Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

luận văn kinh tế luật Hiệp định của tổ chức thương mại thế giới về thương mại dịch vụ của WTO và những thách thức trong lĩnh vực dịch vụ khi Việt Nam gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.11 KB, 28 trang )

Nguyễn Văn Tó

SBD 200
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA LUẬT KINH TẾ


TIỂU LUẬN

LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Đề tài:
HIỆP ĐỊNH CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
VỀ THƯƠNG MẠI, DỊCH VỤ CỦA WTO VÀ NHỮNG THÁCH THỨC
TRONG LĨNH VỰC DỊCH VÔ
KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO

Học viên thực hiện :
Líp:
SBD:
Năm sinh:

Hà Tây- 2007

PHẦN I
LỜI MỞ ĐẦU

NGUYỄN VĂN TÓ
LUẬT KINH TẾ - K3B
200
13/10/1966



Nguyễn Văn Tó

SBD 200

Năm 2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thương mại thế giới WTO. Tổng kết 20 năm đổi mới Đảng ta đã khẳng
định nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu, cơ cấu kinh tế đã từng
bước chuyển dịch theo hướng hợp lý, tích cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp
dịch vụ. Song nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển. Trong chiến lược
phát triển đất nước chúng ta cần phải hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn
với khu vực và trên thế giới. Với phương châm "Phát triển nhanh du lịch, các
dịch vụ hàng khơng, hàng hải, bưu chính viễn thơng, TM vận tải, tài chính,
ngân hàng kiểm tốn, bảo hiểm, cơng nghệ, pháp lý chủ động đẩy mạnh xuất
khẩu, chủ động về nhập khẩu, kiềm chế thu hẹp dần nhập siêu, xây dựng nền
kinh tế phát triển bền vững phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành một
trung tâm thương mại dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.
WTO là Tổ chức thương mại có vai trị bậc nhất hiện nay. Mục tiêu
WTO là tạo ra một thị trường dịch vụ cạnh tranh, thống nhất trên phạm vi thế
giới.
Là thành viên của WTO chóng ta buộc phải tuân thủ các nguyên tắc và
Điều lệ của WTO, chóng ta phải mở cửa thị trường, từng bước sửa đổi, hoàn
thiện hệ thống pháp luật đảm bảo trong quy định của WTO.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một sân chơi lớn sẽ giúp nền kinh tế chúng ta
phát triển, xong cũng đầy những khó khăn thách thức trong nền kinh tế đang
chuyển đổi ở nước ta.
Kinh tế thương mại dịch vụ ở nước ta chủ yếu vẫn là quy mô nhỏ, nhiều
tiềm năng dịch vụ chưa được khai thác hiệu quả. Hệ thống pháp luật và
TMDV chưa thực sự đồng bộ, chưa đầy đủ, nhiều quy định còn bất cập với
nguyên tắc của WTO.

Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ nói chung, gia nhập
GATS nói riêng tạo cho nước ta có cơ hội phát triển để xây dựng đất nước


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Khơng ngừng đặt ra những thách
thức, khó khăn địi hỏi tồn Đảng, tồn dân, tồn qn tăng cường sức mạnh
đại đoàn kết dân téc, phát huy nội lực dương cao ngọn cờ độc lập sẵn sàng
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của thành
viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Tiếp tục mở rộng thị trường, tạo
ra sự cạnh tranh bất bình đẳng để thu hót vốn đầu tư nước ngồi vào Việt
Nam.
Xuất phát từ thực tiễn đó em quyết định chọn chuyên đề: "Hiệp định
của tổ chức thương mại thế giới về thương mại dịch vụ của WTO và những
thách thức trong lĩnh vực dịch vụ khi Việt Nam gia nhập WTO". Trong quá
trình nghiên cứu và trình bày chun đề khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong sù quan tâm của Thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

PHẦN II
NỘI DUNG
I. HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA WTO


Đầu thập kỷ 70, do sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại và sự
điều chỉnh mang tính tồn cầu về kết cấu công nghiệp, lợi thế so sánh của các
nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là Mỹ chuyển từ các ngành cơng nghiệp
truyền thống sang ngành dịch vụ và có xu hướng xuất siêu lớn trong thương
mại dịch vụ. Chính vì vậy, ngay tại vòng đàm phán Tokyo (1973 - 1979)
trong khuôn khổ hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), Mỹ đã
đề nghị đưa vấn đề thương mại dịch vụ vào nội dung đàm phán. Uỷ ban hợp
tác và phát triển kinh tế thuộc Liên hợp quốc đã căn cứ vào đề nghị này quyết
định bắt đầu nghiên cứu thí điểm loại bỏ các trở ngại thương mại trong lĩnh
vực dịch vụ kỹ thuật cơng trình xây dựng, ngân hàng, vận tải và bảo hiểm.
Sau nhiều thảo luận các nước phát triển quyết định đưa vấn đề thương mại
dịch vụ vào nội dung đàm phán. Tại vòng đàm phán Urugoay (1986 - 1995).
Xuất phát từ lợi Ých kinh tế của mình, các nước đang phát triển lúc đầu
khơng đồng ý đàm phán về thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, do sức Ðp từ phía
các nước phát triển nên họ đã chấp nhận đàm phán với điều kiện phải tách
đàm phán thương mại dịch vụ ra khỏi đàm phán thương mại hàng hóa.
Trong q trình đàm phán tại vịng đàm phán Urugoay, mục tiêu của các
nước phát triển là định ra một hệ thống quy tắc quốc tế về thương mại dịch
vụ, theo đó gỡ bỏ hồn tồn những trở ngại và hạn chế đối với thương mại
dịch vụ. Ngược lại các nước đang phát triển rất thận trọng trong đàm phán
thương mại dịch vụ. Họ e ngại rằng mở cửa thị trường dịch vụ cho các nước
phát triển sẽ nguy hại tới chủ quyền và an ninh quốc gia, khơng thực hiện
được chính sách phát triển kinh tế của mình. Nhiều ngành dịch vụ ở những


