Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

luận văn kinh tế luật Pháp luật về uỷ thác xuất nhập khẩu và thực tiễn pháp lý trong hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.67 KB, 59 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ
hơn bao giê hết. Hội nhập để cùng tồn tại và phát triển là một tất yếu khách
quan của bất kỳ một nền kinh tế nào. Trong nhưng năm qua cùng với sự cố
gắng của mình, nước ta đang tiến nhanh đến tiến trình hội nhập cùng khu vực
và thế giới. Xuất nhập khẩu là một hoạt động quan trọng nhằm thúc đẩy quá
trình hội nhập, cũng như phát triển nền kinh tế trong nước. Nước ta có thế
mạnh là các sản phẩm nông nghiệp, đây là nguồn hàng xuất khẩu chính ra thị
trường nước ngoài. Cùng với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác thì Cà phê
đã đóng góp không nhỏ vào kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, góp
phần nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là các tỉnh miền núi nơi có các
dân téc Ýt người sinh sống.
Để đảm bảo cho hoạt động xuất nhập khẩu được tiến hành thuận lợi
Nhà nước ta đã ban hành khá nhiều văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh quan
hệ này. Trong đó quy định về hình thức mua bán hàng hoá thông qua uỷ thác
là một quy định rất qua trọng góp phần không nhỏ giúp cho các doanh
nghiệp có thể tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu của mình một cách thuận
lợi và có hiệu quả cao.
Tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam ngoài việc tự tiến hành các hoạt
động xuất nhập khẩu cho chính công ty thì Tổng công ty còn thực hiện
thêm nghiệp vụ nhận uỷ thác của các doanh nghiệp khác để tiến hành các
hoạt động xuất nhập khẩu trong phạm vi kinh doanh của Tổng công ty.
Sau quá trình thực tập tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam, với mong
muốn tìm hiểu thêm các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ xuất nhập
khẩu hàng hoá và uỷ thác xuất nhập khẩu hàng hoá, kÕt hợp với thực tiễn áp
1
dụng các quy định trên tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam, qua đó đánh giá
về vấn đề áp dụng luật pháp trong kinh doanh, nhằm nâng cao thêm về thực
tiễn của những kiến thức đã học.
Vì vậy tôi chọn đề tài “Pháp luật về uỷ thác xuất nhập khẩu và thực
tiễn pháp lý trong hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu tại Tổng công ty Cà


phê Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu báo cáo thực tập chuyên ngành.
Trên cơ sở khảo sát, tìm hiểu các vấn đề lý luận, các văn bản pháp luật
liên quan, kết hợp với việc tìm hiểu thực tế áp dụng các văn bản đó tại Tổng
công ty Cà phê Việt Nam, đề tài được chia thành các phần sau:
Phần I: Chế độ pháp lý về xuất nhập khẩu và uỷ thác xuất nhập khẩu;
Phần II: Thực tiễn áp dụng các chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu tại Tổng
công ty Cà phê Việt Nam.;
Phân III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động nhận uỷ thác
xuất nhập khẩu tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam;
Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo
Phạm Văn Luyện và các cô chú trong Tổng công ty Cà phê Việt Nam.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Văn Luyện và các cô chú
trong Tổng công ty đã tận tình chỉ bảo tôi trong suốt thời gian thực tập.
2
PHẦN I
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ XUẤT NHẬP KHẨU
VÀ UỶ THÁC XUẤT NHẬP KHẨU
I. HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT
ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.
1.Vị trí, vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đối với vấn đề phát
triển kinh tế đất nước.
1.1.Khái niệm xuất nhập khẩu.
Từ xa xưa, việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đã diễn ra nh mét
nhu cầu tất yếu khách quan. Tới thế kỷ 15- 16 thì việc buôn bán giữa các
quốc gia đã khá phát triển và cho đến nay thì hoạt động này đã diễn ra liên
tục, ngày càng trở nên sôi động. Hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá vượt
ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia như vậy được gọi là hoạt động ngoại
thương hay còn gọi là hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, đó là một ngành
kinh tế thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá giữa thị trường trong nước
và nước ngoài, hoạt động trao đổi hàng hoá ở phạm vi quốc tế. Khoản1

Điều2 Nghị định 57/1998/NĐ- CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết Luật
Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán
hàng hoá với nước ngoài định nghĩa như sau: “hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá là hoạt động mua, bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam
với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm
cả hoạt động tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu hàng hoá”.
Xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ không phải là những hành vi buôn bán
3
riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong thương mại có tổ
chức từ bên trong ra bên ngoài nhằm thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng
hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống
nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ với người
nước ngoài nhằm thu ngoại tệ (theo nguyên tắc thương mại đó là lợi thế so
sánh) tăng tích luỹ cho Ngân sách Nhà nước, phát triển sản xuất kinh doanh,
khai thác những ưu thế tiềm năng của đất nước. Đây là mội trong những hình
thức kinh doanh quốc tế quan trọng nhất, nó phản ánh quan hệ mua bán, trao
đổi hàng hoá vượt qua biên giới của một quốc gia, giữa thị trường nội địa với
các khu chế xuất. Các quốc gia khác nhau khi tham gia vào các hoạt động
thương mại thì phải tuân theo các quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế,
còng nh các tập quán của địa phương. Hoạt động xuất khẩu được đánh giá là
hoạt động kinh tế quốc tế cơ bản đối với tất cả các quốc gia trên thế giới.
Hoạt động xuất khẩu phản ánh mối quan hệ xã hội và sự phụ thuộc lẫn nhau
về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt ở mỗi quốc gia.
Hoạt động này cũng là chiếc chìa khoá mở ra con đường thâm nhập phát
triển thị trường của một quốc gia trên thương trường quốc tế.
Hoạt động nhập khẩu là việc mua các hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài
về trong nước nhằm phục vụ cho đời sống, sản xuất trong nước, bổ sung
những thiếu hụt mà nền sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng được. Không
có một quốc gia nào có thể tồn tại riêng biệt với các quốc gia khác mà phát

