Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

dịch vụ Logistics và pháp luật kinh doanh dịch vụ Logistics

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.81 KB, 17 trang )

Lời mở đầu
Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của lịch sử xã hội loài người, các hoạt
động kinh tế luôn chiếm giữ vị trí đặc biệt quan trọng và tác động mạnh mẽ tới các
hoạt động xã hội khác. Hoạt động kinh tế là yếu tố quyết định đối với sự tồn tại của
xã hội loài người, sự tồn tại, phát triển, tiêu vong của các chế độ chính trị trong lịch
sử. Chính vì vậy, giai cấp thống trị trong xã hội ở điều kiện nhất định, luôn tìm
cách tác động tới các quan hệ kinh tế ở các mức độ khác nhau nhằm duy trì và bảo
đảm cho lợi ích của giai cấp mình.
Trong nền kinh tế thì trường, kinh doanh dịch vụ là lĩnh vực hứa hẹn nhiều
tiềm năng phát triển. Xã hội phát triển càng cao thì đòi hỏi các dịch vụ được cung
cấp phải thể hiện tính năng ưu việt, toàn diện với mục đích đem đến sự thuận lợi
nhất đối với khách hàng sử dụng.
Là sự phát triển cao của dịch vụ giao nhận kho vận, dịch vụ vận tải đa
phương thức v.v.. dịch vụ logistics đã chứng minh được những ưu điểm nổi trội của
mình và những lợi ích đó có thể khiến cho khách hàng hoàn toàn yên tâm và thỏa
mãn về sự phong phú và tính hiệu quả của dịch vụ. Dịch vụ logistics ngày càng
phát triển trên thế giới. Ở Việt Nam, dù dịch vụ logistics mới được hình thành
nhưng cũng đã đem lại nhiều giá trị trong nền kinh tế quốc dân, mở ra một cơ hội
cho các doanh nghiệp có thể đầu tư và khai thác.
Nội dung
I. Những vấn đề lý luận chung về dịch vụ Logistics và pháp luật kinh doanh
dịch vụ Logistics
1. Khái niệm và đặc điểm dịch vụ logistics
1.1. Khái niệm thuật ngữ logistics
Tuy thuật ngữ logistics đã được thế giới sử dụng phổ biến trong suốt thời
gian dài, nhưng tại Việt Nam thì thuật ngữ này còn khá mới mẻ. Trên thế giới hiện
nay, logistics được biết đến với những khái niệm chủ yếu:
- Tài liệu của Liên hợp quốc (UNESCAP) định nghĩa: logistics là hoạt động
quản lý dòng chu chuyển và lưu kho nguyên vật liệu, quá trình sản xuất thành
phẩm xử lý các thông tin liên quan v.v.. từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ cuối cùng
theo yêu cầu của khách hàng.


- Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ - 1988 định nghĩa: logistics là quá trình
lên kế hoạch thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu
chuyển và giữ nguyên vật liệu, hàng tồn thành phẩm và các thông tin liên quan từ
điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ, nhằm mục đích thỏa mãn những yêu cầu của khách
hàng.
- Theo Ngân hàng thế giới (WB): logistics liên quan đến việc quản lý dây
chuyền cung cấp hoàn chỉnh một sản phẩm đặc thù, bao gồm vận tải nguyên liệu
đàu vào và sản phẩm đầu ra, lưu kho, phân phối, liên kết các phương thức vận tải
và các dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại.
- Ở Việt Nam Điều 233 LTM năm 2005 (thay thế cho khái niệm “dịch vụ
giao nhận hàng hóa” của LTM năm 1997) định nghĩa: “Dịch vụ logistics là hoạt
động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc
bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ
tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng
hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng
để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ
lôgstic”.
Qua các định nghĩa trên cho thấy, logistics không phải là một dịch vụ đơn lẻ.
Logistics luôn là một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hóa như: làm các thủ tục
giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho, lưu bãi, phân phát
hàng hóa (nguyên liệu hay thành phẩm) tới các địa chỉ khác nhau. Chính vì vậy, nói
tới logistics người ta bao giờ cũng nói tới một chuỗi hệ thống dịch vụ (logistics
system chain). Logistics chính là quá trình tối ưu hóa mọi công việc, hoặc thao tác
từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối và tiêu dùng.
Cho đến nay, logistics chưa được dịch sang tiếng việt. Nên thuật ngữ này
được dùng như một từ mượn tại Việt Nam. Bởi, chưa có quan điểm chung thống
nhất và nó bao gồm nhiều loại hình dịch vụ các cách dịch đều chưa thỏa đáng.
1.2 Đặc điểm của dịch vụ logistics
a. Chủ thể của quan hệ dịch vụ gồm hai bên:
- Nhà cung cấp dịch vụ;

