nam, bảo hiểm phi nhân thọ ra đời muộn hơn nhiều so với thế giới. Hoạt
động bảo hiểm đã có ít nhiều ngay từ thời kỳ nước ta còn bị Pháp đô hộ ở miền Nam
nhưng thời điểm đáng chú ý là sự ra đời của công ty bảo hiểm Việt Nam - Bảo Việt
ngày 17/12/1964 và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/01/1965.
Trong suốt một thời gian dài, Bảo Việt hoạt động với cơ chế độc quyền. Cho đến
ngày 18/12/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định 100/NĐ-CP về kinh doanh bảo
hiểm đã đánh dấu một bước ngoặc quan trọng trong quá trình phát triển thị trường bảo
hiểm ở nước ta.
2. Khái niệm:
Bảo hiểm phi nhân thọ là sự cam kết giữa người tham gia bảo hiểm với người
bảo hiểm mà trong đó, người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia hoặc người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm một số tiền nhất định khi có các sự kiện đã định trước xảy
ra, còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn.Bảo hiểm phi nhân
thọ không chỉ đảm bảo cho các rủi ro về con người (sức khoẻ, tai nạn, du lịch…), mà

còn đảm bảo các rủi ro cho tài sản (nhà cửa, ôtô…) và trách nhiệm.
3. Đặc điểm :
- Qúa trình hoạt động kinh doanh BHPNT là quá trình tạo lập, quản lý và sử dụng quỹ
tiền tệ của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH).
- Trên phương diện xử lý rủi ro, BH là loại biện pháp rất có hiệu quả. Cơ chế hoạt
động là chuyển giao, phân tán rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Cơ chế đó khiến việc gánh
chịu rủi ro đặc biệt là những rủi ro trầm trọng vượt quá khả năng chống đỡ của mỗi cá
nhân, doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn.
- BHPNT chỉ nhận BH cho những rủi ro có thể xảy ra và gây thiệt hại đến tài sản, tính
mạng, sức khỏe mà không có tính chất tiết kiệm như BH nhân thọ. Điều đó cũng có
nghĩa chỉ khi các rủi ro được BH gây thiệt hại cho người được BH thì mới được bồi
thường. Khi hến thời hạn BH mà không có rủi ro xảy ra thì người được BH hết quyền
lợi và đương nhiên sẽ không được trả lại số phí BH đã đóng.
- Thời hạn của hợp đồng BHPNT thường là 1 năm hoặc ngắn hơn (ngoại trừ một số
hợp đồng trong bảo hiểm xây dựng lắp đặt có thời hạn theo thời gian xây dựng công
trình). Thậm chí có những hợp đồng BH chỉ có hiệu lực vài tháng (BH hàng hóa xuất
khẩu), hay vài ngày (BH vận chuyển hàng hóa, BH du lịch).
5
- Áp dụng kỹ thuật phân chia trong quản lý quỹ tài chính BH.
4. Vai trò :
- Tham gia bảo hiểm giúp các doanh nghiệp với việc bỏ ra một khoản phí bảo hiểm ổn
định và nhỏ có thể hoán chuyển rủi ro - những yếu tố không ổn định và tổn thất không
lường trước được sang cho nhà bảo hiểm. Nhờ vậy, các doanh nghiệp an tâm sản xuất
và khi có những tổn thất xảy ra, bồi thường bảo hiểm sẽ giúp họ nhanh chóng khôi
phục quá trình kinh doanh.
- Người tham gia bảo hiểm (cá nhân hay tổ chức) được trợ cấp, bồi thường những
thiệt hại thực tế do rủi ro, bất ngờ gây ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Nhờ đó họ nhanh
chóng ổn định kinh tế, khôi phục đời sống và sản xuất kinh doanh…
- Nhờ có bảo hiểm những người tham gia đóng góp một số phí tạo thành nguồn quỹ
bảo hiểm lớn ngoài chi trả hay bồi thường còn là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh

