Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

NỢ xấu của các NGÂN HÀNG THƯƠNG mại ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.47 KB, 34 trang )

ĐỀ TÀI: NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm nợ xấu:
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
• Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch
vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
• Ở Việt Nam, theo Điều 20 luật các tổ chức tín dụng: “Ngân hàng thương mại là
một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động khác liên quan.
Luật này cũng định nghĩa: tổ chức tín đụng là loại hình doanh nghiệp được thành
lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật động kinh doanh tiền
tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các hoạt
động thanh toán.
Luật Ngân hàng Nhà nước đưa ra định nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi để
cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính
mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền
gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều
dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giáy tờ có giá khác để huy động
vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và các tổ chức
nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của ngân hàng nhà nước.


- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
1.2.2. Hoạt động tín dụng
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức
cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài
chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.Trong các
hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn
nhất.
Cho vay: Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các
hình thức sau:
- Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
và đời sống.
- Cho vay trung hạn và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ vad đời sống.
Bảo lãnh: Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo
lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng
khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo
lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một ngân
hàng thương mại không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của ngân hàng
thương mại.
Chiết khấu: Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ
có giá ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương
phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
Cho thuê tài chính: Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính
nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và
hoạt động của công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ
về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
1.2.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua
ngân hàng, ngân hàng thương mại được mở tài khỏan cho khách hàng trong và ngoài
nước. Để thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua Ngân

hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại phải mở tài khỏan tiền gửi tại Ngân hàng
Nhà nước nơi ngân hàng thương mại đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự
trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi nhánh của ngân hàng thương mại được mở tài
khỏan tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ
sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh tóan và ngân quỹ của ngân hàng thương
mại bao gồm các hoạt động sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh tóan liên ngân
hàng trong nước
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép
1.2.4. Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và cung cấp
dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện một số hoạt
động khác bao gồm:
Góp vốn và mua cổ phần:
- Ngân hàng thương mại được dung vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ
phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo quy định
của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn được góp vốn, mua cổ phần và
liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng lien doanh.
Tham gia thị trường tiền tệ
- Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường
tiền tệ, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thông qua các hình thức mua bán
các công cụ của thị trường tiền tệ. Kinh doanh ngoại hối – Ngân hàng thương mại được
pháp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên
thị trường trong nước và thị trường quốc tế.

Ủy thác và nhận ủy thác
– Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận ủy thác làm đại lý trong các lính vực
liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng ủy thác, đại lý.
Cung ứng dịch vụ bảo hiểm
– Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, đươch thanh lập công ty
trực thuộc hoặc lien doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
Tư vấn tài chính
– Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho
khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc ngân
hàng.
Bảo quản vật quý giá
– Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ bảo
quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có lien
quan theo quy định của pháp luật.
1.3. Nợ xấu của ngân hàng thương mại.
1.3.1. Khái niệm nợ xấu.
Những khoản nợ có vấn đề bao gồm những khoản nợ đã quá hạn hoặc nợ khó đòi hoặc
không đòi được gọi chung là nợ xấu(Theo thông tư số 05/2010/TT-NHNN Quy định về
phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro cho vay trong hoạt động của
tổ chức tài chính quy mô nhỏ)
1.3.2. Phân loại nợ.
Theo thông tư số 05/2010/TT-NHNN Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng
dự phòng để xử lý rủi ro cho vay trong hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ:
1. Căn cứ vào thực trạng tài chính của khách hàng và/hoặc thời hạn thanh toán nợ gốc và
lãi vay, tổ chức tài chính quy mô nhỏ thực hiện phân loại nợ theo năm (05) nhóm như
sau:
a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày.

b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến dưới 30 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu.
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 30 ngày đến dưới 90 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 30 ngày theo thời hạn trả
nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ
theo hợp đồng tín dụng.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến dưới 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 30 ngày đến dưới 90 ngày
theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 180 ngày trở lên;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ
cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã
quá hạn.
BẢNG XẾP HẠNG NỢ
Nhóm nợ Phương pháp định lượng Phương pháp định tính
1 – Nợ đủ tiêu chuẩn
(Current)
Nợ trong hạn, hoặc quá hạn
dưới 10 ngày.
Có khả năng thu hồi đầy đủ
cả nợ gốc và lãi đúng hạn

2 – Nợ cần chú ý (Special
mentioned)
Quá hạn từ 10 - 90 ngày;
Nợ điều chỉnh hạn trả nợ
lần đầu.
Có khả năng thu hồi đầy đủ
cả nợ gốc và lãi, nhưng có
dấu hiệu suy giảm khả năng
trả nợ.
3 – Nợ dưới tiêu chuẩn
( Sub-standard)
Quá hạn từ 91 - 180 ngày;
Nợ gia hạn nợ lần đầu;
Miễn hoặc giảm lãi.
Không có khả năng thu hồi
nợ gốc và lãi khi đến hạn.
Có khả năng tổn thất.
4 – Nợ nghi ngờ
( Doubtful)
Quá hạn từ 181 - 360 ngày;
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả
nợ lần đầu, nhưng lại tiếp
tục quá hạn dưới 90 ngày;
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả
Có khả năng tổn thất cao.
nợ lần thứ hai…
5 – Nợ có khả năng mất
vốn (Bad)
Nợ quá hạn trên 360 ngày,
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả

nợ lần đầu, nhưng lại tiếp
tục quá hạn từ 90 ngày trở
lên.
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả
nợ lần thứ hai nhưng lại quá
hạn.
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả
nợ lần thứ ba trở lên…
Không còn khả năng thu
hồi, mất vốn.
Trong đó, các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5 được gọi là nợ xấu
1.4. Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.4.1. Khái niệm về quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM
Hoạt động cho vay của NHTM luôn chứa đựng những rủi ro và khả năng phát sinh nợ
xấu là một biểu hiện rõ nhất của rủi to tín dụng. Nợ xấu phát sinh sẽ gây hậu quả không
nhỏ không chỉ đến hoạt động ngân hàng mà còn tác động đến cả nền kinh tế. Vì thế, chấp
nhận rủi ro để có những biện pháp ngăn ngừa rủi ro và xử lý tổn thất là việc làm cần thiết
và mang lại hiệu quả trong hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay
nói riêng.
Xuất phát từ tầm qaun trọng và hậu quả mà nợ xấu có thể mang lại, việc quản lý nợ
xấu luôn được các ngân hàng quan tâm và đề ra những yêu cầu cụ thể.
Quản lý nợ xấu là quá trình xây dựng và thực thi các chính sách về nợ xấu nhằm đảm
bảo mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.
1.4.2. Nội dung quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM
Trong hoạt động của NHTM, xây dựng được một chính sách quản trị rủi ro từ hoạt
động cho vay và thực thi tốt chính sách đó có ý nghĩa quyết định. Quản lý nợ xấu đến
việc áp dụng các giải pháp xử lý nợ xấu đã phát sinh một cách hiệu quả.
1.4.2.1. Xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu
Việc xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu có vai trò quan trọng trong quản lý nợ xấu. Chỉ tiêu
về nợ xấu không chỉ giúp định hướng mà còn có tác động trực tiếp đến công tác xử lý nợ