- Khách hàng.
Trong đó, nhà cung cấp dịch vụ logistics phải là thương nhân, kinh doanh có
điều kiện. Theo LTM năm 2005 thì “điều kiện” đó nghĩa là phải đăng ký kinh
doanh (ĐKKD) để thực hiện dịch vụ logistics. Thủ tục ĐKKD được thực hiện theo
đạo luật đơn hành phụ thuộc vào hình thức pháp lý của thương nhân và giấy chứng
nhận ĐKKD (GCNĐKKD) phải ghi rõ ngành nghề là dịch vụ logistics.
Khách hàng là những người có hàng hóa cần gửi hoặc cần nhận và có nhu
cầu sử dụng dịch vụ giao nhận. Khách hàng có thể là người vận chuyển hay thậm
chí là người làm dịch vụ khác. Như vậy, khách hàng có thể là thương nhân hay
không phải là thương nhân; có thể là chủ sở hữu hàng hóa hoặc không phải là chủ
sở hữu hàng hóa.
b. Nội dung của dịch vụ logistics rất đa dạng, bao gồm các công việc như:
- Nhận hàng từ người gửi để vận chuyển: đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu,
chuyển hàng từ kho của người gửi tới cảng, bến tàu, bến xe v.v.. theo thỏa thận
giữa người vận chuyển với người thuê vận chuyển.
- Làm các thủ tục giấy tờ cần thiết: thủ tục hải quan, vận đơn vận chuyển,
làm thủ tục gửi giữ hàng hóa v.v.. để gửi hàng hóa hoặc nhận hàng hóa được vận
chuyển đến.
- Giao hàng hóa cho người vận chuyển, xếp hàng hóa lên phương tiện vận
chuyển theo quy định, nhận hàng hóa được vận chuyển đến.
- Tổ chức nhận hàng, lưu kho, lưu bãi, bảo quản hàng hóa hoặc thực hiện
giao hàng hóa được vận chuyển đến cho người có quyền nhận hàng.
c. Dịch vụ logistics là một loại hoạt động dịch vụ.
Thương nhân kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa được khách hàng trả
tiền công và các khoản chi phí hợp lý khác từ việc cung ứng dịch vụ.
d. Đây là một loại dịch vụ mang tính liên hoàn, chuỗi các dịch vụ gắn kết
tương đối chặt chẽ với nhau.
2. Phân loại dịch vụ logistics
Theo pháp luật Việt Nam, tại Điều 4 Nghị định 140/2007/NĐ-CP ngày
5/9/2007 quy định chi tiết LTM về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới

hạn trách nhiệm thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics về phân loại dịch vụ
logistics: “Dịch vụ logistics theo quy định tại Điều 233 LTM được phân loại như
sau:
1. Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:
a) Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
b) Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh doanh
kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
c) Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan
và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa;
d) Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý
thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi
logistics; hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn kho,
hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho thuê và
thuê mua container.
2. Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
a) Dịch vụ vận tải hàng hải;
b) Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa;
c) Dịch vụ vận tải hàng không;
d) Dịch vụ vận tải đường sắt;
đ) Dịch vụ vận tải đường bộ.
e) Dịch vụ vận tải đường ống.
3. Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
a) Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;
b) Dịch vụ bưu chính;
c) Dịch vụ thương mại bán buôn;
d) Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho,
thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng;
đ) Các địch vụ hỗ trợ vận tải khác”.
Sự phận loại này là rất có ý nghĩa trong việc đưa ra các quy định pháp luật
điều chỉnh từng loại hình dịch vụ logistics tương ứng vì gắn với mỗi loại hình dịch