triển và nó còn đóng góp tích luỹ cho ngân sác
- Bảo hiểm cùng với người tham gia bảo hiểm thực hiện các biện pháp để phòng ngừa
tai nạn xảy ra nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả thiệt hại.
- Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức; giúp họ yên tâm trong
cuộc sống, trong sinh hoạt sản xuất kinh doanh; bảo hiểm thể hiện tính cộng đồng,
tương trợ, nhân văn sâu sắc.
- Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước, nhất là
thông qua hoạt động tái bảo hiểm v.v.
II. Các sản phẩm của BHPNT:
- Căn cứ theo hình thức tham gia:
+ Bảo hiểm bắt buộc
+ Bảo hiểm tự nguyện
Phần lớn các sản phẩm BHPNT là bảo hiểm tự nguyện. Việc tham gia bảo hiểm
hay không phụ thuộc vào nhận thức và nhu cầu của người tham gia. Bảo hiểm bắt
buộc bao gồm các sản phẩm bảo hiểm (BH) mà pháp luật quy định các tổ chức, cá
nhân phải tham gia và DNBH phải phục vụ theo một số điều khoản, mức phí và mức
trách nhiệm bảo hiểm theo quy định của nhà nước. Hiện nay ở Việt Nam có một số
loại hình bảo hiểm bắt buộc như: BH bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba và hành khách trên xe, BH cháy nổ
- Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm phi nhân thọ được chia làm 3 loại:
6
+ Bảo hiểm tài sản
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
+ Bảo hiểm con người phi nhân thọ.
 Bảo hiểm tài sản
Đây là loại bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là tài sản của người được bảo hiểm.
Trong nền kinh tế có nhiều loại tài sản, những tài sản này có thể được phân loại theo
nhiều tiêu thức khác nhau như hình thái biểu hiện có tài sản hữu hình và tài sản vô
hình, căn cứ vào loại hình sở hữu thì có tài sản thuộc sở hữu tư nhân và tài sản thuộc
sở hữu nhà nước,….

Ví dụ: bảo hiểm vật chất xe cơ giới, bảo hiểm thân tàu biển, bảo hiểm thân máy bay,
bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu….
 Các bảo hiểm về tài sản đều có một số đặc điểm chung sau:
- Áp dụng nguyên tắc bồi thường khi thanh toán chi trả bảo hiểm. Số tiền bồi thường
mà bên được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp không được vượt quá thiệt
hại thực tế trong sự cố bảo hiểm. Ví dụ, một chủ xe máy tham gia bảo hiểm cho toàn
bộ chiếc xe của mình trị giá 20 triệu đồng. Trong một vụ tai nạn, xe bị hư hỏng giá trị
thiệt hại là 8 triệu đồng, số tiền bồi thường mà chủ xe nhận được trong bất kỳ trường
hợp nào cũng chỉ là 8 triệu đồng.
- Áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp khi xuất hiện người thứ ba có lỗi và do đó
có trách nhiệm đối với thiệt hại của người được bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, sau
khi trả tiền bồi thường, người bảo hiểm sẽ được hưởng các quyền và hành động của
người bảo hiểm để thực hiện việc truy đòi trách nhiệm của người thứ ba có lỗi.
Nguyên tắc thế quyền hợp pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người bảo hiểm,
chống lại hành vi rũ bỏ trách nhiệm của người thứ ba có lỗi, đồng thời đảm bảo cả
nguyên tắc bồi thường.
Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp, đó là
khi người thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc là con cái, vợ chồng, cha mẹ… của người
được bảo hiểm.
- Bảo hiểm trùng: Trong bảo hiểm tài sản, nếu một đối tượng bảo hiểm đồng thời được
bảo đảm bằng nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng một rủi ro với những người bảo
hiểm khác nhau, những hợp đồng bảo hiểm này có điều kiện bảo hiểm giống nhau,
thời hạn bảo hiểm trùng nhau, và tổng số tiền bảo hiểm từ tất cả những hợp đồng này
lớn hơn giá trị bảo hiểm của đối tượng bảo hiểm đó thì gọi là bảo hiểm trung.
7
Trong trường hợp có bảo hiểm trùng, tuỳ thuộc vào nguyên nhân xảy ra để giải
quyết.Thông thường, bảo hiểm trùng liên quan đến sự gian lận của bên tham gia bảo
hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc chung, công ty bảo hiểm có thể
huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu phát hiện thấy gian lận. Ngược lại, nếu các công ty bảo
hiểm chấp nhận bồi thường thì lúc này, trách nhiệm của mỗi công ty đối với tổn thất