triển bởi vì ở mỗi quốc gia thì có các lợi thế khác nhau về tài nguyên, công
nghệ…. Hoạt động nhập khẩu có tác dụng to lớn trong việc đưa nền kinh tế
trong nước hội nhập nền kinh tế thế giới, bắt kịp sự phát triển của khoa học
công nghệ hiện đại.
4
1.2.Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế và
doanh nghiệp.
Hoạt động xuất nhập khẩu có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong nền
kinh tế mỗi quốc gia. Để thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát triển, các
quốc gia đưa ra những điều kiện thuận lợi để khuyến khích xuất khẩu, tạo
điều kiện mở rộng thị trường, mở rộng nhu cầu thị hiếu, từ đó kích thích
nâng cao chất lượng sản phẩm, thu được nhiều ngoại tệ, thu hót vốn đầu tư,
tăng thu nhập quốc dân. Một quốc gia có kim ngạch xuất khảu cao là một
quốc gia có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế. Đi đôi với hoạt động xuất
khẩu, hoạt động nhập khẩu cũng giữ vai trò quan trọng không kém. Nhập
khẩu giúp cho việc thoả mãn các nhu cầu của người tiêu dùng và nền sản
xuất trong nước, thu hót khoa học kỹ thuật tiến tiến, tạo ra một môi trường
cạnh tranh giữa những nhà kinh doanh trong nước với những nhà kinh doanh
nức ngoài từ đó nâng cao chất lượng cạnh tranh của hàng nội. Nhìn chung,
xuất khẩu và nhập khẩu là hai mặt của một quá trình, chúng không thể bị
tách rời.
Ngay trong báo cáo chính trị Đại hội Đảng VI, Đảng và Nhà nước ta
đã ghi nhận vị trí quan trọng hàng đầu của hoạt động xuất nhập khẩu trong
kinh tế đối ngoại “Trong toàn bộ công tác kinh tế đối ngoại, khâu quan trong
nhất là đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu”. Thông qua hoạt
động ngoại thương, chúng ta có thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế, xã
hội đã đề ra.
Chóng ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá (CNH-HĐH) cơ sở vật chất còn yếu kém, không đồng bộ, bên cạnh
đó dân số lại đông và phát triển nhanh nên việc đẩy mạnh hoạt động xuất

khẩu sẽ góp phần giải quyết vấn đề việc làm, cải thiện đời sống nhân dân,
5
nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, thúc đẩy kinh tế phát triển. Đây được
coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong việc phát triển kinh tế đất nước.
Đi đôi với hoạt động xuất khẩu thì hoạt động nhập khẩu cũng chiếm vị
trí quan trọng không kém; nước ta còn rất lạc hậu so với thế giới về công
nghệ, khoa học kỹ thuật do đó nhập khẩu là một nhu cầu không thể thiếu để
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cũng như trình độ sản xuất trong nước.
Hoạt động xuất khẩu sẽ tạo cơ sở cho hoạt động nhập khẩu phát triển
và ngược lại. Xuất khẩu sẽ làm tăng ngân sách nhà nước về ngoại tệ, thanh
toán nợ nước ngoài… Thực tế trong những năm qua xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam giữ vai trò quan trọng tạo điều kiện cho việc dần dần thanh toán nợ
nước ngoài, hình thành nhiều ngành sản xuất, nhiều đơn vị sản xuất mới.
Trong khi đó nước ta lại được đánh giá là một nước có nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú và nguồn lao động dồi dào. Do vậy, đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu tức là chúng ta đã phát huy lợi thế này của mình.
Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu chúng ta sẽ có khả năng phát huy
được lợi thế so sánh, sử dụng triệt để các nguồn lực, có điều kiện trao đổi
học hỏi kinh nghiệm cũng như tiếp cận được với các thành tựu khoa học
công nghệ tiên tiến trên thế giới. Qua đó, áp dụng vào nền sản xuất trong
nước tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao để rồi lại xuất khẩu ra nước
ngoài và phục vụ đời sống nhân dân. Đặc biệt đối với hoạt động xuất khẩu
còn góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo nhu cầu của thị
trường nước ngoài là thị trường mà hiện nay các nền kinh tế luôn hướng tới,
từ đó tạo ra công ăn việc làm tăng thu nhập cho người lao động, cải thiện đời
sống nhân dân, thực hiện cả hai mục tiêu phát triển đất nước và công bằng xã
hội, tăng cường hợp tác, năng cao uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc
tế.
6
Đối với các doanh nghiệp thì hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động

không thể thiếu để mở rộng sản xuất và phát triển. Nó cung cấp trang thiết bị,
vật tư, công nghệ cho doanh nghiệp, cung cấp thị trường cho hàng hoá của
doanh nghiệp với lợi nhuận thường là nhiều hơn với thị trường trong nước.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn có thể đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ,
tiếp thu kinh nghiệm quản lý, kiến thức kinh doanh… từ các hoạt động này.
Hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng có ý nghĩa rất quan trọng trong
nền kinh tế cũng như doanh nghiệp khi xu hướng quan hệ quốc tế ngày càng
mở rộng và hoà nhập, là con đường để chúng ta phát huy khả năng và tận
dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và ưu thế trong nước, tiếp thu kiến thức từ
bên ngoài vào phát triển Đất nước nhất là trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1.3. Các hình thức xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu là một lĩnh vực hoạt động tương đối rộng,
bao gồm nhiều hình thức, phương thức khác nhau:
1.3.1 Xuất nhập khẩu trực tiếp.
Xuất nhập khẩu trực tiếp là việc nhà sản xuất trực tiếp tiến hành các
giao dịch với khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Hình
thức này được áp dụng khi nhà sản xuất đủ mạnh để tiến tới thành lập các tổ
chức bán hàng riêng của mình và kiểm soát trực tiếp thị trường. Tuy rủi ro
kinh doanh có tăng lên song nhà sản xuất lại có cơ hội để nâng cao lợi nhuận
nhờ giảm bớt các chi phí trung gian và nắm bắt kịp thời những biến động về
thông tin thị trường để có biện pháp đối phó kịp thời. Xuất khẩu trực tiếp
cũng có thể là nhà xuất khẩu mua các hàng hoá tư các doanh nghiệp sản xuất
trong nước sau đó xuất khẩu các sản phẩm này ra nước ngoài với danh nghĩa
là hàng của mình thông qua các tổ chức của mình.
7
1.3.2 Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Với hình thức này các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng
ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho các doanh nghiệp gia công sau
đó thu hồi thành phẩm xuất lại cho bên nước ngoài, doanh nghiệp sẽ đước