Nguyễn Văn Tó

SBD 200


nước đang phát triển cịn "non trẻ" nên năng lực cạnh tranh khơng cao, nếu
mở cửa hồn tồn thì các ngành dịch vụ đó tất yếu bị "bóp chết". Vì vậy lập
trường của các nước đang phát triển là từng bước mở cửa thị trường dịch vụ,
nhưng bảo hộ hợp lý một số ngành dịch vụ then chốt nh viễn thơng ngân
hàng, vận tải.
Kết thóc vịng đàm phán Urugoay, cùng với sự ra đời của WTO thay thế
cho GATT, Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) đã được thông
qua. GATS là hiệp định khung mang tính quốc tế đầu tiên điều chỉnh thương
mại dịch vụ. Đây cũng là một hiệp định bắt buộc phải tham gia đối với các
nước thành viên của WTO. Trong gần 5 năm qua, các nước thành viên WTO
đã tích cực thảo luận, xây dựng và thông qua các quy định về thương mại dịch
vụ nhằm hoàn thiện hơn khung pháp lý cho thương mại dịch vụ quốc tế, đó là
các hiệp định về các dịch vụ tài chính và hiệp định về các dịch vụ viễn thông
cơ bản mà được đông đảo các nước thành viên WTO tham gia.
* Mục tiêu của GATS là:
+ Thiết lập một khuôn khổ đa biên cho những nguyên tắc và quy tắc của
thương mại dịch vụ nhằm mở rộng thương mại trong lĩnh vực này trong điều
kiện minh bạch và tự do hóa dần dần và là công cụ thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế của tất cả đối tác trong thương mại và vì sự phát triển của đất nước đang
phát triển.
+ Đạt được tự do hóa thương mại dịch vụ ở mức ngày càng cao hơn
thơng qua những vịng đàm phán đa biên liên tiếp nhằm tăng cường lợi Ých
của các bên tham gia trên cơ sở cùng có lợi và bảo đảm sự cân bằng chung về
quyền và nghĩa vụ, đồng thời tơn trọng những mục tiêu trong chính sách quốc
gia.
+ Tạo thuận lợi để các nước đang phát triển tham gia ngày càng nhiều
hơn vào thương mại dịch vụ và mở rộng xuất khẩu dịch vụ của mình trong đó
có phần nhờ vào tăng cường năng lực dịch vụ trong nước, hiệu quả và khả



Nguyễn Văn Tó

SBD 200

năng cạnh tranh.
* Nội dung của GATS bao gồm:
+ Nguyên tắc và quy định chung.
+ Các phụ lục.
+ Danh mục các cam kết cụ thể.
1. Những nguyên tắc và quy định chung
a. Phạm vi áp dụng
Phạm vi áp dụng của GATS được quy định tại điều I, theo đó hiệp định
áp dụng đối với các biện pháp tác động đến thương mại dịch vụ của các nước
thành viên. Đó là những biện pháp về:
- Mua, thanh tốn hay sử dụng một dịch vụ.
- Sù tiếp nhận hay sử dụng các dịch vụ gắn liền với việc cung cấp dịch
vụ được các thành viên đó yêu cầu phải đưa ra phục vụ công chúng một cách
phổ biến.
- Sù hiện diện, bao gồm cả hiện diện thương mại của những người thuộc
một thành viên để cung cấp dịch vụ trên lãnh thổ của một thành viên khác.
Tuy nhiên, GATS không điều chỉnh mọi biện pháp tác động tới thương
mại dịch vụ mà chỉ điều chỉnh những biện pháp tác động tới thương mại dịch
vụ được áp dụng bởi:
+ Chính quyền Trung ương, khu vực hoặc địa phương.
+ Các cơ quan phi chính phủ trong việc thực thi quyền hạn được chính
quyền TW, hoặc khu vực hoặc địa phương giao cho.
Thương mại dịch vụ theo GATS được hiểu là sự cung cấp dịch vụ theo 4
phương thức sau đây:
* Cung cấp qua biên giới: Dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một
thành viên đến lãnh thổ của một thành viên khác ví dụ: dịch vụ viễn thơng,vận

tải.
* Tiêu dùng ở nước ngoài: dịch vụ được cung cấp trên lãnh thổ của một


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của một thành viên khác. Ví dụ: dịch
vụ du lịch.
* Hiện diện thương mại: dịch vụ được cung cấp bởi một người cung cấp
dịch vụ của một thành viên thông qua sự hiện diện thương mại trên lãnh thổ
của thành viên khác. Ví dụ: dịch vụ tài chính, bảo hiểm.
* Hiện diện của thể nhân: dịch vụ được cung cấp bởi một người cung cấp
dịch vụ của một thành viên thông qua sự hiện diện thể nhân trên lãnh thổ của
thành viên khác. Ví dụ: dịch vụ tư vấn, kiểm toán.
Như vậy GATS chỉ điều chỉnh những biện pháp của các nước thành viên
tác động tới thương mại dịch vụ được thực hiện thông qua 4 phương thức
cung cấp dịch vụ nói trên. Dịch vụ được cung cấp qua những phương thức đó
là bất kỳ dịch vụ nào, ngoại trừ dịch vụ được cu ng cấp trong khi thi hành
thẩm quyền của Chính phủ (Những dịch vụ được cung cấp không trên cơ sở
thương mại, hoặc không trên cơ sở cạnh tranh với một hoặc nhiều người cung
cấp dịch vụ).
b. Những nguyên tắc điều chỉnh thương mại dịch vụ
* Nguyên tắc tối huệ quốc (Most Favored National Treatment-MFN):
Nguyên tắc tối huệ quốc được quy định tại Điều II của GATS với nội
dung nh sau:
+ Mỗi thành viên ngay lập tức và không điều kiện dành cho dịch vụ và
người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác sự đãi ngộ mà thành
viên đó đã, đang và sẽ dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự

của bất kỳ nước nào khác.
+ Cùng với nguyên tắc đối xử quốc gia (NT), nguyên tắc tối huệ quốc
gia là nền tảng của thể chế thương mại dịch vụ đa biên. Nội dung của nguyên
tắc này là yêu cầu mọi nước thành viên phải thực hiện sự đối xử (ưu đãi hoặc
hạn chế) bình đẳng giữa dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của các nước
thành viên khác nhau trên lãnh thổ nước mình.


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

+ Theo quy định của GATS, chế độ đối xử tối huệ quốc phải được áp
dụng ngay lập tức và vô điều kiện. Tức là một nước thành viên dành sự đối xử
MFN cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của một nước thành viên khác
nhưng không yêu cầu phải đáp ứng bất kỳ một điều kiện nào. Tuy nhiên, chế
độ đối xử tối huệ quốc bị hạn chế trong một số trường nhất định.
Thứ nhất, GATS cho phép các nước thành viên được miễn trừ đối xử tối
huệ quốc với những biện pháp nhất định thông qua đàm phán. Các thành viên
phải quy định rõ trong danh mục miễn trừ đối xử tối huệ quốc những biện
pháp được miễn trừ và thời hạn miễn trừ. Về nguyên tắc, các miễn trừ không
được vượt quá thời hạn 10 năm. Danh mục miễn trừ đối xử tối huệ quốc là bộ
phận không thể tách rời của GATS.
Thứ hai, các nước thành viên có thể dành cho nước lân cận những thuận
lợi nhằm thúc đẩy thương mại dịch vụ trong phạm vi vùng cận biên. Trong
các khu vực tự do mậu dịch cận biên các nước thành viên có chung đường
biên giới có thể dành những ưu đãi cho nhau và không phụ thuộc vào nghĩa
vụ thực hiện đối xử tối huệ quốc đã cam kết trong danh mục cam kết cụ thể.
* Nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment - NT) và tiếp cận thị
trường