sẽ được phân chia theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Trên thực tế, một trong số
các công ty bảo hiểm đã cấp hợp đồng cho đối tượng được bảo hiểm trùng này có thể
sẽ đứng ra bồi thường theo số thiệt hại thực tế, sau đó sẽ đòi lại các công ty khác phần
trách nhiệm của họ.
 Một số chế độ bồi thường bảo hiểm áp dụng trong bảo hiểm tài sản:
- Chế độ bảo hiểm theo nguyên tắc trách nhiệm vượt giới hạn (theo mức miễn
thường):
Người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị thiệt hại
thực tế vượt quá một mức đã thoả thuận (mức miễn thường).Miễn thường là một hình
thức từ chối bồi thường của công ty bảo hiểm dựa trên một số tiền quy định. Có hai
loại miễn thường: Miễn thường có khấu trừ và miễn thường không khấu trừ.
Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ tổn thất được bồi thường phải
đảm bảo yêu cầu lớn hơn mức miễn thường quy định nhưng khi bồi thường sẽ bị trừ
đi mức miễn giảm này.
Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ bảo đảm chi trả cho những tổn
thất vượt quá mức miễn thường nhưng số tiền bồi thường không bị khấu trừ theo mức
miễn thường: Chế độ miễn thường được áp dụng nhằm loại trừ các hao hụt tự nhiên
thương mại thường phát sinh trong quá trình chuyên chở đối với một số loại hàng hoá
đặc biệt ra khỏi trách nhiệm của người bảo hiểm. Tránh cho người bảo hiểm phải bồi
thường những tổn thất quá nhỏ so với giá trị bảo hiểm đồng thời dành một tỷ lệ không
bồi thường để bên được bảo hiểm cùng chịu trách nhiệm và có ý thức hơn trong đề
phòng hạn chế rủi ro.
- Chế độ bảo hiểm theo tỷ lệ:
Có hai loại bảo hiểm được áp dụng: Tỷ lệ số tiền bảo hiểm/giá trị bảo hiểm
(STBH/GTBH) và tỷ lệ số phí đã nộp. Tỷ lệ STBH/STBH được áp dụng trong các
trường hợp bảo hiểm dưới giá trị.
Còn trong trường hợp có sự khai báo có sự khai báo không chính xác rủi ro, bên
bảo hiểm thường áp dụng tỷ lệ thứ hai để thanh toán nếu chấp nhận bồi thường:
- Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên:
8

Số tiền bồi thường bảo hiểm được trả sẽ dựa vào số tiền bảo hiểm được thoả
thuận , tức là: Số tiền bồi thường ≤ số tiền bảo hiểm
 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS)
Bên cạnh các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản còn có các nghiệp vụ bảo hiểm trách
nhiệm dân sự như : bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới ,bảo hiểm TNDS của chủ lao
động , Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm , bảo hiểm trách nhiệm công cộng, …Theo
luật dân sự , trách nhiệm dân sự của một chủ thể ( như chủ tài sản, chủ doanh nghiệp,
chủ nghề nghiệp…) được hiểu là trách nhiệm phải bồi thường các thiệt hại về tài sản,
về con người… gây ra cho người khác do lỗi của người chủ đó. Trách nhiệm dân sự
bao gồm trach nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng.Thông thường các dịch vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm cho các trách nhiệm
dân sự ngoài hợp đồng.
Vì đối tượng được bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của người
được bảo hiểm đối với người bị thiệt hại (một người thứ ba khác) nên trong loại bảo
hiểm này người được bảo hiểm là người có trách nhiệm dân sự cần được bảo đảm và
cũng thường là người tham gia bảo hiểm.Còn người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm lại
là những người thứ ba khác.Người thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự là những
người có tính mạng, tài sản bị thiệt hại trong sự cố bảo hiểm và được quyền nhận bồi
thường từ người bảo hiểm với tư cách là người thụ hưởng.Người thứ ba có quan hệ về
mặt trách nhiệm dân sự với người được bảo hiểm nhưng chỉ có mối quan hệ gián tiếp
với người bảo hiểm.
Cần chú ý trong một số nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự, người thụ
hưởng có thể xác định cụ thể hơn tên gọi của nghiệp vụ. Ví dụ, đó là người lao động
gặp tai nạn lao động trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ lao dộng đối với người
lao động.
Mặc dù, đối tượng được bảo hiểm của loại bảo hiểm này là một khái niệm trừu
trượng khi hợp đồng được ký kết. Tuy vậy, trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm vẫn
căn cứ vào các thiệt hại thực tế xảy ra cho người thứ ba. Vì vậy, bảo hiểm trách nhiệm
dân sự cũng được coi là bảo hiểm thiệt hại như bảo hiểm tài sản và cũng áp dụng một
số nguyên tắc như: nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc thế quyền hợp pháp.