xấu phát sinh.
Chỉ tiêu về nợ xấu thường được xây dựng cho một thời kỳ hoặc một khoảng thời gian
nhất định (thường là 1 năm) trên cơ sở nền kinh tế vĩ mô, quy mô tín dụng, cơ cấu ngành
và đặc điểm về nguồn nhân lực của ngân hàng. Tùy điều kiện và mục tiê u cụ thể, chỉ tiêu
về nấu xấu có thể được xây dựng theo hướng thắt chặt hoặc nới lỏng.
Chỉ tiêu về nợ xấu cần đảm bảo các nội dung định lượng (tỷ lệ phần trăm so với tổng
dư nợ, doanh số nợ xấu phát sinh) và định tính (định hướng theo ngành, theo thời gian,
theo địa bàn…).
1.4.2.2. Xác định nợ xấu
Việc xác định nợ xấu cần được NHTM thực hiện định kỳ và đột xuất ngay khi khách
hàng hoặc khoản vay có những biểu hiện nhất định :
a) – Dấu hiệu phi tài chính
● Hành vi của khách hàng
+ Tìm cách tránh gặp ngân hàng,miễn cưỡng hoặc chậm cung cấp thông tin tài chính:
Khi không thấy hoạt động kinh doanh đang gặp vấn đề, ban lãnh đạo sẽ thường có xu
hướng liên lạc với ngân hàng ít hơn so với khi đang làm ăn tốt. Khách hàng có những
biểu hiện này, Ngân hàng cần tìm hiểu nguyên nhân đồng thời đánh giá toàn bộ các
khoản vay hiện tại của khách hàng, cảnh báo về khả năng dẫn đến nợ xâu.
● Khả năng quản lý
+ Bằng chứng phát sinh mâu thuẫn trong nội bộ công ty, đặc biệt là trong đội ngũ cán
bộ quản lý : Việc xảy ra mâu thuẫn giữa những người điều hành có thể ảnh hưởng không
nhỏ đến tình hình kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến nguồn thu để trả nợ, tiềm ẩn nợ xấu.
+ Nghỉ ốm dài hoặc bất ngờ của những nhân sự chủ chốt, mất các nhà quản lý cấp cao:
Sự thay đổi bất ngờ và bất thường của đội ngũ cán bộ quản lý là dấu hiệu cảnh báo hoạt
động kinh doanh có sự thay đổi theo chiều hướng bất lợi hoặc có sự vi phạm pháp luật.
+Tin đồn bất lợi về doanh nghiệp : Việc phát sinh tin đồn bất lợi, dù đúng hay không
đúng cũng sẽ có những ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của doanh
nghiệp đối với khách hàng, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh nợ xấu.
+ Đầu tư vào lĩnh vực ngoài kinh nghiệm, chuyên môn, thiếu nhận biết về vị trí của
công ty trên thị trương hoặc về vấn đề cạnh tranh : Trong thời kỳ hội nhập kinh tế sâu

rộng, việc kinh doanh mạo hiểm cũng như không nhận biết được điểm mạnh, điểm yếu
của mình sẽ không thể giúp doanh nghiệp phát triển mở rộng hay ít nhất là giữ vững vị
thế hiện có của mình.
● Hoạt động kinh doanh
+ Có hoạt động pháp lý chống lại khách hàng, bao gồm cả những khó khăn với cơ
quan thuế hoặc hải quan : Việc vi phạm những quy định của phát luật, ngay cả những lỗi
đối với việc kê khai thuế, hải quan sẽ ảnh hưởng tớ quyền được hoạt động kinh doanh
của khách hàng theo quy định của pháp luật, có thể phải ngừng hoạt động đố với những
vi phạm nghiêm trọng.
+ Các nhà cung cấp, nhà phân phối lớn thay đổi chính sách bán ,mua hàng: Việc thay
đổi chính sách của các đối tác, đặc biệt là đối tác lớn sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt
động kinh doanh nói chung, doanh thu, lợi nhuận của khách hàng nói riêng.
+Tình hinh môi trường vĩ mô : Ngân hàng cần nắm được những yếu tố vĩ mô, nằm
ngoài tầm kiểm soát của người vay và ảnh hưởng đến khả năng chả nợ của người vay như
chi phí tăng nhưng lại không thể chuyển một phần sang cho khách hàng, lãi suất cao hơn,
vấn đề về ngành kinh doanh…
Để chủ động đánh giá hoạt động kinh doanh của khách hàng có chịu tác động theo
hướng bất lợi hay không.
b) – Dấu hiệu tài chính
● Kết quả kinh doanh
+ Doanh thu tăng quá nhanh nhưng vốn lưu động không sẵn sàng dù do tăng cường
chính sách bán chịu hoặc phải chịu sức ép cạnh tranh, chênh lệch lợi nhuận biên thấp sẽ
ảnh hưởng tới vốn duy trì hoạt động cũng như khả năng thanh toán của khách hàng.
+ Tốc độ tăng trương lợi nhuận thấp hơn mức bình quân của ngành.
+ Các khoản thu nhập và chi phí bất thường tăng đột biến.
+ Xuất hiện lỗ ròng hoặc lưu chuyển tiền tệ âm.
● Tài sản cố định
+ Giá trị tài sản cố định giảm mạnh : Khách hàng thực hiện bán, thanh lý tài sản nằm
ngoài kế hoạch, dấu hiệu khách hàng có thể gặp khó khăn,chuyển đổi tài sản cố định
thành tài sản cố định lỏng cao hơn,thuận tiện cho việc thu hẹp hoặc ngừng hoạt động.

+Tốc độ đầu tư tài sản cố định tăng quá nhanh : Việc đầu tư tài sản cố định quá mức,
năm ngoài khả năng tài chính cũng như huy động vốn của khách hàng sẽ ảnh hưởng tới
khả năng thanh toán cũng như vốn lưu động phục vụ kinh doanh của khách hàng,
+ Hoạt động của tài sản bất thường : Dấu hiệu cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh
có nguy cơ bị thu hẹp hoặc khách hàng có khó khăn về vốn lưu động để duy trì hoạt động
sản xuất.
● Cơ cấu tài chính và quản lý nợ vay
+ Cơ cấu nợ vay/vốn chủ sở hữu thay đổi đột biến theo chiều hướng tăng tỷ trọng vốn
vay.
+ Tốc độ tăng nợ vay không tương xứng với tốc độ doanh thu.
+ Trì hoãn tăng vốn hoặc tài trợ dài hạn, hoặc tăng vốn nhưng với mức lãi suất cao.
+ Thu nhập để lại có xu hướng giảm dần.
+ Khả năng trả lãi kém đi.
+ Yêu cầu ngân hàng thay đổi các điều khoản đảm bảo hoặc các cam kết trả nợ.
● Các khoản thu và phải trả
+ Vòng các khoản phải thu/phải trả thương mại chậm lại : Giá trị các khoản phải thu
cũng như thời gian các khoản phải thu đều quan trọng. Những khoản pahir thu bị chậm
thanh toán, quá hạn hoặc không thể thu hồi sẽ ảnh hưởng tới năng lực tài chính của khách
hàng. Cùng với đó, các khoản phải trả tăng đột biến cho thấy khách hàng gặp khó khăn,
bắt đầu phải trì hoãn các khoản phải trả và đây cũng chính là một dấu hiệu rõ ràng cho
thấy có vấn đề rắc rối.
+ Các khoản phải thu, phải trả quá tập trung vào một số đối tác.
+ Các khoản dự phòng phải thu khó đòi tăng nhanh.
● Hàng tồn kho
+ Hàng tồn kho quá nhiều : Điều này có thể thấy doanh nghiệp đang vận hành dưới
mức năng lực bán hàng của mình hoặc doanh thu giảm.
+ Nguyên vật liệu mua bị trả lại quá nhiều.
+ Các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho tăng nhanh.
Trên cơ sở những dấu hiệu trên, ngân hàng sẽ thực hiện đánh giá khách hàng, khả năng
thanh toán nợ vay cho ngân hàng để xác định khoản nợ đó là các khoản nợ xấu hay