Nguyên tắc đối xử quốc gia được quy định tại Điều 17 của GATS, theo
đó trong những lĩnh vực được ghi trong danh mục cam kết cụ thể, mỗi thành
viên phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ nước thành
viên nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ và thành viên
đó đã, đang và sẽ dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của nước mình.
Sự đối xử không thỏa mãn yêu cầu của nguyên tắc NT là sự đối xử làm cho
điều kiện cạnh tranh có lợi hơn, cho dịch vụ hay người cung cấp dịch vụ trong
nước so với dịch vụ hay người cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Nguyên tắc MFN được áp dụng ngay lập tức, vô điều kiện mà mọi thành
viên GATS phải chấp nhận, nhưng có ngoại lệ. Khác với nguyên tắc MFN


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

việc áp dụng đãi ngộ quốc gia khơng phải là nghĩa vơ chung mà là nghĩa vụ
có điều kiện và được đàm phán trong quá trình gia nhập. Kết quả đàm phán về
mở cửa thị trường và đối xử quốc gia được ghi nhận trong danh mục cam kết
cụ thể.
Thực chất nội dung của nguyên tắc đối xử quốc gia là các nước thành
viên phải dỡ bá những hạn chế và phân biệt đối xử với người cung cấp dịch
vụ nước ngoài, tạo điều kiện cho họ thâm nhập (tiếp cận - ACCESS)thị
trường trong nước. Do đó, mức độ cam kết thực hiện nguyên tắc NT của một
nước thể hiện mức độ mở cửa thị trường dịch vụ của nước đó. Cam kết hoặc
hạn chế áp dụng nguyên tắc NT phải được quy định rõ trong danh mục cam
kết cụ thể, cam kết tiếp cận thị trường hoặc đối xử quốc gia chỉ được áp dụng
cho những dịch vụ được quy định trong danh mục cam kết cụ thể. Danh mục
này được xây dựng thông qua đàm phán gia nhập của các nước thành viên.
Theo quy định của GATS các nước thành viên phải loại bỏ 6 hạn chế sau

đây trong những lĩnh vực có cam kết mở cửa thị trường.
+ Các hạn chế về số lượng người cung cấp dịch vụ với hình thức hạn
ngạch.
+ Độc quyền, toàn quyền cung cấp dịch vụ hoặc yêu cầu đáp ứng nhu
cầu kinh tế.
+ Hạn chế về tổng giá trị các giao dịch dịch vụ hoặc tài sản dưới hình
thức hạn ngạch hoặc yêu cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế.
+ Hạn chế số lượng các hoạt động dịch vụ hoặc số lượng dịch vụ đầu ra
tính theo số lượng đơn vị dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu đáp ứng nhu
cầu kinh tế.
+ Hạn chế số lượng thể nhân có thể được tuyển dụng trong một lĩnh vực
cụ thể hoặc một người cung cấp dịch vụ được phép tuyển dụng cần thiết hoặc
trực tiếp liên quan đến việc cung cấp một dịch vụ cụ thể dưới hình thức hạn
ngạch hoặc yêu cầu về nhu cầu kinh tế.


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

+ Các biện pháp hạn chế hoặc yêu cầu các hình thức pháp nhân cụ thể
hoặc liên doanh thơng qua đó người cung cấp dịch vụ có thể cung cấp dịch
vụ.
+ Hạn chế về tỷ lệ vốn góp của bên nước ngồi bằng việc quy định giới
hạn phần trăm tối đa cổ phần của bên nước ngoài hoặc tổng giá trị đầu tư
nước ngồi tính đơn hoặc tính gộp.
Kể từ khi GATS có hiệu lực đến nay số lượng các ngành dịch vụ được
đưa vào danh mục cam kết cụ thể ngày càng mở rộng. Hơn 70 nước thành
viên WTO đã lập lé trình cam kết áp dụng nguyên tắc NT cho dịch vụ chuyên
môn, dịch vụ du lịch, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài

chính khác, khoảng 30 nước đã lập lé trình cam kết cho dịch vụ giáo dục, dịch
vụ văn hóa, thể thao. Sự mở rộng phạm vi các ngành dịch vụ được cam kết áp
dụng nguyên tắc NT là một trong những thách thức đối với các nước chậm
phát triển đang đàm phán gia nhập GATS, trong đó có Việt Nam.
* Ngun tắc cơng khai, minh bạch hóa (publicity, trasparency):
Mục đích của ngun tắc cơng khai, minh bạch hóa là nhằm bảo đảm
một mt kinh doanh rõ ràng, có thể tiên liệu trước tạo điều kiện thuận lợi cho
thương mại và dịch vụ phát triển. Các thành viên GATS phải bảo đảm tính
minh bạch của chính sách, pháp luật, những quy định về thủ tục, tiêu chí xét
duyệt, cơ chế giải quyết khiếu kiện phải rõ ràng và rành mạch.
Theo quy định của GATS, các nước thành viên phải cơng bố mọi chính
sách, quy định có tác động tới thương mại dịch vụ trước khi những chính
sách, quy định đó có hiệu lực thi hành. Những thỏa thuận song phương hoặc
đa phương liên quan đến thương mại dịch vụ mà các thành viên tham gia cũng
phải được công bố. Hàng năm, các thành viên phải thông báo Ýt nhất một lần
cho Hội đồng Thương mại dịch vụ về việc ban hành, hoặc sửa đổi những quy
định, chính sách có tác động cơ bản đến thương mại thuộc các lĩnh vực có
cam kết cụ thể.


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

Các thành viên có quyền yêu cầu các thành viên khác khẩn trương thơng
báo cho mình những thơng tin cụ thể về những quy định, chính sách có tác
động tới thương mại dịch vụ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên
tiếp cận những thông tin về quy định, chính sách thương mại của nhau, mỗi
thành viên sẽ phải lập những điểm cung cấp thông tin về quy định, chính sách
thương mại trong vịng hai năm kể từ khi Hiệp định thành lập WTO có hiệu