 Bảo hiểm con người phi nhân thọ
Mặc dù cũng là loại hình bảo hiểm con người, nhưng bảo hiểm con người phi
nhân thọ trong BHTM có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm ở đây là tai
nạn, bệnh tật, ốm đau thai sản liên quan đến thân thể và sức khoẻ của con người.
9
Những rủi ro ở đây khác với 2 sự kiện “sống” và “chết” trong bảo hiểm nhân thọ và vì
thế tính chất rủi ro được bộc lộ khá rõ còn tính chất tiết kiệm không được thể hiện.
Người được bảo hiểm thường được quy định trong một khoảng tuổi nào đó, các
công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những có độ tuổi quá thấp hoặc quá
cao tình trạng rủi ro diễn biến phức tạp, xác suất rủi ro cao, việc kiểm soát và quản lý
rủi ro rất khó thực hiện. Chẳng hạn ở nước ta, các công ty bảo hiểm không chấp nhận
bảo hiểm cho những em bé dưới 12 tháng tuổi và những người trên 65 tuổi. Nhưng ở
nước Anh lại quy định khác, những đứa trẻ dưới 3 tuổi và những người trên 65 tuổi
không được các công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm.
So với bảo hiểm nhân thọ, thời hạn bảo hiểm con người phi nhân thọ ngắn hơn
và thường là 1 năm như: Bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu
thuật Thậm chí có nghiệp vụ, thời hạn bảo hiểm chỉ trong vòng vài ngày, phí bảo
hiểm thường được nộp 1 lần khi ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ thường được triển khai kết hợp
với các nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng bảo hiểm. Chẳng hạn: bảo
hiểm tai nạn được lồng ghép trong bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, bảo hiểm tai nạn lái
phụ xe được triển khai kết hợp với bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm vật chất
thân xe trong trường hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới v.v Việc triển khai kết hợp náy
sẽ làm cho chi phí khai thác, chi phí quản lý của công ty bảo hiểm giảm đi từ đó có
điều kiện giảm phí bảo hiểm.
Ở hầu hết các nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của sự phát triển ngành bảo
hiểm con người phi nhân thọ được triển khai, vừa rút kinh nghiệm, đến khi điều kiện
kinh tế - xã hội đã chín muồi mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân thọ. Chính vì vậy,
bảo hiểm con người phi nhân thọ được coi là loại hình bảo hiểm bổ sung hữu hiệu

nhất cho các loại hình BHXH, BHYT. Ở Việt Nam, hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm
con người phi nhân thọ đều ra đời trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ
90,mãi đến năm 1996 mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân thọ.
 Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ
Bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai rất đa dạng và linh hoạt tùy
theo tình hình cụ thể ở từng nước và ngay trong phạm vi một nước, cũng có sự khác
nhau giữa các thời kỳ, giữa các công ty bảo hiểm về một số nội dung cơ bản như:
phạm vi bảo hiểm, phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, thủ tục trả tiền bảo hiểm v.v
Điều này cũng thật dễ hiểu vì BHTM là hoạt động mang tính kinh doanh vì mục tiêu
lợi nhuận.Tuy nhiên trong quá trình ký kết hợp đồng hoặc triển khai một sản phẩm
mới đều phải tuân thủ khung pháp lý của mỗi nước. Vì thế nội dung của phần này chỉ
xin được đề cập đến một số nghiệp vụ chủ yếu mang tính phổ biến.
10
- Bảo hiểm tai nạn con người 24/24: là một nghiệp vụ của BHTM mà ở đây, nhà bảo
hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm (hay người được hưởng
quyền lợi bảo hiểm) khi người được bảo hiểm bị tai nạn thuộc phạm vị bảo hiểm đổi
lại người được bảo hiểm (hay người tham gia bảo hiểm) phải nộp phí bảo hiểm khi họ
ký kết hợp đồng.
- Bảo hiểm tai nạn hành khách:
Đã trở thành quy luật , khi nền kinh tế - xã hội ngay càng phát triển, nhu cầu đi
lại của nhân dân ngày càng tăng và lưu lượng hành khách tham gai giao thông ngày
càng lớn. Kéo theo đó là số lượng các loại phương tiện tham gia giao thông cũng ngày
càng gia tăng và hết sức đa dạng, phong phú. Mặc dù các loại phương tiện tham gia
giao thông ngày càng được cải tiến và hiện đại, cơ sở hạ tầng giao thông ngày càng
được mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện, song tai nạn giao thông vẫn ngày một gia tăng
đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và tình trạng sức khoẻ của mọi hành khách.
Theo số liệu thống kê trên thế giới, hàng năm có hơn 70% lượng hành khách tham gia
giao thông đều là những người chủ chốt trong trong gia đình, cơ quan và doanh
nghiệp, mỗi khi tai nạn giao thông không may đối với họ đã làm ảnh hưởng trực tiếp
đến cuộc sống của mỗi gia đình, người dân, cơ quan, doanh nghiệp và toàn xã hội. Vì