không. Việc xác định khoản vay là nợ xấu sẽ dựa trên mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng
của các dấu hiệu về tài chính và phi tài chính đến khả năng trả nợ của khách hàng, trên cơ
sở thiết lập một bộ chỉ tiêu quy đổi theo tỷ lệ nhất định tương ứng với khả năng trả nợ
của khách hàng. Thông thường, việc đánh giá khác hàng, khả năng trả nợ cũng như xác
định nợ xấu được các NHTM chuẩn hóa thành hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.
1.2.2.3. Xử lý nợ xấu
Trên cơ sở chính sách nợ xấu, xác định được nợ xấu, việc xử lý nợ xấu cần phải được
lập kế hoạch và triển khai đảm bảo hiệu quả về mặt thời gian và chi phí.
* Đôn đốc thu hồi nợ
Các NHTM cần tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ xấu để từ đó đề ra biện
pháp đôn đốc, thu hồi, xử lý phù hợp với từng khoản vay. Cần quản lý tài chính chặt chẽ
với khách hàng có nợ xấu, đặc biệt là các khách hàng lớn. Đối với các doanh nghiệp đang
hoạt động thì càn tạo ra điều kiện để họ duy trì hoạt động bình thường.
* Tái cơ cấu các khoản nợ, tái cấu trúc doanh nghiệp và
Biện pháp này được áp dụng đối với những khoản nợ có khả năng thu hồi. Sau khi
thương lượng với khách hàng về giải pháp thực thi cũng như yêu cầu cam kết của khách
hàng, Ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp sau :
Thứ nhất, điều chỉnh kỳ hạn nợ: Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ thông thường được
thực hiện thông qua việc hoãn và giảm khối lượng nợ gốc phải thanh toán của kỳ hạn trả
nợ, nhưng không được giảm tổng số dư nợ phải trả. Nếu được sử dụng một cách cẩn
thận, việc điều chỉnh kỳ hạn nợ là một hình thức được chấp nhận khi thực hiện tái cơ cấu
lại nợ.
Thứ hai, gia hạn nợ: Đây là phương án tránh áp lực trả nợ cho khách hàng để hỗ trợ
khách hàng tiếp tục kinh doanh. Ngân hàng cũng có thể xem xét cấp thêm tín dụng giúp
khách hàng vượt qua khó khăn đồng thời tạo khả năng thu hồi các khoản nợ trước. Đây
không phải là biện pháp tốt vì nó mang tính mạo hiểm cao.
Thứ ba, giảm, miễn một phần nợ lãi vay phải trả: Giải pháp này có thể được xem xét
áp dụng tùy thuộc vào thiện chí trả nợ vay của khách hàng và tuân thủ theo các quy định
hiện hành của Nhà nước và của từng Ngân hàng. Việc giảm, miễn lãi đối với khách hàng
coi như sự hy sinh một phần doanh thu của Ngân hàng để có thể tận thu hồi được nguồn

vốn đã cho vay.
Thứ tư, chứng khoán hóa các khoản nợ: Ngân hàng có thể chuyển các khoản nợ xấu
thành vốn cổ phần đối với các doanh nghiệp cổ phần hoặc trái phiếu. Ngân hàng áp dụng
biện pháp này khi các khách hàng gặp khó khăn nhưng được đánh giá là có triển vọng
phục hồi. Trong trường hợp khách hàng là cổ đông của Ngân hàng thì Ngân hàng có thể
tạo điều kiện để cổ đông đó bán cổ phiếu cho bên thứ ba để trả nợ cho Ngân hàng.
* Xử lý tài sản đảm bảo, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Khi các khoản nợ xấu không thể cơ cấu, khách hàng không thanh toán hoặc không có
khả năng thanh toán nợ thì Ngân hàng sẽ tiến hành các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm
hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
+ Thanh lý tài sản bảo đảm tiền vay: Thông thường khi xét duyệt cho vay, khách hàng
cần có tài sản đảm bảo nhất định để đảm bảo cho nghĩa vụ nợ tại ngân hàng. Khi khách
hàng không trả nợ, ngân hàng sẽ xem xét áp dụng biện pháp xử lý tài sản bảo đảm để thu
hồi nợ. Tài sanrsau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý để bàn giao cho ngân hàng, ngân
hàng có thể sự tự bán công khai tài sản; hoặc bán qua trung tâm bán đấu giá tài sản; hoặc
bán cho công ty mua bán nợ.
+ Quản lý,khai thác tài sản : Tùy theo trường hợp cụ thể, ngân hàng có thể tiếp nhận tài
sản, tiếp tục quản lý, khai thác tài sản để thu hồi nợ.
+ Yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh : Trong trường hợp việc đòi nợ
từ phía người vay gặp khó khăn, ngân hàng có thể yêu cầu người bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh dưới hình thức thanh toán nợ trực tiếp hoặc xủa lý tài sản bảo đảm của
người bảo lãnh.
* Bán các khoản nợ
Ngân hàng thường áp dụng biện pháp này khi không muốn mất thời gian hoặc bản
thân ngân hàng đã có một tổ chức chuyên môn hóa trong việc xử lý nợ đó là Công ty
Quản lý nợ và khai thác tài sản. Việc bán lại các khoản nợ xấu cho một tổ chức khác sẽ
giúp ngân hàng giảm thiểu được nợ xấu. Tuy khoản nợ với giá trị thấp hơn quyền đòi nợ
hiện tại, từ đó gây ra những tổn thất nhất định đến kết quả kinh doanh của ngân hàng.
* Xử lý bằng vốn Ngân sách
Nợ xấu phát sinh từ các khoản vay theo chính sách của Chính phủ thì Chính phủ phải