lực. Đối với các nước đang phát triển, các thành viên có thể thỏa thuận
thờihạn linh hoạt thích hợp cho việc thành lập những điểm thơng báo đó.
Ngun tắc cơng khai, minh bạch hóa khơng u cầu các thành viên phải
cung cấp những thông tin mà việc tiết lé chúng có thể cản trở việc thi hành
pháp luật, hoặc trái với lợi Ých công cộng hoặc phương hại tới quyền lợi
thương mại hợp pháp của một doanh nghiệp nào đó.
* Nguyên tắc tự do hóa từng bước:
Việc thừa nhận nguyên tắc tự do hóa từng bước trong GATS là kết quả
đấu tranh của các nước đang phát triển trong đàm phán về thương mại dịch vụ
tại vòng đàm phán Urugoay. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc này chính là sự
khơng đồng nhất về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia. Hơn
nữa, hiện tại về khoảng cách về trình độ phát triển, xét cả về tổng thể nền kinh
tế cũng như từng lĩnh vực dịch vụ cụ thể, giữa các nước phát triển và đang
phát triển là rất lớn. Vì vậy quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ phải được
tiến hành từng bước phù hợp với thực tiễn phát triển của mỗi quốc gia.
Theo quy định của GATS, "Tiến trình tự do hóa được tiến hành với sự
quan tâm đúng mức đến mục tiêu chính sách quốc gia và trình độ phát triển
của mỗi thành viên". Mục tiêu của nguyên tắc này là nhằm đạt được mức độ
tự do hóa thương mại dịch vụ ngày càng cao hơn, hướng tới giảm hoặc loại bỏ
những trở ngại đối với thương mại dịch vụ trên cơ sở cùng có lợi và bảo đảm
cân bằng tổng thể quyền lợi và nghĩa vụ. Tiến trình tự do hóa từng bước được
đẩy mạnh thơng qua từng vịng đàm phán (song phương hoặc đa biên) theo


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

hướng tăng dần mức độ của các cam kết cụ thể).
* Nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước thành viên

đang phát triển hoặc trong quá trình chuyển đổi
Tổ chức tiền thân của WTO là GATT đã có những ưu đãi nhất định dành
cho các nước thành viên đang phát triển thông qua hệ thống các đối xử đặc
biệt và khác biệt. Tuy nhiên, chỉ đến khi WTO ra đời sự đối xử đặc biệt và
khác biệt dành cho các nước thành viên đang phát triển mới được khẳng định
là nguyên tắc cơ bản điều chỉnh hệ thống đa biên. Nguyên tấcnỳ không chỉ kế
thừa những quy định ưu đãi của GATT về thương mại hàng hóa dành cho các
nước đang phát triển mà còn mở rộng áp dụng cho thương mại dịch vụ đầu tư
và quyền sở hữu trí tuệ. Đây là thành quả đấu tranh liên tục của các nước
đang phát triển Urugoay. Bởi vì, một trong những nguyên tắc cơ bản trong
quan hệ quốc tế nói chung, thương mại quốc tế nói riêng là bình đẳng và cùng
có lợi. Tuy nhiên, trên thực tế, ưu thểtong thương mại quốc tế thuộc về những
nước công nghiệp phát triển với tiềm lực lớn về cơng nghệ, tài chính. Trong
khi đó, bất lợi thuộc về các nước đang phát triển do khoảng cách lớn về trình
độ phát triển với các nước phát triển. Vì vậy, ngun tắc bình đẳng, khơng
phân biệt đối xử chỉ có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển khi họ được
hưởng những ưu đãi nhất định hơn so với các nước phát triển, nhờ đó thúc
đẩy họ tham gia vào hệ thống thương mại đa biên, hạn chế phần nào bất lợi và
tận dụng được những lợi Ých của hệ thống thương mại đa biên.
Theo quy định của GATS, nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành
cho các nước thành viên đang phát triển thể hiện ở những nội dung sau đây:
Thứ nhất, những cam kết cụ thể đạt được thông qua đàm phán phải bảo
đảm các nước thành viên đang phát triển tăng cường năng lực cạnh tranh của
các ngành dịch vụ, nâng cao khả năng tiếp cận các kênh phân phối và hệ
thống thông tin, đồng thời mở cửa thị trường trong các lĩnh vực và phương
thức cung cấp gắn liền với mối quan tâm xuất khẩu của các nước thành viên


Nguyễn Văn Tó


SBD 200

đang phát triển.
Thứ hai, về đàm phán mở rộng thị trường dịch vụ, những nước phát triển
phải áp dụng phương pháp loại trừ (không mở cửa lĩnh vực nào thì phải liệt kê
trong danh mục cam kết cụ thể và những lĩnh vực còn lại đều phải mở cửa),
nhưng các nước đang phát triển được áp dụng phương pháp "chọn-cho".
Nghĩa là mở cửa lĩnh vực nào thì liệt kê lĩnh vực đó trong danh mục cam kết
cụ thể, các lĩnh vực không liệt kê là không cam kết. Hơn nữa, các thành viên
đang phát triển được hưởng sự linh hoạt thích đáng trong việc mở cửa thị
trường với Ýt lĩnh vực hơn, tự do hóa Ýt loại hình giao dịch hơn. Tuy nhiên,
việc chọn lĩnh vực dịch vụ để cam kết không được thực hiện một cách tùy ý
mà phải thông qua đàm phán. Thực tế cho thấy các nước phát triển thường
gây áp lực để các nước đang phát triển đưa nhiều lĩnh vực dịch vụ vào cam
kết thị trường.
Thứ ba, trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực,
các nước thành viên phát triển và các thành viên khác, tùy theo khả năng, sẽ
lập những điểm liên lạc để tạo điều kiện cho những người cung cấp dịch vụ
của các nước thành viên đang phát triển tiếp cận thông tin về thị trường của
nước đó.
Việc ghi nhận sự đối xử ưu đãi dành cho các nước đang phát triển trong
các hiệp định của WTO nói chung, GATS nói riêng thể hiện sự tiến bộ trong
quan hệ thương mại quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, phần lớn những ưu đãi được
quy định chỉ mang tính định hướng, thiếu tính cụ thể và khả thi. Chẳng hạn
như Điều 19 của GATS quy định: "Sự linh hoạt thích đáng cho các thành viên
đang phát triển trong việc mở cửa thị trường với Ýt lĩnh vực hơn, tự do hóa
Ýt loại hình giao dịch hơn…".Những ưu đãi nhìn chung vẫn chưa phản ánh
đúng khoảng cách lớn về trình độ phát triển giữa các nước thành viên phát
triển và đang phát triển. Ví dụ, Hiệp định dịch vụ viễn thông cơ bản cho phép
các nứôc có thu nhập thấp kéo dài thêm 6 năm so với các nước phát triển