thế, bảo hiểm tai nạn hành khách ra đời là hết sức cần thiết mà ở nhiều nước trên thế
giới đã được triển khai dưới hình thức bắt buộc.
- Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật.
Các rủi ro ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị hoặc phẫu thuật thường ít
người tránh khỏi. Khi tình trạng này diễn ra đã làm phát sinh các chi phí điều trị và
phẫu thuật, đồng thời còn làm người bệnh phải ngừng lao động hoặc mất khả năng lao
động. Trong khi đó, chi phí cho các dịch vụ khám chữa bệnh, điều trị và phẫu thuật có
xu hướng ngày càng tăng do kỹ thuật và phương tiện chẩn đoán của ngành y tế ngày
càng tinh xảo và hiện đại, do các loại thuốc đặc trị ngày càng được sử dụng phổ biến.
Để đối phó với tình hình này, nhiều người đã tìm đến bảo hiểm trợ cấp nằm viện
phẫu thuật. Thực chất đây là loại hình bảo hiểm sức khoẻ, nhưng có phạm vi hẹp hơn,
song nó đã mang lại lợi ích to lớn cho con người.
- Bảo hiểm học sinh:
Nghiệp vụ bảo hiểm này là nghiệp vụ bảo hiểm hỗn hợp tai nạn với trợ cấp nằm
viện và phẫu thuật, do đối tượng tham gia bảo hiểm lớn nên phí bảo hiểm đã được
giảm đi đáng kể.
Với mục đích trợ giúp cho học sinh và gia đình các học sinh một số tiền nhất
định để nhanh chóng khắc phục khó khăn và phục hồi sức khoẻ sớm trở lại trường lớp
khi không may các em gặp rủi ro, tai nạn và tạo lập mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà
11
trường và gia đình học sinh…nghiệp vụ bảo hiểm học sinh đã được triển khai rộng
khắp nước ta và đã tỏ rõ được tác dụng to lớn của nó.
- Người được bảo hiểm: là tất cả mọi học sinh từ nhà trẻ mẫu giáo đến các sinh viên
đại học. Những học sinh ở tuổi thành niên, bản thân các em đã là những người tham
gia bảo hiểm.Còn đối với học sinh vị thành niên, người tham gia có thể là bố mẹ, anh
chị hoặc người đỡ đầu.Người tham gia bảo hiểm ở đây không bị hạn chế bởi tuổi tác,
mức độ thân thích hay mức độ tàn tật.
- Phạm vi bảo hiểm: bị chết trong mọi trường hợp, bị tai nạn, thương tật, ốm đau, bệnh
tật phải nằm viện điều trị và phẫu thuật. Tuy nhiên, những trường hợp học sinh đến
tuổi thành niên chết do tự tử, do tiêm chích ma tuý, hay cố ý vi phạm pháp luật hoặc