đứng ra giải quyết, bù đắp tổn thất cho các NHTM. Chính phủ sẽ sử dụng vốn ngân sách
để mua lại toàn bộ nợ xấu thuộc diện cho vay theo chính sách của Chính phủ, sau đó xử
lý dần trong một số năm. Biện pháp này có hạn chế do ngân sách là có hạn, Chính phủ
luôn phải cân nhắc chỉ tiêu ngân sách và không phải khoản nợ xấu nào phát sinh cũng
được xử lý trong thời gian ngắn.
1.5. Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu:
1.5.1. Nguyên nhân khách quan.
- Lạm phát cao, sức mua thấp, tồn kho cao -> ứ đọng vốn
- Việc cắt giảm đầu tư công đột ngột năm 2009 -> DN ngành xây dựng, VLXD,
công nghiệp điêu đứng về đầu ra -> NH hạn chế cho vạy -> LS vay quá cao -> phá sản
hàng loạt -> phát sinh nợ quá hạn tăng.
- Chu trình kinh tế đang trong giai đoạn của suy thoái kinh tế trong khi sức chịu
đựng của nhiều doanh nghiệp có hạn và nhiều doanh nghiệp phá sản.
- Những quy định pháp luật nhằm hạn chế, giải quyết tình trạng nợ xấu chưa minh
bạch và chưa hợp lí. Các quy định khi đi vào thực tế trở nên chưa phù hợp, không phát
huy được hiệu quả trong việc giải quyết nợ xấu, dẫn đến tình trạng nợ xấu không giảm
được mà còn tăng thêm. Có thể kể đến những hạn chế như:
• Quy định phân loại nợ xấu chưa rõ ràng, khiến cho việc giải quyết nợ xấu
gặp nhiều khó khăn.
• Quy định về xử lí nợ thông qua việc khởi kiện ra tòa án đối với các khoản
nợ không có tài sản đảm bảo nợ phức tạp, gây khó khăn, mất nhiều thời
gian của các ngân hàng trong quá trình thu hồi nợ.
• Khung pháp lí về việc mua bán nợ chưa hoàn thiện, chưa phát huy hiệu quả
trong hoạt động giải quyết nợ xấu.
- Người gửi tiền có tâm lí lợ tiền gửi bị mất giá nên họ muốn rút tiền ra khỏi ngân
hàng. Trong khi đó thời kì khó khăn như hiện nay người vay tiền luôn có nhu cầu về vay
vốn nhưng khả năng trả nợ lại có nhiều hạn chế. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn
vốn của ngân hàng cũng như những khoản cho vay của ngân hàng cũng trở nên khó đòi.
- Chính sách tiền tệ thay đổi lien tục từ nới lỏng sang thắt chặt, chịu ảnh hưởng
nhiều nhất là giá chứng khoán và giá bất động sản có nhiều biến động gây tác động tiêu

cực gây nên tình trạng mất khả năng thanh tán của nhà đầu tư, nhà đầu cơ làm tăng tỉ lệ
nợ xấu trong lĩnh vực này và làm xấu đi nghiêm trọng bảng cân đối tài sản của ngân
hàng.
- Có thêm sự xuất hiện của các ngân hàng đã giành phân khúc các khu vực doanh
nghiệp, tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước hàng đầu, ngân hàng phải lấn sâu thêm vào
phân khúc hạng trung gồm những doanh nghiệp hạng hai, doanh nghiệp vừa và nhỏ và
khách hàng cá nhân, có độ rủi ro cao hơn nên các ngân hàng thường áp dụng lãi suất cao
hơn cho các đối tượng vay này và đồng thời lại dung bất động sản hay tài sản có tính
thanh khoản khác để thế chấp, trong khi bất động sản hiện nay đóng băng dẫn đến nợ xấu
tăng thêm.
- Khâu xử lí tài sản thế chấp còn vướng nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian.
- Tài sản dảm bảo bị giảm quá nhanh trong một thời gian ngắn như bất động sản,
hang tồn kho một số khu vực và một số loại hàng hóa.
1.5.2. Nguyên nhân chủ quan.
1.5.2.1. Đối với ngân hàng.
- Nới lỏng điều kiện phê duyệt tín dụng: cạnh tranh thu hút khách hàng buộc các
ngân hàng phải nới lỏng điều kiện tín dụng: tỷ lệ cho vay/ tài sản đảm bảo, tín chấp, cầm
cố hàng hóa không giám sát chặt chẽ món vay; tỷ lệ cho vay/ nhu cầu vốn
- Do đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ ngân hàng kém dẫn đến rút ruột ngân
hàng. Thực tế cho thấy, nhiều cán bọ ngân hàng đã thông đồng với khách hàng, cho vay
khống dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như khó đòi dẫn đến nợ xấu cho ngân hàng.
-Do tình trạng sở hữu chéo. Một số nghiên cứu cho thấy hệ thống ngân hàng đã
hình thành một mạng lưới sở hữu chéo và cho vay theo quan hệ rất phức tạp, nhằm mục
đích thâu tóm ngân hàng, thu xếp vốn cho những đầu tư dự án không minh bạch. Rất
nhiều công ty lớn, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế nhà nước và các tập đoàn cổ phần, dù
không thuộc lĩnh vực tài chính nhưng hiện đang đầu tư dài hạn với vai trò nhà sáng lập,
nhà đầu tư chiến lược trong các ngân hàng thương mại. Chưa kể các ngân hàng cũng sở
hữu cổ phần lẫn nhau, cổ đông tại các ngân hàng thương mại là các công ty quản lý quỹ
đầu tư vốn vào những ngân hàng khác có tiềm năng. Hiện không ít tập đoàn, tổng công ty
nhà nước và tư nhân cũng đang đầu tư, sở hữu chéo khi họ có trong tay khá nhiều ngân

hàng. Tình trạng sở hữu chéo này dẫn đến tình trạng các ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp sở hữu ngân hàng này có thể dễ dàng vay vốn từ các ngân hàng kia,
hoặc dễ dàng cho các công ty con của doanh nghiệp có vốn sở hữu tại ngân hàng vay
vốn, thậm chí khi tôt chức tín dụng lớn chiếm cổ phần chi phối ngân hàng khác và biến
ngân hàng thành sân sau của mình, họ có thể buộc các ngân hàng đó cấp tín dụng cho
những dự án không an toàn dẫn đến nợ xấu.
- Khâu thẩm định hời hợt: trừ một số ít khách hàng có phát sinh nợ xấu bắt nguồn
từ nguyên nhân khách quan như: kinh doanh thu lỗ, công nợ khó đòi, khó khăn do thay
đổi cơ chế, thay đổi chính sách tăng trưởng của nhà nước thì hầu hết các khoản nợ xấu
bắt nguồn từ khâu thẩm định quá hời hợn của cán bộ tín dụng. Do không xác định được
quy mô kinh doanh của các khách hàng, khả năng cạnh tranh của khách hàng đối với
ngành nghề mà khách hàng đang kinh doanh, không xác định được các nguồn thu của
khách hàng từ đâu và về đâu để có thể đưa ra một mức cho vay và cách thức giám sát hợp
lí. Cán bộ ngân hàng còn hời hợt trong phần kiểm tra sử dụng vốn, dẫn đến không phát
hiện kịp thời những khó khăn của khách hàng. Không ít khách hàng sử dụng vốn không
đúng mục đích như dùng vào mua sắm, sử nhà, tiêu sài các nhân, Đến khi kinh doanh
thua lỗ, không còn nguồn để trả nợ ngân hàng -> phát sinh nợ xấu.
- Nguồn cung cấp thông tin bị hạn chế: Ngoài những thông tin do khách hàng
cung cấp cán bộ tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn với các kênh thông tin về khách hàng.
Rất khó kiểm định hết được thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Một số
cán bộ muốn đẩy phần rủi ro cho ngân hàng bằng cách chỉ cung cấp những thông tin tốt
về khách hàng khi ngân hàng hỏi. Ngân hàng chưa có sự liên thông với thuế, hải quan,
để kiểm chứng thông tin tài chính do khách hàng cung cấp. Hệ thống kế toán còn nhiều
bất cập. Nhiều doanh nghiệp sử dụng đồng thời hai hệ thống kế toán , một luôn lỗ hoặc
lợi nhận rất thấp để đối phó với cơ quan thuế, một rất đẹp khi quan hệ với ngân hàng.
- Khâu quản trị rủi ro tại mỗi ngân hàng còn kém: hiện nay việc xếp hạng tín dụng
nội bộ khách hàng của tổ chức tín dụng mang tính chất khách quan. Các ngân hàng chưa
xây dựng được thước đo lượng hóa rủi ro nên chưa tính toán chính xác được yếu tố này
dẫn đến quyết định cho vay, phân laoij nợ chưa chính xác. Những khoản rủi ro to được
làm bé đi, khỏa vay bé thì làm cho nó to lên.