Nguyễn Văn Tó

SBD 200

trong việc mở cửa thị trường dịch vụ viễn thơng, nhưng thực tế các nước đó
lạc hậu hơn các nước phát triển trong lĩnh vực này từ 20 đến 30 năm.
c. Quy định về sự công nhận
GATS cho phép các nước thành viên được quy định cấp phép đối với
việc cung cấp dịch vụ trong những lĩnh vực cam kết cụ thể, nhưng những yêu
cầu về chuyên môn, thủ tục, tiêu chuẩn kỹ thuật để được cấp phép không tạo
thành những trở ngại cho thương mại dịch vụ. Những yêu cầu như vậy phải
bảo đảm: (i) dùa trên những tiêu thức khách quan và minh bạch, như năng lực
và khả năng cung cấp; (ii) không rườm rà hơn mức cần thiết để bảo đảm chất
lượng dịch vụ; (iii) trong trường hợp có thủ tục cấp phép, khơng trở thành hạn
chế cung cấp dịch vụ.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho người cung cấp dịch vụ nước ngoài, một
thành viên có thể cơng nhận giấy phép hoặc chứng chỉ do một nước thành
viên khác cần là đáp ứng toàn bộ hoặc một phần những yêu cầu cấp phép
nước mình. Khi áp dụng các tiêu chuẩn, tiêu thức để được cấp phép hoặc
chứng nhận người cung cấp dịch vụ, nước thành viên sẽ không sử dụng sự
công nhận để tạo ra sự phân biệt đối xử hoặc hạn chế trá hình đối với thương
mại dịch vụ. Việc cơng nhận giấy phép hoặc chứng chỉ do một nước thành
viên khác cấp có thể được tiến hành trên cơ sở một hiệp định hoặc thỏa thuận
với nước có liên quan hoặc mặc nhiên công nhận. Nếu giữa mét số nước
thành viên đang hoặc sẽ có hiệp định về sự cơng nhận như trên, thì phải tạo
điều kiện cho các thành viên khác được đàm phán gia nhập hiệp định đó. Các
nước thành viên phải thông báo cho Hội đồng thương mại dịch vụ về những
biện pháp công nhận hiện hành và những biện pháp công nhận mới dự định áp

dụng, những hiệp định về cơng nhận mà mình đang hoặc sẽ tham gia.
d. Quy định về thể chế
Hội đồng thương mại dịch vụ, chịu sự chỉ đạo chung của Đại hội đồng,
có chức năng giám sát thực hiện các quy định của GATS. Để thực hiện chức


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

năng được giao Hội đồng Thương mại dịch vụ có thể thành lập những cơ
quan trực thuộc nếu thấy cần thiết. Các thành viên có thể cử đại diện tham gia
Hội đồng thương mại và các cơ quan của Hội đồng. Các nước thành viên bầu
Chủ tịch Hội đồng.
Khác với GATT, WTO có một hệ thống giải quyết tranh chấp mang tính
định chế cao, được xem là một yếu tố trung tâm đảm bảo cho hệ thống thương
mại đa biên vận hành "an tồn và có tính khả đoán" (predictability). Tranh
chấp giữa các thành viên GATS phát sinh từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình do cơ quan giải quyết tranh chấp (Dispute Settlement Body - DSB)
giải quyết theo trình tự, thủ tục được quy định tại thỏa thuận về Quy tắc và
thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (Dispute Settlement Body DSU). Khi có tranh chấp xảy ra các thành viên khơng được hành động đơn
phương, mà phải đưa ra giải quyết tại DSB.
Cần lưu ý rằng tranh chấp theo quy định của WTO là tranh chấp giữa các
quốc gia thành viên phát sinh trong quá trình thực hiện những nguyên tắc và
quy định của WTO, chứ không phải là tranh chấp giữa những người cung cấp
dịch vụ của các nước thành viên. Phán quyết của DSB đối với một tranh chấp
là buộc một (hoặc nhiều) nước thành viên có liên quan phải điều chỉnh chính
sách, quy định của mình sao cho phù hợp với quy định của WTO.
II. NHỮNG THÁCH THỨC TRONG NGÀNH DỊCH VỤ KHI VIỆT NAM
GIA NHẬP WTO


Toàn cầu hóa là xu thế khách quan được thúc đẩy bởi sự phát triển mạnh
mẽ của cuộc cách mạng khoa học hiện đại. Tồn cầu hóa làm gia tăng sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia thông qua liên kết kinh tế. Liên kết kinh tế
diễn ra ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau, trong đó liên kết trong khuôn
khổ WTO là sự liên kết kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Nhận thức được xu thế
phát triển khách quan của thời đại, Đảng và Nhà nước ta nhất quán chính sách
chủ động hội nhập quốc tế. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VIII) khẳng định:


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

"Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về
những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường
khu vực và thị trường quốc tế. Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm
phán hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO".
GATS là một trong những văn kiện pháp lý cơ bản cấu thành của WTO
ràng buộc tất cả các thành viên của WTO, nên muốn là thành viên của WTO
Việt Nam đương nhiên phải gia nhập GATS. Do điều kiện kinh tế xây dựng
đặc thù của nước ta, nên việc gia nhập GATS không chỉ mang lại chongành
dịch vụ những cơ hội để phát triển mà còn cả những thách thức. Vì thế, cần
thiết phải xác định những cơ hội, thách thức khi gia nhập GATS; Trên cơ sở
đó, nghiên cứu và đề ra những sách lược, biện pháp nhằm tận dụng tốt những
cơ hội phát triển, đồng thời hạn chế, vượt qua thách thức, khó khăn.
1. Cơ hội
Thứ nhất: Gia nhập WTO nói chung, GATS nói riêng sẽ thúc đẩy công
cuộc đổi mới kinh tế của đất nước, thúc đẩy xây dựng, hồn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật, tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh. Bởi

để gia nhập GATS chóng ta phải chấp nhận những quy định, nguyên tắc điều
chỉnh thương mại dịch vụ của GATS. Trong khi đó, hệ thống chính sách,
pháp luật về thương mại dịch vụ ở nước đang trong quá trình xây dựng, từng
bước hồn thiện. Chính vì vậy, việc thực hiện cam kết trong khuôn khổ
GATS buộc chúng ta phải đẩy mạnh q trình xây dựng, hồn thiện chính
sách, pháp luật sao cho thích ứng với quy định của GATS.
Thứ hai: Mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết sẽ tạo động lực thúc
đẩy cạnh tranh lành mạnh, đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường dịch vụ,
qua đó hạn chế tác động tiêu cực của độc quyền kinh doanh, cung cấp cho
người tiêu dùng những dịch vụ có chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn. Mơi
trường cạnh tranh mới buộc các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam phải cải
cách, cơ cấu lại tổ chức, hoạt động nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, hiệu