nhận phí uỷ thác theo thảo thuận với các doanh nghiệp trực tiếp chế biến.
1.3.3 Xuất nhập khẩu uỷ thác.
Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp một doanh nghiệp
có hàng hoá muốn xuất, nhập khẩu nhưng không trực tiếp tham gia vào hoạt
động xuất, nhập khẩu hoặc không có điều kiện để tham gia. Khi đó họ sẽ uỷ
thác cho doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu làm dịch vụ xuất
nhập khẩu cho mình. Bên nhận uỷ thác sẽ được thu phí uỷ thác theo hợp
đồng uỷ thác.
Trong tình hình hiện nay, khi các chủ thể tham gia vào thương trường
ngày càng gia tăng, các loại hàng hoá dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú
thì xuất nhập khẩu uỷ thác lại càng là hình thức xuất nhập khẩu được áp
dụng nhiều. Bởi lẽ nó có tác dụng giúp các doanh nghiệp xuất khẩu được
hàng hoá với giá cao, thu hồi vốn nhanh hoặc nhập khẩu hàng theo đúng nhu
cầu mà giá cả lại phải chăng vì những người thực hiện các hoạt động này
thường là những người dày dạn kinh ghiệm trong hoạt động xuất nhập khâủ,
am hiểu thị trường.
Ngoài ra còn có các hình thức khác như: xuất khẩu tại chỗ, tạm nhập
tái xuất… đều là các hình thức mang lại hiệu quả cao và tiện lợi.
2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu.
8
Pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu là toàn bộ các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu.
2.1 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động
xuất nhập khẩu:
Về mặt lý luận, các nhà kinh tế thừa đã nhận rằng “ các nền kinh tế
hiện đại muốn phát triển thì phải dùa vào cơ chế thị trường còng nh sù quản
lý của nhà nước”. Nhà nước quản lý mọi lĩnh vực của nền kinh tế bằng nhiều
công cụ, biện pháp, trong đó pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu nhất.
Nếu pháp luật phản ánh đúng và phù hơp với sự phát triển của các quan hệ

kinh tế thì nó sẽ có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi, định hướng cho các quan
hệ đó phát triển theo các mục tiêu đề ra. Ngược lại, nếu pháp luật không phù
hợp với các quan hệ kinh tế thì nó sẽ làm kìm hãm sự phát triển của nền kinh
tế. Khi các hoạt động xuất nhập khẩu mới ra đời, do tính chất là các hoạt
động kinh doanh vượt ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia nên nó được
điều chỉnh chủ yếu bởi các tập quán thương mại quốc tế. Nhưng các tập quán
này cũng là chưa đủ, nhà nước phải kịp thời ban hành pháp luật điều chỉnh
và định hướng các hoạt động đó sao cho đảm bảo được môi trường kinh
doanh ổn định, lành mạnh. Đồng thời các Điều ước quốc tế về lĩnh vực này
cũng dần dần được ra đời là các Điều ước quốc tế song phương, khu vực
hoặc toàn cầu.
2.2 Về nguồn luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt
Nam:
Trước tiên phải kể đến là các Điều ước quốc tế về lĩnh vực xuất nhập
khẩu mà Việt Nam đã ký kết, tham gia hoặc công nhận. Các Điều ước quốc
tế có tính chất chỉ đạo, điều chỉnh gián tiếp các hoạt động ngoại thương. Các
9
điều ước quốc tế bao gồm: các điều ước đa phương, song phương, công ước,
hiệp ước, hiệp định….
Các điều ước quốc tế đa phương là điều ước quốc tế do từ ba quốc gia
trở lên ký kết hoặc công nhận, tham gia, hiện nay chóng ta đã tham gia ký
kết khá nhiều điều ước đa phương ví dụ như hiệp ước đa phương về hợp tác
kinh tế chính trị giữa các quốc gia Đông Nam Á ( ASEAN), APEC,… đây là
nguồn luật rất quan trọng điều chỉnh quan hệ quốc tế của Việt Nam trong đó
có quan hệ quốc tế về kinh tế, ngoại thương và cụ thể là hoạt động xuất nhập
khẩu. Nước ta cũng đang cố gắng để có thể gia nhập tổ chức thương mại
quốc tế WTO trong thời gian tới vì đầy là tổ chức quan trọng nhất cần phải
tham gia để có thể hoạt động thương mại quốc tế một cách thuận lợi.
Tiếp theo trong nguồn các điều ước quốc tế là các công ước mà Việt
Nam đã ký kết hoặc tham gia. Hiện nay trong quan hệ thương mại quốc tế