- Có nhiều khoản nợ nhỏ, lẻ gây nhiều khó khan trong việc kiểm soát cũng như
đôn đốc các khoản nợ đến hạn phải trả.
1.5.2.2. Đối với khách hàng.
- Phụ thuộc quá nhiều vào vay vốn có DN có tỷ vay lên đến 80-90% tổng tài sản
dẫn đến khi lãi suất cho vay biến động tăng ngoài dự kiến -> lợi nhuận kinh doanh không
đủ trả lãi -> nợ xấu
- Khách hàng thiếu thiện chí với ngân hàng mặc dù có nguồn thu nhập để trả, trốn
tránh nhân viên gây khó khăn trong công tác đòi nợ.
- Đầu tư ngoài ngành, kể cả những ngành không liên quan đến hoạt động chính
dẫn đến phân tán nguồn vốn làm thiếu hụt vốn sản xuất ngưng trệ dẫn đến phá sản -> nợ
không trả được cho ngân hàng -> nợ xấu
- Một số doanh nghiệp khi thực hiện các dự án lớn thì lại chia nhỏ dự án đó để tìm
tài trợ từ nhiều ngân hàng khác nhau, qua đó giúp doanh nghiệp dễ dàng vay vốn cũng
như giảm bớt sự kiểm soát của ngân hàng. Do đó ngân hàng không kiểm soát được dẫn
đến nợ xấu.
- Nhiều doanh nghiệp cùng đem một tài sản thế chấp tại nhiều ngân hàng khác
nhau rồi đem đầu tư không đúng mục đích làm cho các khoản nợ này của ngân hàng trở
nên khó đòi thậm chí là mất.
- Nhiều doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính thiếu hiệu quả, hoạt động kinh
doanh yếu kém, thua lỗ.
- Phương pháp kinh doanh không khả thi.
- Sử dụng vốn không đúng mục đích.
- Khả năng dự báo, lập kế hoạch kém.
- Thiếu tính minh bạch trong kế toán.
- Quản trị rủi ro kém.
1.6. Ảnh hưởng của nợ xấu đến ngân hàng thương mại.
Ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng
phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này dẫn đến ngân hàng mất
khả năng thanh khoản. Kết quả làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính của
ngân hàng giảm sút, dẫn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng giảm sút.

Khi một ngân hàng bị rủi ro tín dụng lớn, sẽ ảnh hưởng đến người gửi tiền làm cho
người gửi tiền hoang mang, lo sợ và kéo nhau đến rút tiền, không những ở ngân hàng bị
sự cố mà còn ở những ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thông ngân hàng gặp khó
khăn trong thanh khoản, nếu tình trạng này kéo dài dẫn đến hệ thống ngân hàng bị phá
sản, gây hậu quả xấu cho nền kinh tế.
Các khoản dự phòng tăng lên làm cho lợi nhuận của ngân hàng giảm xuống.
Nợ xấu làm phát sinh những khoản chi phí không đáng có, khi ngân hàng tiến
hành khởi kiện đối với các nợ xấu hông thể thu hồi làm phát sinh khoản tạm ứng án phí,
không chỉ thế khi cơ quan có trách nhiệm tiến hành tịch biên tài sản của khách hàng bị
thua kiện thì tiếp tục phát sinh khoản chi phí thi hành án.
Nợ xấu làm giảm tốc độ chu chuyển vốn của ngân hàng dẫn đến giảm hiệu quả sử
dụng vốn.
Nợ xấu cao và tồn đọng trong thời gian dài sẽ gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tình hình tài chính, vốn chủ sở hữu, tính thanh khoản của ngân hàng làm sụt giảm uy tín
của ngân hàng, thậm chí ngân hàng nhà nước bị quản lí chặt chẽ.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI HIỆN NAY
Nợ xấu của Việt Nam không phải là câu chuyện mới nổi lên. Giữa những năm 1990, tỷ lệ
nợ xấu của Việt Nam dần lên cao và đạt trên 13% vào cuối những năm 1990. Khi đó,
Việt Nam cùng với IMF có một chương trình cải tổ hệ thống NHTM, đưa một số ngân
hàng vào diện giám sát đặc biệt và cải cách DNNN.
2.1. Tình hình chung về nợ xấu của các ngân hàng thương mại từ 2010 đến nay
Theo thống kê của Ngân hàng nhà nước , cuối năm 2010, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
cho vay của hệ thống ngân hàng là 2.5%, chưa bao gồm dư nợ của hệ thống ngân hàng
đối với tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin. Nếu tính thêm cả dư nợ đối
với Vinashin thì tỉ lệ nợ xấu cuối năm 2010 sẽ là 3,2% tổng dư nợ cho vay . trong đó nợ
xấu từ phái doanh nghiệp quốc doanh chiếm đến 60% tổng nợ xấu.
Năm 2011, lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ động công bố tỷ lệ nợ xấu
trong các ngân hàng. Theo đó, nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng ở mức 3,6 - 3,8% tổng dư
nợ. Con số này tới cuối năm 2012, theo công bố của NHNN là 4,08 %, cho dù theo các tổ