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

quả kinh doanh. Đồng thời tăng hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp
dịch vụ, đặc biệt các doanh nghiệp viễn thông, vận tải, ngân hàng sẽ gián tiếp
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác
của nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba: Gia nhập GATS sẽ góp phần cải thiện môi trường đầu tư, đảm
bảo cho các nhà đầu tư nước ngồi n tâm đầu tư vốn và cơng nghệ vào các
ngành dịch vụ ở Việt Nam. Hiện nay nhu cầu đầu tư để mở rộng và hiện đại
hóa trong những ngành dịch vụ giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nh
viễn thông, vận tải, ngân hàng, dịch vụ,… rất lớn. Do nguồn vốn trong nước
hạn chế nên vốn đầu tư nước ngoài vào những ngành này là cần thiết, tạo ra
năng lực sản xuất mới, qua đó thúc đẩy tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Thứ tư: Thông qua mở cửa thị trường dịch vụ, giảm thiểu những hàng

rào và biện pháp hạn chế, xóa bỏ những phân biệt đối xử trong thương mại
dịch vụ, các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam có thể tiếp cận nhiều thị trường
mới, có thêm cơ hội và đối tác để phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
Trong điều kiện hợp tác, cạnh tranh ở môi trường rộng lớn, chúng ta có thể
tìm ra hướng đi để phát huy lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu
dịch vụ, đặc biệt là xuất khẩu dịch vụ.
Hơn nữa khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam có thể tận dụng
và phát huy hiệu ứng "kéo - đẩy" giữa thương mại hàng hóa, đầu tư và thương
mại dịch vụ. Bởi vì sự phát triển của thương mại hàng hóa, đầu tư sẽ kéo theo
sự phát triển của thương mại dịch vụ, ngược lại, sự phát triển của thương mại
dịch vụ thúc đẩy sự phát triển của thương mại hàng hóa, đầu tư.
Thứ năm: Những cam kết trong khn khổ GATS tạo điều kiện cho Việt
Nam cải thiện quan hệ song phương với các nước, nhất là trong lúc chúng ta
chưa đạt được những thỏa thuận về thương mại, tài chính và đầu tư với nhiều
nước. Tham gia GATS còn giúp Việt Nam hội nhập thực sự và khai thác tốt
các thỏa thuận về dịch vụ trong khuôn khổ ASEAN, APEC, và trong những


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

chõng mực nhất định cải thiện quan hệ với các tổ chức quốc tế khác.
Đặc điểm nổi bật của tồn cầu hóa hiện nay là ưu thế thuộc về các nước
tư bản phát triển. Những nước này với sức mạnh kinh tế của mình lợi dơng
q trình tự do hóa thương mại, đầu tư để chi phối nền kinh tế thế giới, áp đặt
quan hệ bất bình đẳng đối với các nước khác. Vì vậy, WTO là diễn đàn ở đó
Việt Nam thơng qua đồn kết với các nước đang phát triển và chậm phát triển
đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
2. Thách thức

Thứ nhất, thách thức lớn nhất đối với Việt Nam khi gia nhập GATS là
xuất phát điểm và trình độ phát triển của nước ta còn thấp so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới. Về cơ bản, nước ta vẫn chưa thốt khỏi một
nền kinh tế tiểu nơng lạc hậu. Mặc dù nông nghiệp chỉ tạo ra 26% GDP
nhưng vẫn chiếm hơn 70% lực lượng lao động xã hội. Dự báo vào khoảng
năm 2020 nước ta bắt đầu có thể có cơ cấu kinh tế ngành phù hợp với nền
kinh tế cơng nghiệp hóa. Gia nhập GATS, Việt Nam phải tuân thủ "luật chơi"
của cơ chế thị trường toàn cầu áp dụng cho tất cả thành viên, "buộc phải đấu
với những võ sĩ hạng lớn là các nước phát triển trên cùng một võ đài". Rõ
ràng, thách thức này là rất lớn, nhưng Việt Nam không thể chờ đến khi có nền
kinh tế phát triển thì mới gia nhập GATS, mà ngược lại chúng ta phải quyết
tâm tìm ra những quyết sách biến hội nhập thành công cụ thực hiện thắng lợi
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, khả năng cạnh tranh của các ngành dịch vụ ở nước ta nói chung
cịn thấp bởi cơng nghệ lạc hậu, trình độ quản lý và kinh nghiệm kinh doanh
hạn chế. Chẳng hạn, bưu chính viễn thơng là một trong những ngành dịch vụ
đã tạo dựng được cơ sở vật chất khá hiện đại, nhưng khả năng cạnh tranh vẫn
không cao, năng suất lao động thấp (mới chỉ đạt khoảng 4 máy điện thoại/100
dân trong khi trung bình của thế giới là 12 máy/100 dân).
Hơn nữa, do được bảo hộ trong thời gian dài nên tâm lý "ỷ lại" vào sự


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

bảo hộ của nhà nước khơng thể nhanh chóng xóa bỏ ngay được. Các doanh
nghiệp (kể cả doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế phi nhà nước) thường
giành lấy sự bảo hộ của nhà nước càng nhiều càng Ýt, Ýt quan tâm đến nâng
cao năng lực cạnh tranh. Thậm chí u cầu địi bảo hộ và bao cấp có xu

hướng tăng lên khi nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn trong vài năm gần
đây. Vì vậy khi gia nhập GATS, bản thân mỗi doanh nghiệp dịch vụ trong
nước phải tự đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, xóa bỏ tư tưởng chờ đợi
vào sự bảo hộ của nhà nước, loại bỏ kiểu kinh doanh "chộp dựt". Mỗi doanh
nghiệp cần xây dùng cho mình chiến lược phát triển, đầu tư cho nghiên cứu
và phát triển (R & D) để thích ứng với mơi trường cạnh tranh khốc liệt và sự
phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ.
Thứ ba, các quốc gia thành viên GATS phải bảo đảm luật lệ, quy định
của mình tự tương thích với cácnghĩa vụ đã cam kết. Đây cũng là một thách
thức lớn đối với Việt Nam nếu chúng ta muốn gia nhập GATS. Bởi vì, khác
với các nước khác, hệ thống chính sách, pháp luật thương mại nói chung,
chính sách, pháp luật về thương mại dịch vụ nói riêng của Việt Nam chịu sự
tác động của cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây. Chính vì vậy, hệ thống
pháp luật nước ta trở nên bất cập với luật chơi của nền kinh tế thế giới, nền
kinh tế thị trường ở quy mơ tồn cầu. Gia nhập GATS tức là chấp nhận những
nguyên tắc, chuẩn mức của GATS, theo đó phải bảo đảm thiết lập một khn
khổ pháp lý cơng khai, minh bạch bình đẳng. Do đó cơng tác chuẩn bị cho gia
nhập GATS rất nặng nề, bao gồm nghiên cứu các quy định của GATS
(WTO); xây dựng, điều chỉnh khung quản lý; đào tạo cán bộ, nâng cao kiến
thức và năng lực quản lý vĩ mô,…
Mặt khác, tính chất cơ bản của nền kinh tế nước ta hiện nay đang chuyển
đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN. Vì vậy, chúng ta phải xử lý nhiều mối quan hệ
phức tạp: giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng XHCN, giữa hội