các phẫu thuật các bệnh bẩm sinh…không thuộc phạm vi bảo hiểm.
- Số tiền bảo hiểm: được ấn định thành nhiều mức cho người tham gia bảo hiểm dễ
dàng lựa chọn phù hợp với khả năng tài chính của từng người theo quy định của Bộ
Tài Chính.
- Phí bảo hiểm và chi trả bảo hiểm: về nguyên tắc cũng giống như bảo hiểm tai nạn
con người và bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật do đây là nghiệp vụ bảo hiểm
kết hợp của hai loại trên.
III. Thực trạng và xu hướng phát triển BHPNT:
1. Những tồn tại và hạn chế của thị trường BHPNT Việt Nam:
- Lạm phát tăng cao làm gia tăng chi phí bồi thường cho các DNBH. Lạm phát tăng
sẽ khiến giá cả hàng hóa dịch vụ tăng cao, điều này đương nhiên dẫn tới chi phí bồi
thường tăng ở các nghiệp vụ có đơn bảo hiểm mà mức bồi thường tính theo giá thị
trường.
- Cạnh tranh không lành mạnh, gia tăng chi phí khai thác dịch vụ. Tình hình cạnh
tranh giảm phí, hạ mức khấu trừ, mở rộng điều kiện bảo hiểm,… trên thị trường
ngày càng quyết liệt, đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo
hiểm cháy, bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm hỗn hợp…
- Trục lợi bảo hiểm. Đây là vấn đề đã diễn ra ở Việt Nam từ rất lâu nhưng thời gian
gần đây có xu hướng gia tăng nhiền hơn. Trục lợi bảo hiểm xảy ra sẽ khiến các
DNBH không những phải chịu thiệt hại lớn về tài chính mà còn bị ảnh hưởng
nghiêm trọng về uy tín, thương hiệu và hình ảnh. Các hành vi trục lợi càng ngày
càng trở nên nguy hại hơn khi nó không chỉ đến đơn thuần từ phía khách hàng mà
còn bắt nguồn từ việc móc nối, cấu kết giữa khách hàng với chính nhân viên của
DNBH.
12
- Khó khăn của các DNBH trong nước khi cạnh tranh với các DNBH nước ngoài.Đặc
biệt là khi bán sản phẩm qua biên giới và thành lập chi nhánh DNBH PNT nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam.
- Sự phối hợp giữa Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm (CQLGSBH) và Hiệp hội bảo
hiểm (HHBH) Việt Nam chưa đồng bộ và chặt chẽ. Đặc biệt là trong việc giải quyết

những vướng mắc về nghiệp vụ bảo hiểm cho DNBH và việc lập kế hoạch cũng như
triển khai các hoạt động nghiệp vụ trong năm.
- Sai phạm trong hoạt động kinh doanh của các DNBH. Có thể kể ra đây một loạt
những sai phạm trong hoạt động của nhiều DNBH như: Thực hiện khuyến mãi, bồi
thường sai quy định…; Thực hiện tái bảo hiểm không thống nhất giữa hợp đồng
gốc với hợp đồng tái về mức phí, hoa hồng, mức khấu trừ bảo hiểm…; Thực hiện
đầu tư không đúng quy định; Trích lập dự phòng nghiệp vụ chưa đầy đủ…
- Nhân sự yếu về chuyên môn nghiệp vụ và lãnh đạo thiếu về kỹ năng quản lý trong
DNBH. Nhân lực là một yếu tố nội tại cực kỳ quan trọng đối với mỗi DNBH.
2. Giải pháp cụ thể để phát triển thị trường BHPNT tại Việt Nam:
 Về phía nhà nước:
Cần có các chế tài nghiêm khắc hơn nhằm gia tăng tính minh bạch trong hoạt
động của các DNBH cũng như để nâng cao tính răn đe trong việc xử phạt những
vấn nạn vốn tồn tại từ lâu như cạnh tranh không lành mạnh và trục lợi bảo hiểm.
Thực hiện đồng bộ và kịp thời các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô giúp giảm bớt những tác động xấu tới thị trường BH PNT, đặc biệt là lĩnh
vực bảo hiểm xây dựng lắp đặt vốn bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong thời điểm
hiện nay.
 Về phía các cơ quan quản lý điều hành:
Thường xuyên trao đổi thông tin giữa CQLGSBH và HHBH nhằm tạo ra sự liên
hệ khi thực hiện đánh giá và định hướng thị trường đồng thời phân tách rõ ràng về
chức năng, nhiệm vụ của CQLGSBH và HHBH, tránh trường hợp “dẫm chân” lên
nhau. Quan tâm sát sao tới hoạt động đại lý và cung cấp dịch vụ của các DN nước
ngoài tham gia vào thị trường BH PNT Việt Nam nhằm tránh những sai phạm gây
ra bất lợi cho các DNBH trong nước. Song song với đó là việc tạo điều kiện thuận
lợi nhất về hoạt động cho các DNBH trong nước trên cơ sở đảm bảo đúng pháp luật
Việt Nam cũng như những cam kết thỏa thuận của WTO. Tiến hành kiểm tra đánh
giá định kỳ hoạt động của các DNBH theo kế hoạch hàng năm hoặc theo chuyên đề
để kịp thời chấn chỉnh các hành vi sai phạm của DNBH, đưa ra khuyến cáo để
doanh nghiệp khắc phục. Tổ chức đấu thầu bảo hiểm theo hướng chọn lọc các dịch