chức đánh giá độc lập thì con số thực tế cao hơn nhiều.
Bước sang năm 2013, tỷ lệ nợ xấu vẫn tiếp tục tăng cao, chạm mức 4,67% vào tháng
4/2013. Tuy nhiên, con số mà NHNN vừa cập nhật tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
tính đến tháng 6/2013 chỉ còn ở mức 4,46%, giảm đáng kể so với mức 4,65% tính đến
cuối tháng 5/2013 .Trong năm 2013, tỷ lệ cao nhất ghi nhận vào tháng 10 với 4,73%, tức
nợ xấu đã giảm gần 1 điểm phần trăm chỉ sau vài tháng.
Dữ liệu cập nhật mới nhất cho thấy, nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) đã giảm
tháng thứ 2 liên tiếp với mức đáng kể
Tuy nhiên, con số trên được NHNN cập nhật trên cơ sở báo cáo định kỳ của các TCTD.
Còn con số qua giám sát từ xa của cơ quan này, thường cao hơn nhiều, và hiện chưa có
công bố chính thức để so sánh. Nhiều chuyên gia kinh tế cũng lo ngại, con số thực mà
các ngân hàng chưa công bố còn cao hơn mức trên không ít. Vì vậy, trên thực tế, nợ xấu
vẫn là vấn đề đáng báo động.
Hiện tại, đã có khoảng 15 ngân hàng công bố báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2013.
Trong số các ngân hàng đã niêm yết thì tỷ lệ nợ xấu của SHB đang dẫn đầu với 9%, tiếp
đến là Navibank với 6,1% và TechcomBank (5,28%). Các ngân hàng còn lại đều có nợ
xấu dưới 3% như ACB 2,99%; Sacombank 2,55%; Vietinbank 2,1%; Vietcombank
2,81%; Eximbank 1,49% và MB 2,44%.
Như vậy, theo báo cáo của các ngân hàng, nợ xấu có vẻ đã giảm khi hầu hết ngân hàng
đều có tỷ lệ nợ xấu dưới mức 3%- mức được xem là an toàn, nằm trong tầm kiểm soát.
Tuy nhiên, theo tính toán, các ngân hàng này chiếm khoảng 75% tổng dư nợ của toàn hệ
thống. Điều này cho thấy, các khoản nợ xấu vẫn đáng lo ngại, đặc biệt là sự gia tăng liên
tục của nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Tại thời điểm 30/06/2013, nợ nhóm 5 đã
chiếm gần 50% tổng nợ xấu của các ngân hàng này, tức là chỉ tính riêng với nhóm các
ngân hàng niêm yết đã lên tới hơn 14 nghìn tỷ đồng.
Theo NHNN, hiện tại nợ xấu của hệ thống ngân hàng xung quanh mức 3% và mục tiêu
cơ quan này đề ra cho năm nay là trường hợp xấu nhất thì cũng chỉ dưới 5%. Bản thân
mục tiêu đề ra như vậy cũng cho thấy vấn đề nợ xấu có chiều hướng tiếp tục tăng.
Nếu chỉ nhìn con số tổng thể đó thì không có gì là ghê gớm, nhưng đi sâu vào phân
tích thì thực sự có không ít vấn đề.

 Thứ nhất, rủi ro của hệ thống tài chính và ngân hàng mang tính hệ thống, nghĩa là
một đổ vỡ nào đó nếu không được xử lý tốt sẽ khiến cả hệ thống bị ảnh hưởng
theo. Cho nên, bên cạnh con số trung bình đó, phải nhìn con số của từng định chế
tài chính riêng biệt. Con số trung bình chưa nói lên được nhiều điều. Nếu định chế
tài chính lớn mà nợ xấu lớn thì mức công phá, lan toả của sự rủi ro lớn, còn nếu
định chế nhỏ thì dễ "thoát hiểm" hơn. Đằng sau đó là hệ thống cảnh báo, khắc
phục như thế nào thì Việt Nam cũng ít nhiều đã có kinh nghiệm, cũng như những
bài học của nhiều nước trong các cuộc khủng hoảng tài chính.
 Thứ hai, gắn với rủi ro liên quan đến bất động sản, vì đó thường là các khoản vay
lớn và tính lành mạnh của NHTM phụ thuộc vào sự lên dốc và xuống dốc của bất
động sản, cũng như tài sản được thế chấp vào ngân hàng. Cái đẹp, cái tốt hay cái
xấu trong bản cân đối tài sản NHTM phụ thuộc không nhỏ vào biến động của thị
trường bất động sản.
 Thứ ba, đặc thù ở Việt Nam là mối quan hệ giữa tín dụng và DNNN. Mặc dù tỷ
trọng cho vay đối với khu vực này nhỏ dần, từ 70 - 80% đầu những năm 1990 nay
còn 30 - 35% trong tổng tín dụng, nhưng vẫn là con số lớn. Những yếu kém của
khu vực DNNN, sự đổ vỡ của Vinashin, nguy cơ rủi ro của một vài tập đoàn sau
khi được kiểm toán là những mầm mống chứa đựng rủi ro tín dụng, nợ xấu tăng
của hệ thống NHTM.
 Thứ tư, độ chính xác và minh bạch thông tin. Ví dụ, con số nợ xấu/nợ quá hạn từ
trước đến nay vẫn nói là theo thông lệ Việt Nam. Thông lệ này đang dần được
hoàn thiện theo chuẩn mực quốc tế, tuy nhiên vẫn còn khoảng cách khá lớn. Nhiều
chuyên gia cho rằng, nếu tính theo đúng chuẩn quốc tế thì tỷ lệ nợ xấu và quá hạn
của Việt Nam sẽ cao gấp khoảng 3 lần con số được công bố. Điều quan trọng nữa,
như đã nói ở trên, là con số đó ở từng định chế tài chính là bao nhiêu. Nói chung,
trong số các rủi ro của hệ thống NHTM Việt Nam, nợ quá hạn và nợ xấu vẫn là
một rủi ro tiềm ẩn và phải hết sức quan tâm.
2.2. Thực trạng quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương
mại
2.2.1. Tỷ lệ nợ xấu đối với tín dụng bất động sản và cho vay phi sản suất