vụ có những đặc trưng riêng biệt.
3. Vai trò của dịch vụ logistics
- Dịch vụ logistics góp phần nâng cao hiệu quả pháp lý. giảm thiểu chi phí
trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
- Dịch vụ logistics có tác dụng tiết kiệm, giảm chi phí trong quá trình lưu
thông phân phối (ở đây, chủ yếu là phí vận tải chiếm tỷ lệ lớn, chi phí này cấu
thành giá cả hàng hóa trên thị trường. Dịch vụ logistics càng hoàn thiện và hiện đại
sẽ tiết kiệm cho chi phí vận tải và các chi phí khác phát sinh trong quá trình lưu
thông.Do đó, giảm thiểu được chi phí này sẽ góp phần làm cho giá cả hàng hóa trên
thị trường giảm xuống, mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng, tăng yếu tố cạnh
tranh trong các doanh nghiệp.
- Dịch vụ logistics góp phàn gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh
nghiệp giao nhận.
- Dịch vụ logistics góp phần mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế.
Các nhà sản xuất muốn chiếm lĩnh và mở rộng thị trường cho sản phẩm của
mình phải cần sự hỗ trợ của dịch vụ logistics. Dịch vụ này có tác dụng như cầu nối
trong vận chuyển hàng hóa trên các tuyến đường đến các thị trường mới đúng yêu
cầu về thời gian và địa điểm đặt ra. Nên doanh nghiệp có thể khai thác và mở rộng
thị trường nhanh và mạnh hơn.
- Dịch vụ logistics góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa
chứng từ kinh doanh quốc tế.
4. Pháp luật điều chỉnh đối với hoạt động dịch vụ logistics
Ở Việt Nam thuật ngữ logistics được công chúng quan tâm nhiều là khoảng
tháng 7/2006. Trước khi có thuật ngữ logistics được sử dụng ở Việt Nam, LTM
năm 1997 đã có quy định về “dịch vụ giao nhận hàng hóa”.
Dịch vụ giao nhận hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó người làm
dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức việc vận chuyển, lưu
kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng
cho người nhận hàng theo sự ủy thác của chủ hàng, của người vận tải hoặc của
người làm dịch vụ giao nhận khác (gọi chung là khách hàng).

Do thuật ngữ này không đủ để bao hàm những nội dung mà dịch vụ logistics
cung cấp nên LTM năm 2005 đã thay thế khái niệm này bởi khái niệm “dịch vụ
logistics”.
Ngoài việc tuân theo các quy định của LTM năm 2005, dịch vụ logistics phải
tuân theo các quy định chung như quy định của: BLDS năm 2005, Luật doanh
nghiệp năm 2005, Luật đầu tư năm 2005, Luật cạnh tranh năm 2004, Luật hải quan
sửa đổi năm 2005 v.v.. và các văn bản hướng dẫn thi hành.
II. Pháp luật về dịch vụ logistics
So với Điều 9 LTM năm 1997 về “dịch vụ giao nhận hàng hóa” thì về cơ
bản, LTM năm 2005 không có thay đổi nhiều. Tuy về nội dung có điểm đáng lưu ý:
- Đổi tên mục là dịch vụ logistics.
- Mở rộng khái niệm giao nhận hàng hóa tương đương với khái niệm dịch vụ
logistics.
1. Quy định về đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics
1.1. Điều kiện chung
Thương nhân, doanh nghiệp ĐKKD dịch vụ logistics cũng giống nư như
những thương nhân, doanh nghiệp ĐKKD các dịch vụ khác đều phải tuân theo
những quy định chung tại chương II LDN năm 2005 về “thành lập doanh nghiệp và
ĐKKD” (Điều 13, 14 và 15 LDN năm 2005).
1.2. Những quy định đặc thù

×