13
vụ bảo hiểm có giá trị lớn và thuộc lĩnh vực bảo hiểm không mang tính đặc thù trên
thị trường hoặc các dịch vụ bảo hiểm mang tính xã hội nhằm đảm bảo hiệu quả phí
bảo hiểm giữ lại cho các DNBH trong nước.
 Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm:
- Công tác tổ chức và hoạt động:
+ Hoạt động định phí, giám định: Tính thêm cả yếu tố lạm phát trong quá trình định
phí để đưa ra mức phí bảo hiểm hợp lý nhất. Tập trung đánh giá rủi ro đối với
những hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn và nguy cơ rủi ro cao.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm: Tách biệt riêng rẽ hoạt động của bộ phận kinh
doanh bảo hiểm và quản lý rủi ro bồi thường. Đẩy mạnh hoạt động đầu tư tài chính
từ việc sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi, tăng lợi nhuận cho DNBH.
+ Hoạt động kiểm tra, giám sát: Chú trọng công tác kiểm toán, đối chiếu lại số liệu
báo cáo tài chính nhằm phát hiện ra những nhầm lẫn, thiếu sót (nếu có). Định kỳ
hoặc bất thường (nếu cần) tổ chức kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh tại
các đơn vị thành viên nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn các trường hợp sai
phạm.
+ Hoạt động đối ngoại: Tăng cường hợp tác giữa các DNBH trong nước nhằm hạn
chế việc nhận bảo hiểm những dịch vụ xấu, trao đổi kinh nghiệm ứng phó với các
trường hợp trục lợi bảo hiểm, cạnh tranh không lành mạnh.
+ Cơ cấu tổ chức: Đối với những công ty chiếm thị phần lớn đang hoặc mới cổ phần
hóa hay tái cấu trúc (như PVI, PJICO) cần nhanh chóng hoàn thành, ổn định hoạt
động kinh doanh tránh những xáo động không cầnthiết cho thị trường bảo hiểm.
+ Công tác xây dựng quy trình và công nghệ:
Rà soát, bổ sung và xây dựng quy trình kinh doanh, hệ thống chỉ tiêu tài chính,
kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế.
Đầu tư hệ thống công nghệ thông tin hoàn chỉnh, hiện đại để quản lý chặt chẽ
các hoạt động kinh doanh theo từng lĩnh vực thị trường và đối tượng tham gia bảo
hiểm.
+ Công tác nhân sự:

Tuyển dụng: Tập trung vào nguồn nhân lực mới, những sinh viên sắp hoặc
vừa ra trường theo học các chuyên ngành bảo hiểm, luật, tài chính, ngân hàng…
thông qua liên kết, hợp tác với các trường đại học trong và ngoài nước. Thành lập
ngân hàng bài test, có những tiêu chí đánh giá, xét tuyển riêng phù hợp với từng vị
14
trí ứng tuyển. Có hệ thống chỉ tiêu cụ thể đánh giá hiệu quả và năng suất làm việc
của từng lao động, đặc biệt là nhân viên kinh doanh.
Đào tạo: nên xây dựng kế hoạch đào tạo theo hai giai đoạn:
• Giai đoạn đầu: Ngoài việc tiến hành đào tạo phổ cập cơ bản về bảo
hiểm cho toàn bộ nhân viên thì cần lựa chọn đối với mỗi lĩnh vực, mỗi
nghiệp vụ những đối tượng trọng điểm để tiến hành tôi luyện qua công
việc, đào tạo qua những khóa học chuyên ngành.
• Giai đoạn thứ hai: Đội ngũ trọng điểm này sẽ trở thành lực lượng chủ
chốt trong công tác đào tạo tại mỗi vị trí chuyên môn, thông qua chia
sẻ kinh nghiệm, truyền đạt kiến thức cho đồng nghiệp, cho các lớp kế
cận.
3. Xu hướng phát triển :
Sự tăng trưởng kinh tế và các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường dịch vụ
của Chính phủ trong thời gian sắp tới sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và hoàn
thiện của Bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phát triển và đầu tư mạnh vào những dòng sản
phẩm dành cho cá nhân như cơ giới, sức khỏe bởi thực tế nhu cầu từ thị trường sẽ
tăng mạnh. Bảo hiểm xe cơ giới được dự báo sẽ bùng nổ vào năm 2015 khi các
doanh nghiệp bảo hiể phi nhân thọ có cùng xu hướng "đánh mạnh" vào nghiệp vụ
này. Tỷ lệ người sử dụng xe hơi tại Việt Nam sẽ tăng đến 26 xe hơi trên 1000 người
đến năm 2015, đạt 40 xe vào năm 2020. Với yếu tố này doanh thu của ngành bảo
hiểm phi nhân thọ sẽ nâng cao.
- Với tham vọng đẩy mạnh bán hàng để nhanh chóng gia tăng thị phần, ngoài việc
tiếp tục duy trì khai thác các sản phẩm bảo hiểm dành cho cá nhân, các doanh
nghiệp bảo hiểm còn đẩy mạnh việc phát triển các sản phẩm bảo hiểm dành cho