Như đã biết thì hầu hết các ngân hàng thường cho vay ở nhiều lĩnh vực khác nhau như
cho vay sản xuất và cho vay phi sản xuất, xuất khẩu, phát triển nông thôn. Theo như các
chuyên gia kinh tế phân tích thì những khoản cho vay phi sản xuất thường không được ưu
tiên và khuyến khích so với các lĩnh vực khác bởi vì tỉ lệ rủi ro cao và dễ gây ra nợ xấu.
đó là lí do tại sao ngân hàng nhà nước quy định tỉ lệ tối đa các ngân hàng cho vay vào
lĩnh vực phi sản xuất không vượt quá 16%. Tỷ trọng cho vay phi sản xuất tính đến cuối
năm 2011 là 14.7%. tương ứng với con số cụ thể hơn 400.000 tỷ đồng cho vay ở lĩnh vực
“phi sản xuất”.
Thống kê toàn hệ thống ngân hàng đến 31/12/2011, tổng dư nợ cho vay bất động sản là
201.000 tỷ đồng giảm 14.25% so với 31/12/2010, chiếm khoảng 8.45% tổng dư nợ của
toàn hệ thống. nếu chỉ xét trên toàn hệ thống của ngân hàng việt nam, thì tỉ lệ nợ xấu
trong lĩnh vực bất động sản chỉ chiếm 8.45% tổng dư nợ, nhưng khi xét riêng trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh, nơi mà thị trường bất dộng sản được đánh giá là khá sôi động,
thì tỉ lệ này lại là 1 con số rất đáng quan tâm. Theo báo cáo của ngân hàng nhà nước chi
nhánh thành phố Hồ Chí Minh, tính đến cuối tháng 7 năm 2012, dư nợ cho vay bất động
sản lên đến 89.530 tỷ đồng, chiếm 11,96% so với tổng dư nợ, giảm 8.88% so với năm
2010. Nợ xấu bất động sản chiếm 3.8% trong tổng dư nợ bất động sản, trong đó khối
ngân hàng cổ phần có tie lệ nợ xấu bất động sản cao nhất, chiếm 2,61% trong tổng dư nợ
cho vay bất động sản của khối này.
Đến 31/8/2012 dư nợ tín dụng bất động sản khoảng 203000 tỷ đồng, trong đó nợ xấu
chiếm 6,6%. Trong khi đó, dư nọ tín dụng liên quan đến bất động sản , như vay kinh
doanh bất dộng sản , vay đầu tư sản xuất kinh doanh và thế chấp bằng bất động sản…
vào khoảng 57% tổng dư nợ, tức là khoảng hơn 1 triệu tỉ đồng.
- Tỷ lệ nợ xấu đối với khoản vay đầu tư chứng khoán.
Cùng với tín dụng bất dộng sản, tín dụng đầu tư chứng khoán cũng được xem là lĩnh vực
không được khuyến khích phát triến tín dụng. do đó ngân hàng nhà nước giới hạn tỷ
trọng dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán không
vượt quá 16% tổng dư nợ tín dụng. chỉ có những ngân hnagf có tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư
nợ không vượt quá 3% thì mới đủ điều kiện để cấp tín dụng cho những khách hàng đầu tư
chứng khoán. Nếu căn cứ theo quy định này thì tổng dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán

tính trên toàn hệ thống phải rất thấp vì không có mấy ngân hàng đủ tiêu chuẩn để cho vay
đối với những khách hàng đầu tư chứng khoán, hầu hết các ngân hàng đều có tỉ lệ nợ xấu
vượt mức 3% trên tổng dư nợ. tuy nhiên trên thực tê thì lại khác, theo thống kê của ngân
hàng nhà nước hiện nay dư nợ cho vay để đầu tư kinh doanh cổ phiếu của các ngân hàng
thương mại Việt Nam chiếm 6.5% vốn tự có, và tổng dư nợ cho vay ở lĩnh vực này lên
đến hơn 10000 tỷ đồng, nếu tính cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tính đến ngày
31/5/2012, dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán khoảng 12000 tỷ đồng tương đương
khoảng 6.5% dư nợ cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản và con số nợ xấu cho vay
BĐS chiếm 10.3% tổng nợ xấu của hệ thống và nợ xấu khoảng 485 tỷ đồng.
Cùng với kết quả nghiên cứu của nhóm chuyên gia thuộc trung tâm nghiên cứu kinh tế và
chính sách thì tỉ trọng dư nợ chứng khoán và bất động sản chiếm 10 đến 12% tổng dư nợ
hệ thống ngân hàng. Kết hợp với tỷ lệ dư nợ bất động sản của toàn bộ hệ thống ngân hàng
là 8,45% tổng dư nợ thì tỉ lệ dư nợ của những khoản đầu tư vào chứng khoán tính được là
1.55-3.55%.
Nhìn chung cho vay bất động sản và cho vay đầu tư chứng khoán là những lĩnh vực
không được khuyến khích, nhứng trên thực tế thì dư nọ trên 2 lĩnh vực này lại khá cao, do
đó nguy cơ nợ xấu cũng có xu hướng tăng.
- Tỷ lệ nợ xấu đối với các doanh nghiệp nhà nước.
Trong những đối tượng vay tín dụng ở ngân hàng thì các doanh nghiệp quốc doanh là 1
trong những đối tượng lớn của khách hàng, đặc biệt là các ngân hàng quốc doanh hoặc
các ngân hàng thương mại mà cổ phần nhà nước chiếm đại đa số như viettinbank,
vietcombank, Agribank, ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam… vì vậy tỉ lệ nợ xấu ỏ
các ngân hàng này cao hơn mức toàn ngành là 3.3%(tính dến cuối 2011). Cụ thể nợ xấu
của các ngân hàng thương mại nhà nước là 3.76% và ngân hàng thương mại cổ phần
ngoài quốc doanh lên tới 4.73%. đơn cử trong nhóm ngân hàng nhà nước, agribank có tỉ
lệ nợ xấu cao nhất lên tới 6.14%, xấp xỉ gấp đôi mức bình quân của ngành, tiếp theo là
vietcombank 3.55%.
2.2.3. Thực trạng xử lí nợ xấu
Mặc dù đã có nhiều ý kiến trao đổi về nợ xấu tại các ngân hàng thương mại (NHTM),
nhưng cho đến nay, vẫn chưa có tiếng nói thống nhất nợ xấu về tỷ lệ nợ xấu của hệ thống

NHTM Việt Nam. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng tỷ lệ nợ xấu trên
tổng dư nợ tại các NHTM khoảng 10%. Trong khi cơ quan Thanh tra NHNN lại đưa ra
con số tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng khoảng 8,6%, tương đương với trên 200.000 tỷ
đồng. Bên cạnh những con số được NHNN công bố nói trên, Ủy ban Giám sát tài chính
quốc gia cũng đưa ra tỷ lệ nợ xấu là 11,8%, tương đương với khoảng 270.000 tỷ đồng.
Thời gian qua các tổ chức tín dụng đã rất tích cực, chủ động trong việc xử lí nợ xấu, với
các giải pháp được sư r dụng chủ yếu là quỹ dự phòng rủi ro, thu nợ bằng tiền, bán nợ
cho VAMC và xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Hiện các ngân ahngf đang tích cực bán nợ
xấu cho VAMC. Điều này sẽ tác động tốt đến quá trình xử lý nợ xấu của các ngân hàng
thương mại.
NHNN cho biết năm 2012 đã thanh tra 32 tổ chức tín dụng và hầu hết các tổ chức tín
dụng đều giảm kết quả kinh doanh sau thanh tra do phải trích lập dự phòng rủi ro đúng
qui định. Nhiều NHTM báo cáo có lãi nhưng qua thanh tra lại buộc trích lập dự phòng
đúng qui định thì dẫn đến lỗ, giảm vốn điều lệ thậm chí có NH không còn vốn điều lệ.
Chính phủ thành lập Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) sẽ có vốn điều lệ 500
tỷ đồng. Mục tiêu chính của AMC là góp phần xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng về
mức an toàn; thêm khả năng tái tạo vốn cho họ để thúc đẩy nguồn cho vay đối với nền
kinh tế, góp phần giảm lãi suất cho vay.
VAMC sẽ mua nợ của các NHTM, được sử dụng quyền của chủ nợ trong việc thu hồi
nợ: đòi nợ và xử lý nợ, có quyền điều chỉnh cơ cấu lại khoản vay, điều kiện trả nợ,
chuyển nợ thành cổ phần của khách vay, bán tài sản đảm bảo…Trong quá trình xử lý nợ
xấu, VAMC không lấy tiền ngân sách để xử lý nợ xấu mà sẽ phát hành trái phiếu có thời
hạn trong 5 năm để mua nợ với mức lãi suất trái phiếu 0%. Trong thời gian này, mỗi
năm, các NHTM phải trích lập dự phòng rủi ro 20% cho trái phiếu. Điều này dẫn đến
cung thanh khoản của NHTM được cải thiện, tránh mất khả năng thanh khoản vì từ
khoản nợ xấu khó thu hồi đã trở thành trái phiếu (dự trữ thứ cấp) dễ chuyển đổi thành tiền
trên thị trường mở, các NHTM được bổ sung vốn khả dụng, nhằm bảo đảm hỗ trợ khả
năng thanh toán của mình và điều tiết thị trường tiền tệ, góp phần giảm lãi suất cho vay,
phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế.
Để giảm nợ xấu, nhiều ngân hàng tìm cách đưa tỷ lệ nợ xấu xuống mức thấp (dưới 3%).