các công ước là rất quan trọng, do hiện tượng xung đột luật giữa các quốc gia
với nhau nên nguồn luật quốc tế trở nên rất quan trọng trong quan hệ kinh tế
quốc tế. ví dụ như hiện nay Công ước Viên 1980 được rất nhiều nước tham
gia, đây là nguồn luật cơ bản điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hoá giữa
các quốc gia trên thế giới, nó chỉ rõ các quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ ngoại thương.
Các hiệp định song phương giữa các quốc gia là nguồn luật không thể
thiếu trong quan hệ thương mại quốc tế. Nó điều chỉnh trực tiếp quan hệ mua
bán hàng hoá giữa hai quốc gia ký kết. Hiện nay chóng ta đã ký kết được khá
nhiều các hiệp định thương mại song phương mà đặc biệt là hiệp định
thương mại Việt – Mỹ, ký ngày 13 thàng 7 năm 2000, đây là một hiệp định
song phương giữa ta và Mỹ, trong các Điều ước quốc tế này đã chỉ ra những
nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc tối huệ quốc, nguyên tắc có đi có lại,
nguyên tắc đãi ngộ quốc gia…
10
Nguồn luật thứ hai là các tập quán thương mại quốc tế: Theo quy định
tại Luật Thương mại Việt nam năm 1997 thì được áp dụng tập quán quốc tế
nếu nh nã không trái với pháp luật Việt nam. Đó là những thãi quen thương
mại phổ biến, có nội dung rõ ràng, cụ thể mà dùa vào đó có thể xác định
được quyền và nghĩa vụ của các bên, được áp dụng thường xuyên lặp đi lặp
lại trong một thời gian dài được nhiều nước công nhận.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế hiện này thì một trong những tập quán
quốc tế quan trọng nhất đã được tập hợp lại đó là tập quán trong vận chuyển
hnàg hoá quốc tế Incoterm
Thứ ba là luật quốc gia: ở Việt Nam, do hệ thống pháp luật nước ta là
hệ thống pháp luật thành văn nên hoạt động xuất nhập khẩu được điều chỉnh
bởi các quy định liên quan trong Hiến pháp, các Luật và các văn bản dưới
luật. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế theo cơ chế mới cho đến trước khi
Luật Thương mại được ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1998 thì
hoạt động xuất nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của một số văn bản như: Thông

tư số 03-BNT/XNK ngày 11/01/1984 về uỷ thác xuất nhập khẩu, Quyết định
số 91-TTg ngày 13/11/1992 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý nhập khẩu
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, Nghị định 33/1994/NĐ-CP ngày
19/04/1994 về quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu, Nghị
định 89/1995/NĐ-CP ngày 15/12/1995 về việc bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép
xuất nhập khẩu từng chuyến, Quyết định 864/1995/TTg ngày 30/12/1995 về
chính sách mặt hàng và điều hành công tác xuất nhập khẩu năm 1996, …Tuy
nhiên đây mới chỉ là các văn bản dưới luật, có giá trị hiệu lực thấp. Kể từ khi
Luật Thương mại ra đời tuy mới chỉ có quy định về hợp đồng mua bán hàng
hoá với thương nhân nước ngoài và uỷ thác mua bán hàng hoá nhưng kéo
theo nó là một số văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành có quy định về hoạt
động xuất nhập khẩu như Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy
định chi tiết Luật thương mại về xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý
11
mua bán hàng hoá với nước ngoài, Thông tư 18/1998/TT-BTM ngày
28/8/1998 hướng dẫn thi hành Nghị định 57/1998/NĐ-CP, Nghị định
44/2001/NĐ-CP ngày 02/8/2001 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của
Nghị định 57/1998/NĐ-CP. Luật của Quốc hội số 29/2001/QH10 về Hải
quan, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có hiệu lực kể từ ngày
01/03/1992, Thông tư số 108/2001/TT- BTC ngày 31/12/2001 hướng dẫn kế
toán hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu uỷ thác…
II. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ UỶ THÁC XUẤT NHẬP KHẨU
1. Ý nghĩa của uỷ thác xuất nhập khẩu trong hoạt động xuất nhập
khẩu nói chung:
Trong nền kinh tế quản lý theo cơ chế cò ( cơ chế kế hoạch hoá tập
trung) thì chỉ có doanh nghiệp nhà nước được tiến hành các hoạt động xuất
nhập khẩu do đó hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu chỉ tồn tại trong mối quan
hệ giữa các doanh nghiệp này. Chuyển sang nền kinh tế theo cơ chế mới (cơ
chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước) thì phạm vi các chủ thể được
phép xuất nhập khẩu được mở rộng dần và cho đến nay thì mọi thương nhân

là doanh nghiệp có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và có đăng ký mã
số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đều được tiến hành hoạt động
xuất nhập khẩu. Tuy nhiên cã thể thấy rằng không phải tất cả các chủ thể
kinh doanh đều có khả năng thực hiện hoạt động xuất, nhập khẩu. Nguyên
nhân có thể do lượng vốn Ýt, không đủ để tổ chức thị trường, trình độ nhân
lực về xuất nhập khẩu không cao…Trong khi đó những người thực hiện hoạt
động nhận uỷ thác xuất nhập khẩu lại là những người có kỹ năng nghề
nghiệp trong công tác xuất nhập khẩu, am hiểu các thủ tục cần thiết cũng như
các thị trường nước ngoài. Đó là những nguyên nhân khiến cho hoạt động uỷ
thác xuất nhập khẩu không thể không tồn tại trong nền kinh tế.
12
Nhờ có uỷ thác xuất nhập khẩu mà hoạt động xuất nhập khẩu được
đẩy mạnh bởi hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu chiếm một tỷ trọng khá cao
trong tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu( chiếm 23% doanh thu của Tổng
công ty ) . Bằng phương thức xuất nhập khẩu uỷ thác mà có thể kích thích,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu còng nh nhập khẩu hàng hoá, dịch
vụ. Nếu không có uỷ thác xuất nhập khẩu thì khối lượng hàng hoá lưu thông
qua biên giới sẽ giảm đi rất nhiều. Đây là điều dễ thấy thông qua việc phân
tích nguyên nhân phải tồn tại hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu như trên đã
nêu.
2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu
Hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu thực chất là một loại hình cụ thể
của dịch vụ trung gian thương mại là uỷ thác mua bán hàng hoá, đồng thời
xét ở góc độ công tác xuất nhập khẩu thì nó lại là một phương thức xuất nhập
khẩu hàng hoá. Do đó hoạt động này phải chịu sự điều chỉnh của các quy
định của Pháp luật Thương mại về uỷ thác mua bán hàng hoá và các quy
định về xuất nhập khẩu được quy định trong Luật hải quan, Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu và hàng loạt các văn bản khác như đã nêu. Các quy
định của Luật Thương mại về hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân
nước ngoài và uỷ thác mua bán hàng hoá (Từ Điều 99 đến Điều110) và các