Nguyễn Văn Tó

SBD 200


nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân téc, giữa hợp tác và cạnh tranh,
giữa bảo đảm vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước và bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế,… do đó, thách thức đối với Việt Nam là xây
dựng, điều chỉnh chính sách, pháp luật một mặt phải thích ứng với quy định
GATS nhưng mặt khách phải phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế của đất
nước, bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân téc.
Thứ tư, hiện nay xu thế tồn cầu hóa thương mại dịch vụ phát triển
nhanh, mở rộng ra nhiều lĩnh vực dịch vụ. Kinh nghiệm của những nước gia
nhập WTO gần đây cho thấy các nước thành viên GATS có xu hướng rút
ngắn thời hạn tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ, yêu cầu các nước đang đàm phán
gia nhập cam kết đối xử quốc gia và tiếp cận thị trường rộng mở hơn những
cam kết đã đạt được tại vòng đàm phán Urugoay. Điều đó khiến đàm phán gia
nhập GATS của ta trở nên phức tạp, khó khăn hơn, yêu cầu các nước thành
viên đối với cam kết của ta càng khắt khe hơn, thời hạn hưởng ưu đãi ngắn
hơn.
Như vậy, việc gia nhập thể chế thương mại tồn cầu khơng đơn thuần chỉ
mang lại cơ hội mà cịn cả thách thức, khó khăn. Nhưng nếu Việt Nam khơng
tích cực tham gia sân chơi chung thì thách thức cịn lớn hơn nhiều, khơng
tránh khỏi bị "bỏ rơi" và "tụt hậu". GATS tạo ra một khn khổ chính sách,
quy chung về thương mại dịch vụ, nhưng việc vận dụng những quy định
chung đó sao cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam hoàn tồn do chóng ta
quyết định. Do đó, cần phải có sự chuẩn bị cần thiết, khẩn trương, tích cực
nhưng khơng chủ qan, nóng vội để gia nhập GATS chóng ta có thể thực hiện
thực hóa những cơ hội phát triển, vượt qua những thách thức, khó khăn. Mặc
dù trong những năm gần đây Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới nhưng mức độ và phạm vi chưa sâu rộng.
Một trong những khó khăn của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế là



Nguyễn Văn Tó

SBD 200

hạn chế về kinh nghiệm hội nhập.
Đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ còn khá mới mẻ đối với nước ta. Chính
vì vậy, việc nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của những nước đi trước, nhất là
những nước có trình độ phát triển, điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng với
nước ta, rất cần thiết cả về lý luận và thực tiễn.
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ

1. Một số đề xuất
Trên cơ sở những quan điểm nêu trên, tiểu luận xin đề xuất một số giải
pháp sau đây mà Việt Nam cần thực hiện để thích ứng với các quy định WTO
về thương mại dịch vụ.
a. Xây dựng chiến lược chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, xác định lé
trình hội nhập hợp lý cho từng lĩnh vực dịch vụ.
Hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước
ta. Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải đưa hội
nhập kinh tế quốc tế lên trình độ cao hơn. Đó là phải có sự nhận thức thống
nhất và thơng suốt trong toàn Đảng, toàn dân về bản chất, cơ hội và thách
thức của tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động hội nhập, khơng
thụ động đối phó để khai thác thuận lợi, khắc phục khó khăn, hạn chế mặt tiêu
cực. Muốn vậy, cần thiết xây dựng chiến lược chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế. Chiến lược hội nhập sẽ là cơ sở, nền tảng bảo đảm sự thống nhất về tư
tưởng và hành động trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Chiến lược chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trước hết khẳng định mục
tiêu, nguyên tắc chỉ đạo hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phát triển
đất nước bền vững, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa theo hướng
XHCN, thực hiện dân giàu, nướcmạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Để thực hiện được mục tiêu đó, hội nhập kinh tế quốc tế phải đảm bảo những
nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Giữ vững độc lập, tự chủ, định hướng XHCN, giữ gìn và phát huy bản


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

sắc văn hóa dân téc.
- Hội nhập kinh tế quốc tế phải được tiến hành từng bước với lé trình
hợp lý, khả thi nhằm khai thác thuận lợi, vượt qua qua khó khăn thách thức.
Quán triệt mục tiêu, nguyên tắc được đề ra trong chiến lược chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng lé trình hội nhập hợp lý, khả thi cho từng
lĩnh vực, trong đó có lé trình mở cửa thị trường dịch vụ. Việc xây dựng lé
trình mở cửa thị trường dịch vụ cần quan tâm tới những vấn đề sau:
* Lé trình cam kết mở cửa thị trường phải phản ánh được chiến lược phát
triển kinh tế trung và dài hạn được xác định trong các văn kiện của Đảng.
* Bảo đảm chủ động đưa nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và
thế giới đồng thời vẫn bảo hộ hợp lý những dịch vụ quan trọng có tác động tới
chủ quyền quốc gia, ổn định kinh tế.
* Lé trình được xây dựng trên cơ sở phân tích, đánh giá khả năng cạnh
tranh của từng ngành dịch vụ.
* Lé trình được xây dựng trên cơ sở phối hợp chặt chẽ giữa các bộ,
ngành hữu quan về dịch vụ.
* Có tính đến mức độ mở cửa thị trường dịch vụ đã cam kết trong hiệp
định thương mại Việt - Mỹ.
- Tham khảo tới mức cao nhất các đối xử đặc biệt và khác biệt của WTO
dành cho các nước đang phát triển và/hoặc đang trong quá trình chuyển đổi để
vận dụng những ưu đãi có lợi cho phát triển dịch vụ ở nước ta. Học tập có

chọn lọc kinh nghiệm mở cửa thị trường dịch vụ của những nước có điều
kiện, hoàn cảnh tương đồng với Việt Nam.
b. Từng bước xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện quy định pháp luật về
một số dịch vụ
Mét trong những thách thức lớn đối với Việt Nam trong quá trình đàm
phán gia nhập GATS là phải thích ứng chính sách, pháp luật về thương mại
dịch vụ với quy định của GATS. Một số chính sách, quy định pháp luật cần