doanh nghiệp như bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm xây dựng, bảo
hiểm hàng hóa xuất khẩu
- Các sản phẩm và dịch vụ bảo hiểm được chú trọng hơn về chất, đặc biệt là nhiều
doanh nghiệp vì mục tiêu doanh thu mà giảm phí, mở rộng điều kiện bảo hiểm.
- Mở rộng hoạt động bán lẻ thông qua kênh ngân hàng, giao dịch trực tuyến và các
đại lsy chuyên nghiệp. Bên cạnh đó yếu tố quản trị rủi ro cũng cần được quan tâm
nhiều hơn, các hoạt động khuyến mãi, khấu trừ cho đại lý hay chi phí khai thác cần
được tính toán hợp lý.
15
- Tăng cường sự hiểu biết của cộng đồng về những tác động của việc trục lợi bảo
hiểm và tạo ra những cách thức ngăn chặn hiệu quả bằng cách tích lũy kinh
nghiệm, xã hôi hóa việc phát triển hành vi trục lợi.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trong nước sẽ mở rộng phạm vi hoạt
động ra nước ngoài với nhiều hình thức và bước đi khác nhau tùy theo điều kiện và
khả năng của mỗi doanh nghiệp
KẾT LUẬN
Rõ ràng khi chất lượng cuộc sống của con người ngày càng được nâng cao,thì
nhu cầu về an toàn và chỉ số hạnh phúc càng lớn thì bảo hiểm trở nên gần gũi, gắn bó
với con người hơn.do đó hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và không thể thiếu
đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày nay, sự giao lưu kinh tế,
văn hoá giữa các quốc gia càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng.
Với dân số đông việt nam đang là một thị trường rất triển vọng bởi nhu cầu bảo
hiểm đang gia tăng ở mọi đối tượng,thành phần và độ tuổi dân cư.tuy lĩnh vực này khá
mới mẻ so với việt nam nhưng gần đây có tốc độ tăng trưởng khá nhanh do ý thức
người dân cũng dần nâng cao và phổ biến hơn. Hy vọng rằng các công ty bảo hiểm sẽ
dần xây dựng cơ sở vật chất và định hướng tập trung vào các dòng sản phẩm phù hợp
với người việt nam và tận dụng có hiệu quả các nguồn đầu tư từ các công ty nước
ngoài để ngành bảo hiểm Việt Nam sẽ phát triển hơn và gắn với lợi ích người sử dụng
hơn.
Bảo hiểm phi nhân thọ cùng với những lợi ích đáng kể trong việc phòng ngừa và

kiểm soát rủi ro cũng đang dần trở nên phổ biến và trở thành một sản phẩm không thể
thiếu trong các công ty kinh doanh bảo hiểm.
Với những thông tin trên, nhóm hy vọng sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về bảo
hiểm phi nhân thọ, mong nhận được sự góp ý từ các bạn để nhóm mình hoàn thiện bài
hơn.!
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Tiến Hùng, 2007. Nguyên lý và thực hành bảo hiểm, NXB Tài chính.
2. Bùi Diệu Anh, 2010. Bảo hiểm lý thuyết và bài tập, NXB Phương Đông.
3. Tạp chí Tài chính - Bảo hiểm : số 4/2012
4. Bộ Tài Chính (2004), Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi
hành, NXB Tài chính, Hà Nội.
5. />16
6. />7. />him-vn-phat-trin-nhanh-hang-u-th-gii&catid=18%3Atin-tc-bo-him&Itemid=30&lang=vi

×