quy định về uỷ thác xuất nhập khẩu cũng như hoạt động xuất nhập khẩu mặc
dù vẫn còn tồn tại những bất cập nhưng cũng đã tạo nên hành lang pháp lý
cho sự tồn tại và phát triển của hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu. Cùng với
sự phát triển của hoạt động ngoại thương thì các hoạt động uỷ thác xuất nhập
khẩu đang ngày càng có xu hướng được đẩy mạnh.
Theo Điều 99 Luật Thương mại năm 1997 thì ủy thác mua bán hàng
hoá là hành vi thương mại, theo đó bên uỷ thác thực hiện nghĩa vụ mua hàng
13
hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thỏa thuận với bên uỷ
thác và được nhận phí uỷ thác.
Trong quan hệ uỷ thác thì bao gồm bên được uỷ thác và bên uỷ thác.
Bên được uỷ thác theo Điều 100 Luật thương mại: bên được uỷ thác
mua bán hàng hoá là thương nhận kinh doanh những mặt hàng phù hợp với
hàng hoá được uỷ thác và thực hiện mua bán hàng hoá theo những điều kiện
đã thoả thuận với bên uỷ thác.
Bên uỷ thác theo Điều 101 Luật Thương mại: bên uỷ thác mua bán
hàng hoá là thương nhận hoặc không phải là thương nhận giao cho bên được
uỷ thác thực hiện mua bán hàng hoá theo yêu cầu của mình và phải trả phí ủy
thác.
Các bên có những quyền và nghĩa vụ theo quy định của các điều từ
Điều 108 đến 110 của luật Thương mại.
Tuy nhiên hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu nhập khẩu thì ngoài nững
quy định trong Luật Thương mại còn có các quy định cụ thể trong Nghị định
57/1998/NĐ-CP ngày31 tháng 7 năm 1998 quy định chi tiết Luật Thương
mại vễ xuất khẩu, nhập khẩu, gia công, đại lý mua bán hàng hoá với nước
ngoài. Cô thể tại Điều 9 như sau:
1. Thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc đã đăng
ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu được ủy thác xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.

2. Thương nhân đã đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu được nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội
dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
14
3. Việc ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu và việc nhận ủy thác xuất khẩu,
nhập khẩu các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện do Bộ Thương
mại hướng dẫn cụ thể.
4. Nghĩa vụ và trách nhiệm của bên ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu và
bên nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu được quy định cụ thể trong hợp đồng
ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu do các bên tham gia ký kết thỏa thuận.
III. KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG UỶ THÁC XUẤT NHẬP
KHẨU:
1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu::
Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu là sự thoả thuận giữa các bên theo
đó bên được uỷ thác có nghĩa vụ thực hiện việc xuất hoặc nhập khẩu hàng
hoá theo sự uỷ thác của bên uỷ thác còn bên uỷ thác có nghĩa vụ trả thù lao
cho bên được uỷ thác.
Về bản chất pháp lý, hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu thực chất là
hợp đồng kinh tế,nã là một dạng của hợp đồng dịch vụ, là hợp đồng song vô,
mang tính chất đền bù và là hợp đồng ưng thuận. Hợp đồng uỷ thác xuất
nhập khẩu được coi là hình thành và có hiệu lực pháp luật khi các bên đã ký
vào văn bản hoặc khi đã nhận được các tài liệu giao dịch thể hiện sự thoả
thuận về tất cả cá điều khoản chủ yếu của hợp đồng.
Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu có những đặc điểm sau:
Về chủ thể của hợp đồng: Chủ thể của hợp đồng uỷ thác xuất nhập
khẩu bao gồm bên uỷ thác và bên được uỷ thác. Theo quy định tại Nghị định
57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước
ngoài và Nghị định 44/2001/NĐ-CP ngày 02/8/2001 sửâ đổi một số điều của
nghị định 57/1998/NĐ-CP các chủ thể được phép nhận uỷ thác xuất nhập

15
khẩu bao gồm: Thương nhân thuộc các thành phần kinh tế được thành lập
theo quy định của pháp luật và chi nhánh của thương nhân được sự uỷ quyền
của thương nhân. Các chủ thể được nhận uỷ thác thì cũng được uỷ thác xuất
nhập khẩu.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh
và chi nhánh thương nhân nước ngoài cũng được uỷ thác xuất nhập khẩu.
Đối tượng của hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu chính là hành vi xuất
nhập khẩu hàng hoá của bên được uỷ thác.
Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu là một loại hợp đồng dịch vụ uỷ
thác mua bán hàng hoá do đó nó phải có những điều khoản chủ yếu mà Luật
Thương mại quy định cần có đối với hợp đồng uỷ thác mua bán hoàng hoá
để được coi là hợp đồng đã hình thành. Theo quy định tại Điều 104 Luật
Thương mại thì những nội dung đó bao gồm:
- Tên , địa chỉ của các bên ;
- Hàng hoá được uỷ thác mua bán;
- Số lượng, chất lượng, quy cách, giá cả và các điều kiện cụ thể khác;
- Phí uỷ thác;
- Thời hạn hiệu lực của hợp đồng uỷ thác.
Hàng hoá được uỷ thác xuất nhập khẩu là tất cả các loại hàng hoá trừ
hàng hoá cấm xuất nhập khẩu và một số hàng hoá do Bộ Thương mại quy
định trong từng thời kỳ. Đối với hàng hoá thuộc Danh mục hàng hoá hạn chế
kinh doanh, hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện thì doanh nghiệp đó phải
thoả mãn tất cả các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Số lượng, chất lượng, quy cách, giá cả…của hàng hoá cũng là một
trong những nội dung chủ yếu của hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu. Số
16
lượng hàng hoá có thể được xác định theo những đơn vị đo khối lượng, trọng
lượng,…chất lượng của hàng hoá được nêu cụ thể trong hợp đồng hoặc dẫn
theo một tiêu chuẩn nhất định.
Phí uỷ thác được xác định là một khoản tiền nhất định hoặc theo một