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

được điều chỉnh, thay đổi, xây dựng mới nhằm loại bỏ những rào cản bất
thương thích với quy định của GATS. Do dịch vụ và thương mại dịch vụ
phong phú, có những vấn đề nhạy cảm nên việc xây dựng, điều chỉnh, hồn
thiện chính sách, pháp luật về thương mại dịch vụ để thích ứng với GATS là
hết sức khó khăn, phức tạp.
2. Một số kiến nghị
- Hiện tại, chưa cơ văn bản thống nhất điều chỉnh hoạt động dịch vụ
pháp lý nói chung, tư vấn pháp luật nói riêng. Vì vậy, cần nghiên cứu, soạn
thảo, ban hành Luật (hoặc Pháp lệnh) hành nghề tư vấn pháp luật để điều
chỉnh hoạt động tư vấn pháp luật của cả tổ chức luật sư Việt Nam và tổ chức
luật sư nước ngoài. Để tạo điều kiện thuận lợi thi hành Luật doanh nghiệp
trong lĩnh vực tư vấn pháp luật, Bộ tư pháp nên quy định cụ thể về việc cấp
phép hành nghề tư vấn pháp luật cho công dân Việt Nam.
- Xem xét khả năng mở rộng hình thức hiện diện thương mại của tổ chức
luật sư nước ngoài. Hiện tại, mỗi tổ chức luật sư nước ngoài chỉ được mở hai
chi nhánh tại Việt Nam. Hạn chế số lượng này là kết quả tham vấn giữa Bộ tư
pháp với các tổ chức luật sư nước ngoài, được xem là "hợp lý" và đáp ứng

mong đợi của các tổ chức luật sư nước ngoài. Tuy nhiên, hạn chế này đương
nhiên trái với quy định của GATS, do đó sẽ được xem xét quá trình đàm phán
gia nhập.
- Hạn chế khơng cho phép tổ chức luật sư nước ngồi th luật sư Việt
Nam làm việc trong Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài là quy định chủ
quan và có hiệu lực thấp trên thực tế. Bởi rất khó quản lý, giám sát việc người
lập sự hành nghề tư vấn pháp luật có tư vấn cho khách hàng hay khơng. Do
đó, nên cho phép luật sư Việt Nam được làm việc tại chi nhánh của tổ chức
luật sư nước ngồi, nhờ đó luật sư Việt Nam có điều kiện để nâng cao trình độ
nghề nghiệp, học hỏi kinh nghiệm, nhất là trong lĩnh vực pháp luật quốc tế.
- Về điều kiện cấp phép hành nghề: Điều kiện "có thiện chí với Nhà


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

nước Việt Nam" rất khơng rõ ràng, thiếu minh bạch, do đó nên thay bằng
"chưa có biểu hiện chống lại Nhà nước Việt Nam". Trong số điều kiện để mở
chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngồi có quy định tổ chức đó phải "có uy
tín trong tư vấn pháp luật". Điều kiện này chính là định tính, khó xác định. Vì
vậy, có thể thay thế bằng số năm đã hoạt động của tổ chức luật sư đó (ví dơ, 5
năm 10 năm hoặc 15 năm) kể từ khi thành lập tới thời điểm xin mở chi nhánh.
3. Khẩn trương soạn thảo, ban hành luật cạnh tranh và chống độc
quyền
Cạnh tranh là quy luật khách quan cơ bản của cơ chế thị trường, là động
lực thúc đẩy sự vận động và phát triển kinh tế. Vì thế, luật cạnh tranh và
chống độc quyền, bộ phận cơ bản cấu thành chính sách cạnh tranh, là cơng cụ
cần thiết của Nhà nước để bảo vệ cạnh tranh.
Thực tiễn chuyển đổi kinh tế ở nước ta từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung

sang cơ chế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới trong
những năm qua cho thấy sự cần thiết phải xây dựng, ban hành Luật cạnh tranh
và chống độc quyền, bảo đảm môi trường kinh doanh cạnh tranh "lành mạnh,
hợp pháp, văn minh". Việc ban hành luật này khơng chỉ góp phần thúc đẩy
sản xuất kinh doanh, bảo vệ quyền lợi của người sản xuất còng như người tiêu
dùng mà còn phù hợp với yêu cầu của WTO về cạnh tranh và tự do hóa
thương mại, từ đó đẩy nhanh tiến trình hội nhập GATS và WTO của Việt
Nam.
Thật vậy, các quy định của GATS mà nền tảng là nguyên tắc minh bạch,
không phân biệt đối xử, thiết lập một khuôn khổ pháp lý đa biên cho thương
mại dịch vụ quốc tế, nhằm phát triển thương mại dịch vụ trong một mơi
trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và từng bước được tự do hóa. Tuy
nhiên, việc dỡ bỏ những hạn chế đối với thương mại dịch vụ trong khuôn khổ
GATS chưa đủ bảo đảm cho môi trường cạnh tranh thực sự lành mạnh, bình
đẳng trong thương mại dịch vụ. Bởi vì, tạo lập mơi trường cạnh tranh lành


Nguyễn Văn Tó

SBD 200

mạnh khơng chỉ phụ thuộc vào cam kết của chính phủ về dỡ bỏ rào cản
thương mại dịch vụ, mà còn phụ thuộc vào cấu trúc thị trường dịch vụ của
mỗi quốc gia. Quy định của GATS chỉ điều chỉnh những biện pháp có tác
động tới thương mại dịch vụ do chính phủ của các nước thành viên thực hiện,
nhưng không điều chỉnh hành vi cạnh tranh cả các chủ thể kinh doanh trên thị
trường dịch vụ. Khi những rào cản thương mại được dỡ bỏ, các doanh nghiệp
dịch vụ nước ngồi có thể thực hiện những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh hoặc hạn chế cạnh tranh nhằm thao túng thị trường ở những nước
khơng có luật cạnh tranh và chống độc quyền. Và chính những nước khơng có

luật cạnh tranh và chống độc quyền sẽ trở thành "nạn nhân" của các hoạt động
hạn chế cạnh tranh xun quốc gia. Vì vậy, GATS thừa nhận có những "thông
lệ kinh doanh của những người cung cấp dịch vụ có thể hạn chế sự cạnh tranh
và qua đó hạn chế thương mại dịch vụ" mà các nước thành viên phải xóa bỏ.
Do đó, luật cạnh tranh và chống độc quyền là sự bổ sung cần thiết cho những
cam kết tự do hóa thương mại dịch vụ theo quy định của GATS nhằm bảo
đảm sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong thương mại dịch vụ.
Ở nước ta hiện nay, cơ chế cạnh tranh đã xuất hiện và bắt buộc được vận

hành. Tuy nhiên, nhận thức về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh chưa rõ
ràng, còn nhầm lẫn vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
với vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước, nên chưa có sự thống nhất quan
điểm về cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền. Tư tưởng phân biệt
đối xử thành phần kinh tế Nhà nước với thành phần kinh tế phi nhà nước còn
tồn tại ngay trong q trình hoạch định chính sách cũng như thực tiễn kinh
doanh. Trong những năm gần đây đã xuất hiện những hoạt động cạnh tranh
không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị thế độc quyền để nâng giá
(chẳng hạn nh dịch vụ viễn thông). Một số quy định điều chỉnh các hành vi có
liên quan đến cạnh tranh đã được ban hành nằm rải rác ở nhiều văn bản. Song,
phần nhiều những quy định đó chỉ mang tính ngun tắc, khơng có hệ thống,


×