Họ có thể áp dụng nhiều cách như hỗ trợ giải ngân cho khách hàng để đảo nợ, thực hiện
giải ngân lòng vòng giữa các ngân hàng hoặc mua chéo nợ của nhau… Nợ được phân
thành 5 nhóm, từ nhóm 3 đến nhóm 5 mới bị coi là nợ xấu. Nhưng nhờ tái cơ cấu, doanh
nghiệp được khoanh nợ, giãn nợ nên nợ nhóm 3 được đẩy lên nhóm 2, nợ nhóm 4 lên nợ
nhóm 2. Nợ xấu được giảm đi rõ song bản chất của những khoản nợ đó vẫn không vì vậy
mà bớt xấu đi. Vì vậy, khó quy được về giá trị tuyệt đối của nợ xấu và cũng khó để giải
quyết bài toán nợ xấu đang ngày càng xấu đi.
Theo các chuyên gia, các ngân hàng đưa nợ xấu về mức dưới 3% nhằm 2 mục đích là
không phải bán nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng Việt Nam
(VAMC) và giảm trích lập dự phòng rủi ro.
Theo quy định, các tổ chức tín dụng có nợ xấu trên 3% bắt buộc phải bán nợ cho VAMC,
nhưng khi bán nợ rồi thì vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro 20%/ năm cho số đã bán, sau
5 năm số nợ này VAMC không xử lý được thì lại trả về cho các TCTD.
Vì vậy nhiều tổ chức tín dụng không muốn bán nợ cho VAMC, bởi bán nợ rồi mà vẫn
phải trích lập dự phòng rủi ro. Nợ xấu khi còn thuộc về các tổ chức tín dụng thì họ có
toàn quyền xử lý, nay phải phụ thuộc vào 1 tổ chức khác mà chưa biết thế nào. Để tránh
phải bán nợ thì chỉ có cách là đưa về mức dưới 3%.
Điều thứ 2 là nếu tỷ lệ nợ xấu thấp, ở mức 3% thì đương nhiên việc trích lập dự phòng sẽ
thấp và chi phí thấp, sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn. Vì vậy nhiều ngân hàng trong thời
gian qua đã "nhanh chóng" xử lý để đưa nợ xấu về con số an toàn.
Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Cao Sĩ Kiêm cho biết, bản thân các ngân hàng
lớn hay nhỏ, hoạt động tốt hay không đều có xu hướng giấu nợ xấu. Ngân hàng nhỏ giấu
vì sợ nếu lộ ra sẽ bị phân biệt đối xử, khách hàng rút chạy. Còn những ngân hàng lớn,
giấu nợ xấu, trích dự phòng rủi ro thiếu để tăng lợi nhuận, kích giá cổ phiếu cũng như thu
hút khách hàng.
Đi cùng với giải pháp này, Ngân hàng Nhà nước cũng đã triển khai các giải pháp khác có
trong đề án xử lý nợ xấu như tiếp tục hoàn thiện các chính sách bổ trợ khác, như cơ chế
phân loại nợ mới bắt đầu thực hiện từ tháng 6/2013; sửa đổi, bổ sung các tiêu chuẩn an
toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, dự kiến cũng sẽ được ban hành.
Hiện nay, quản trị rủi ro tín dụng tại mỗi ngân hàng thường theo những khẩu vị rủi ro

riêng. Vấn đề này đã dẫn đến một số bất cập trong việc so sánh, đánh giá cùng một đối
tượng khách hàng nhưng lại có kết quả khác nhau, nhiều khi xung đột (cùng 1 khách
hàng, có ngân hàng phân loại vào nhóm nợ cao, có ngân hàng lại phân loại vào nhóm nợ
thấp). Mặt khác, việc triển khai xếp hạng khách hàng đòi hỏi đội ngũ chuyên gia nhiều
kinh nghiệm thực tiễn cũng như am hiểu sau sắc mô hình xếp hạng tín dụng (modelling),
trong khi thị trường nhân lực hiện tại của Việt Nam còn rất thiếu.
Ở Việt Nam, trên 90% là DN nhỏ và vừa, không ít DN có báo cáo tài chính không
chuẩn xác, lại không qua kiểm toán. Ngay cả đối với các DN lớn được kiểm toán thì sự
chậm trễ trong công bố báo cáo tài chính cũng như chất lượng kiểm toán chưa cao cũng
gây nhiều khó khăn cho các ngân hàng. Vì thế, việc dựa vào một số thông tin đầu vào để
cấp tín dụng, đã dẫn đến một số khoản vay vừa ra khỏi ngân hàng đã khó có khả năng
thu hồi. Đặc biệt, khi ngân hàng và DN lại có mối quan hệ “mật thiết”, phụ thuộc lẫn
nhau (sở hữu chéo) thì nguồn lực dễ bị phân bổ sai lệch, bất hợp lý, cho vay bất chấp các
quy định về an toàn vốn, nợ xấu tất yếu sẽ tăng lên.
Tóm lại, những bất cập trong phân loại nợ, vấn đề sở hữu chéo, vấn đề đạo đức nghệ
nghiệp đã làm giảm hiệu quả xử lí nợ xấu tại các ngân hàng và có chiều hướng ngày
càng tăng. Cho dù nợ xấu ở mức nào thì hiện tại đã và đang tác động tiêu cực đến điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN, đến việc lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế và tính
an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Chừng nào chưa xử lý được vấn
đề này thì việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ không đạt hiệu quả.
2.3. Đánh giá về thực trạng nợ xấu và quản lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại
ở việt nam
2.3.1. Kết quả đạt được
Những gì nền kinh tế và hệ thống ngân hàng đã phải trải qua trong năm 2012 chắc
hẳn tất cả mọi người dân đều cảm nhận được và chúng ta không cần phải nhắc lại. Nhưng
có một vấn đề không thể không nói đến là năm 2012 nền kinh tế khó khăn thì hệ thống
ngân hàng cũng không thể thuận lợi. Điều này thể hiện qua những khó khăn của nền kinh
tế và sự đi xuống của điều kiện kinh doanh nói chung trong thời gian qua đã đưa đến hậu

×