tỷ lệ % xác định trên tổng giá trị hợp đồng mà bên được uỷ thác sẽ ký kết với
bên thứ ba để xuất hoặc nhập hàng hoá.
Ngoài những nội dung trên, các bên trong hợp đồng uỷ thác xuất nhập
khẩu còn có thể thoả thuận những nội dung khác như các vấn đề liên quan
đến thanh toán, thời gian và địa điểm giao hàng, trách nhiệm của các bên,
điều khoản về giải quyết khiếu nại, tranh chấp, phạt vi phạm hợp đồng….
Theo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì hình thức của hợp đồng phải
bằng văn bản, tài liệu giao dịch: công văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào
hàng. Theo khoản 2 Điều 104 thì hợp đồng uỷ thác phải được thể hiện bằng
hình thức văn bản. Hình thức văn bản được hiểu theo nghĩa thông thường
hay còn bao hàm cả điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông
tin điện tử như quy định đối với hình thức văn bản trong hợp đồng mua bán
hàng hoá nêu trên hay không thì luật không chỉ rõ nhưng hiện nay trên thực
tế vẫn áp dụng hình thức văn bản theo nghĩa rộng
Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu luôn có mục đích kinh doanh.Bên
nhận uỷ thác khi thực hiện hành vi xuất, nhập khẩu thì luôn hướng tới khoản
thù lao sẽ được hưởng là phí uỷ thác.
Thay đổi, tạm hoãn thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu : Theo
pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì việc thay đổi, tạm hoãn thực hiện hợp đồng
uỷ thác xuất nhập khẩu phải được các bên thoả thuận và thể hiện bằng văn
bản ( Điều24)
17
Các trường hợp chấm dứt hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu được xác
định như sau: Các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo ý chí của hai bên
hoặc do điều kiện khách quan và đơn phương chấm dứt hợp đồng được xác
định theo quy định từ Điều 24 đến Điều 28 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
Luật thương mại không có quy định về hợp đồng uỷ thác mua bán
hàng hoá do đó việc xác định hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu vô hiệu phải
căn cứ vào các quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế nh sau:
“…1- Những hợp đồng kinh tế sau đây bị coi là vô hiệu toàn bộ:

a) Nội dung hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luật;
b) Mét trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận
trong hợp đồng;
c) Người ký hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi
lừa đảo.
2- Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần khi nội dung của phần
đó vi phạm điều cấm của pháp luật, nhưng không ảnh hưởng đến nội dung
các phần còn lại của hợp đồng”
2. Ký kết hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu:
2.1. Các nguyên tắc ký kết hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu:
Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu là một dạng của hợp đồng uỷ thác
mua bán hàng hoá trong thương mại, tuy nhiên Luật Thương mại lại không
hề có quy định về các nguyên tắc ký kết hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá
nói riêng và hợp đồng thương mại nói chung. Nhưng hợp đồng uỷ thác xuất
18
nhập khẩu mang tính chất là hợp đồng kinh tê do đó khi ký kết hợp đồng uỷ
thác xuất nhập phải tuân thủ các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế được
quy định tại Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1998. Đó là nguyên tắc sau:
nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trực tiếp
chịu trách nhiệm tài sản và không trái pháp luật.
Nguyên tắc tự nguyện được thể hiện ở chỗ các bên có quyền tự quyết
định có ký kết hợp đồng hay không và ký kết với ai, khi nào, nội dung của
hợp đồng đó được thoả thận ra sao là phụ thuộc vào ý chí của các bên ký kết
và quy định của pháp luật, không ai có quyền Ðp buộc họ ký kết hay không
ký kêt hợp đồng.
Nguyên tắc bình đẳng trong ký kết hợp đồng kinh tế được hiểu là khi
ký kết hợp đồng thì các bên tham gia có địa vị pháp lý ngang nhau, không
phân biệt thành phần kinh tế, mức vốn của mỗi bên…
Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm về tài sản được hiểu là các bên

khi tham gia vào quan hệ hợp đồng thì phải dùng tài sản của chính mình để
đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng đã ký kết, khi có sự vi phạm hợp đồng
thì bên vi phạm phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản.
Nguyên tắc ký kết hợp đồng không trái pháp luật đòi hỏi việc ký kết
phải hợp pháp, mọi thoả thuận trong hợp đồng không được trái với các quy
định của pháp luật, không được lợi dụng việc hợp đồng để trục lợi, hoạt động
pháp luật.
2.2 Các căn cứ ký kết hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu:
Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu được ký kết trên các cơ sở được quy
định là căn cứ ký kết cho hợp đồng kinh tế ( Quy định tại Điều 10 Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế)nh sau:
19
- Định hướng kế hoạch của Nhà nước, các chính sách, chế độ, các
chuẩn mức kinh tế - kỹ thuật hiện hành. Căn cứ này được áp dụng chủ yếu
cho các hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu được ký kết giữa các doanh nghiệp
nhà nước với các doanh nghiệp khác.
- Nhu cầu thị trường, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng. Đây
là căn cứ đảm bảo cho hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu được ký kết có tính
khả thi, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh thực sự mang lại hiệu quả đồng
thời thoả mãn những nhu cầu của thị trường. Căn cứ này thường được các
bên tuân thủ nghiêm ngặt vì nó liên quan trực tiếp đến lợi Ých của họ.
- Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh
tế của mình. Khi ký kết huợp đồng, các bên phải căn cứ vào những điều kiện
chủ quan của mình về tiền vốn, vật tư, năng suất lao động và hiệu quả sản
xuất kinh doanh và chức năng hoạt động của mình.
- Tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng bảo
đảm về tài sản của bên cùng ký hợp đồng. Đây là một căn cứ quan trọng để
đảm bảo hiệu lực của hợp đồng, tính hợp pháp của mối quan hệ cũng như
khả năng thanh toán của mỗi bên nhằm đảm bảo cho hợp đồng có đầy đủ cơ
sở pháp lý và cơ sở kinh tế để thực hiện trên thực tế.

2.3 Cách thức ký kết hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu :
Cách thức ký kết hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu được hiểu là các
phương thức, trình tự thủ tục để các bên xác lập quan hệ hợp đồng uỷ thác
xuất nhập khẩu.
Nói đến thủ tục trình tự ký kết là nối tới cách thức để ký kết hợp đồng
uỷ thác xuất nhập khẩu và trình tự các bước của các bên để xác lập quan hệ
hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu có hiệu lực pháp lý.
20
Ký kết trực tiếp là cách ký kết giản đơn, hợp đồng uỷ thác được hình
thành một cách nhanh chóng khi ký kết bằng cách này . đậi diện của các bên
sẽ trực tiếp gặp nhau để bàn bạc, thoả thuận thống nhất ý chí, xác điịnh các
điều khoản của hợp đồng và cung ký vào một văn bản. hợp đồng uỷ thác xuất
nhập khẩu được coi là có hiệu lực pháp lý kể từ khi các bên ký vào văn bản,
tuy nhiên trong những trường hợp không thể ký trực tiếp thì các bên có thể
ký một cách gián tiếp bằng cách gửi cho nhau những tài liệu giao dịch chứa
đựng nội dung của công việc giao dịch. Việc ký kết hợp đồng gián tiệp nh
thế thường tiến hành qua hai bước sau:
Bước 1: Một bên lập đề nghị hợp đồng( thường là bên uỷ thác) trong
đó nêu ra những yêu cầu về nội dung uỷ thác và gửi cho bên nhận uỷ thác;
Bước 2: Bên nhận được đề nghị của hợp đồng có nghĩa vụ phải trả lời
bằng văn bản và gửi cho bên đề nghị hợp đồng, trong đó ghi rõ những nội
dung chấp nhậ và những nội dung chưa chấp nhận và những đề nghị bổ sung.
Bên kia cung trả lời là có chấp nhận đề nghị bổ sung hay không.
Hợp đồng được ký kết theo phương pháp này được coi là hình thành
và có giá trị pháp lý kể từ khi các bên nhận được tài liệu giao dịch thể hiện
sự thoả thận vè tất cả các điều khoản chủ yếu của hợp đồng đã ký kết đó.
Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu dù được ký kết bằng phương pháp
nào đều có giá trị pháp lý nh nhau và các bên đều phải nghiêm chỉnh thực
hiện các điều khoản đã ký kết.
Trên thực tế thì hai hình thức này được áp dụng rộng rãi trong ký kết

hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu. Tuy nhiên do đặc thù của hợp đồng uỷ
thác xuất nhập khẩu là các điêù khoản của hợp đồng khá phức tạp và cần có
sự tính toán, thương lượng chặt chẽ của các bên nên nếu có điều kiện thì các
bên thường chọn phương thức ký kết trực tiếp. Có những trường hợp các bên
21
sử dụng cả hai phương thức để ký kết, đầu tiên dùng biện pháp gián tiếp sau
đó trực tiếp thoả thuận và ký kết hợp đồng hoàn chỉnh.
Do yêu cầu cao của nghiệp vụ ký kết hợp đồng, các công ty xuất nhập
khẩu thường có các cán bộ chuyên về ký kết, giao dịch hợp đồnguỷ thác xuất
nhập khẩu hoặc những công ty này có thể chia xuất nhập khẩu ra thành nhiều
lĩnh vực khác nhau để cán bộ có thể đi chuyên sâu tìm hiểu thị trường và
nghiệp vụ.
Đại diện ký kết hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu còng nh đại diện ký
kết các hợp đồng khác, khi tham gia ký kết hợp đồng thì mỗi bên chỉ cần cử
ra một người đại diện cho mình. Nếu là pháp nhân thì đó là người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân, nếu là cá nhân đăng ký kinh doanh thì đó là
người đứng tên trong đăng ký kinh doanh. Tuy nhiện các chr thể trên có thể
uỷ quyền cho người khác thay mình ký kết hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu
làm đại diện trong ký kết, thực hiện hợp đồng, tham gia tè tung trọng tài khi
có tranh chấp.
Tuy nhiên trong thực tế xảy ra không Ýt trường hợp ký kết và thực
hiện hợp đồng không có sự uỷ quyền hợp pháp hoặc có nhưng là sau khi đã
ký xong làm nảy sinh nhiều tranh chấp khó giải quyết và cũng là chỗ sơ hở
để các bê thoái thác việc thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đông dùa vào
lý do là hợp đồng vô hiệu toàn bộ do người ký không đúng thẩm quyền.
3. Thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu:
3.1 Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu :
Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu phải được thực hiện theo những
nguyên tắc được ghi nhận trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế nh sau:
22

Các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ cam kết trong hợp
đồng kinh tế trên tinh thần hợp tác, tôn trọng lợi Ých của nhau.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, nếu một bên gặp khó khăn
có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng thì phải thông báo ngay cho bên kia biết,
đồng thời phải tìm mọi biện pháp khắc phục. Bên nhận được thông báo, tuỳ
theo khả năng của mình góp phần khắc phục khó khăn đó và tìm mọi biện
pháp hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra.
3.2.Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ uỷ thác xuất nhập
khẩu:
a. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận uỷ thác :
* Nghĩa vụ của bên được uỷ thác:
Nghĩa vụ thực hiện việc xuất nhập khẩu hàng hoá theo hợp đồng uỷ
thác: Người được uỷ thác cần phải tuân thủ đầy đủ những thoả thuận với bên
uỷ thác về việc ký kết cũng như thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá
với bên thứ ba. Đó là những thoả thuận về số lượng, chất lượng, quy cách,
giá cả của hàng hoá sẽ xuất hoặc nhập. Nếu bên được uỷ thác mà vi phạm
nghĩa vụ này dẫn đến hậu quả là ký kết, thực hiện hợp đồng với bên thứ ba
gây thiệt hại cho bên uỷ thác thì họ sẽ phải bồi thường đối vơí thiệt hại đó.
Nhưng nếu ngược lại, việc vi phạm nghĩa vụ của bên được uỷ thác lại mang
lại lợi Ých cho bên uỷ thác nhiều hơn là yêu cầu đã đề ra thì luật lại không
quy định khoản chênh lệch đó sẽ thuộc về ai. Do đó trên thực tế các bên có
thể thoả thuận với nhau để phân chia phần lợi Ých này, nếu là uỷ thác nhập
hàng thì hai bên có thể thoả thuận để bên uỷ thác nhận hàng và trả cho bên
được uỷ thác một khoản tiền.
Thực hiện việc xuất nhập khẩu hàng hoá theo hợp đồng uỷ thác, bên
được uỷ thác còn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
23
xuất nhập khẩu hàng hoá với bên thứ ba. Nếu có tranh chấp về hợp đồng
xuất nhập khẩu hàng hoá đã ký thì bên được uỷ thác sẽ là người trực tiếp
giải quyết với bên thứ ba còn bên uỷ thác chỉ là người có quyền lợi và nghĩa

vụ liên quan. Bên được uỷ thác cũng không được uỷ thác lại cho người khác
thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu đã ký trừ trường hợp có sự chấp
thuận bằng văn bản của bên uỷ thác.
Nghĩa vụ thông báo: Bên được uỷ thác có nghĩa vụ thông báo cho bên
uỷ thác về các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng uỷ thác như
các biến động của thị trường, tiến trình làm việc với bên thứ ba, khả năng ký
kết và thực hiện hợp đồng của bên thứ ba. Người được uỷ thác phải thông
báo những thông tin đó để người uỷ thác kịp thời đưa ra những chỉ dẫn thích
hợp .Khi có những chỉ dẫn của bên uỷ thác mà phù hợp với hợp đồng uỷ thác
thì bên được uỷ thác phải tuân theo những chỉ dẫn đó. Nếu những chỉ dẫn đó
mà trái với nội dung hợp đồng uỷ thác và các quy định của pháp luật thì
người được uỷ thác có thể không chấp hành.
Nghĩa vụ đối với tài sản, tài liệu được giao để thực hiện công việc uỷ
thác: Người được uỷ thác có trách nhiệm phải bảo quản, giữ gìn những tài
sản, tài liệu được giao trong quá trình thực hiện hợp đồng uỷ thác và phải
chịu trách nhiệm bồi thường nếu có hư háng, mất mát mà do lỗi của mình.
Nghĩa vụ bảo mật: Bên được uỷ thác phải giữ bí mật đối với những
thông tin có liên quan đến hợp đồng uỷ thác nhằm đảm bảo lợi Ých của
người uỷ thác. Ví dụ như những thông tin về nhu cầu cấp thiết của bên uỷ
thác đối với việc xuât khẩu hoặc nhập khẩu hàng hoá uỷ thác là nhập khẩu
hàng để thực hiện nghĩa vụ giao hàng đối với một hợp đồng khác hoặc xuất
khẩu hàng để thu tiền thanh toán cho nghĩa vụ trả nợ đã đến hạn, hàng hoá
được uỷ thác bán là hàng tồn kho mà trước đó bên uỷ thác vẫn bán theo giá
thị trường và thấp hơn giá bán cho bên thứ ba…
24
Nghĩa vô giao tiền, giao hàng theo đúng thoả thuận trong hợp đồng uỷ
thác: Nếu là uỷ thác xuất khẩu hàng hóa thì phải giao hàng và nếu là uỷ thác
nhập hàng thì phải giao tiền cho bên uỷ thác theo đúng thoả thuận về số
lượng, chất lượng, thời hạn, phương thức giao.
* Quyền của bên được uỷ thác:

Quyền cơ bản, quan trọng nhất của bên được uỷ thác là nhận phí uỷ
thác và không chịu trách nhiệm đối với hàng hoá đã giao cho bên uỷ thác nếu
không có thoả thuận khác. Khi bên uỷ thác đã nhận hàng thì dù họ có kiểm
tra hàng hay không cũng có thể mặc nhiên coi như họ chấp nhận hàng như
khi nhận, tức là hàng đã đáp ứng các tiêu chuẩn đề ra.
Ngoài ra, bên được uỷ thác còn có quyền được cung cấp các thông tin,
tài liệu cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng uỷ thác, yêu cầu bên uỷ thác
bồi thường thiệt do họ gây ra. Đó có thể là những thiệt hại do bên uỷ thác
không giao hoặc nhận hàng đúng thời hạn, đơn phương chấm dứt hợp đồng,

b. Quyền và nghĩa vụ của bên uỷ thác:
Thông qua nội dung các quyền và nghĩa vụ của bên được uỷ thác ta đã
có thể hình dung được nội dung quyền và nghĩa vụ của bên uỷ thác. Theo
quy định tại Điều 109, bên uỷ thác có những nghĩa vụ sau: Nghĩa vụ cung
cấp thông tin, tài liệu, phương tiện cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng uỷ
thác;trả phí uỷ thác; giao tiền, giao hàng theo đúng thoả thuận trong hợp
đồng uỷ thác; chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng uỷ thác của bên
thứ ba trong trường hợp chấp thuận việc uỷ thác lại của bên được uỷ thác. Có
thể thấy việc luật quy định như vậy là không chính xác và rõ ràng bởi quan
hệ giữa bên uỷ thác và bên được uỷ thác lại sẽ như một quan hệ uỷ thác mới,
giữa họ lại xác lập những quyền và nghĩa vụ mới có thể là giống hoặc tương
25

×