Đề án môn học
LỜI MỞ ĐẦU
Bước sang nền kinh tế thị trường, đất nước ta đang đứng trước những
cơ hội cũng như thách thức trong phát triển kinh tế. Để phát triển nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá
là con đường tất yếu đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo và kém
kinh tế. Công nghiệp là lĩnh vực có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến việc
thực hiện các nhiệm vụ của công nghiệp hoá hiện đại hoá. Để xây dựng được
một nền công nghiệp có trình độ hiện đại, cơ cấu hợp lý, hiệu quả vấn đề đặt
ra là ta phải phát triển nguồn nhân lực sao cho phù hợp. Nước ta lực lượng lao
động dồi dào chất lượng còn hạn chế, hơn nữa việc khai thác sử dụng số lao
động đã qua đào tạo còn bất hợp lý và kém hiệu quả, đồng thời có sự mất cân
đối lớn về cơ cấu và phân bố lao động giữa các vùng, các ngành. Như vậy,
hiện tại nguồn lực con người ở nước ta chưa đáp ứng được những yêu cầu mà
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi.
Chính vì vậy em đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Đào tạo nguồn nhân lực dưới đại học cho phát triển công nghiệp”
Nội dung của đề tài bao gồm 3 phần chính:
Phần I. Một số vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực dưới đại học ở nước ta
hiện nay.
Phần II. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực dưới đại học ở nước ta hiện
nay.
Phần III. Phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực dưới đại
học ở nước ta.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Ths. Mai
Xuân Được đã giúp em hoàn thành đề án này. Tuy nhiên do những hạn chế
Nguyễn Thanh Hoa – Công nghiệp 47C - ĐHKTQD
Đề án môn học
nhất định về trình độ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn nên đề án của em không
tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các
bạn để chuyên đề ngày hoàn thiện hơn.
Sinh viên
Nguyễn Thanh Hoa
Nguyễn Thanh Hoa – Công nghiệp 47C - ĐHKTQD
Đề án môn học
PHẦN I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGUỒN NHÂN
LỰC DƯỚI ĐẠI HỌC
I. Khái niệm, vai trò của nguồn nhân lực dưới đại học cho phát triển công
nghiệp
1. Khái niệm
1.1 Khái quát chung về nguồn lực con người
Khi nói đến nguồn lực con người, các nhà kinh tế thường hiểu đó là
nguồn nhân lực, nguồn nhân lực được xem xét dưới 2 góc độ: Năng lực xã hội
và tính năng động xã hội của con người. Ở góc độ thứ nhất, đó là nguồn cung
cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả
năng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Ở góc độ này, về cơ
bản, có thể hiểu nguồn lực con người là tổng thể những tiềm năng con người
của một quốc gia có trong một thời kỳ nhất định phù hợp với chiến lược và kế
hoạch phát triển.
Tiềm năng đó bao hàm tổng hoà năng lực về thể lực, trí lực, nhân cách
của con người của một quốc gia, đáp ứng với một cơ cấu nhất định của con
người do nền kinh tế xã hội đòi hỏi. Thực chất tiềm năng của con người về số
lượng, chất lượng và cơ cấu. Toàn bộ tiềm năng đó hình thành năng lực xã hội
của con người (lao động). Nguồn lực con người ở dạng tiềm năng là ở trạng
thái tĩnh, nguồn lực đó phải được chuyển sang trạng thái động, tức là được
phân bố hợp lý và sử dụng hiệu quả. Điều căn bản ở đây là phải làm thế nào
để không ngừng nâng cao tính năng động xã hội của con người, thông qua các
chính sách, thể chế và giải pháp giải phóng triệt để tiềm năng con người. Khai
thác tối đa tiềm năng con người đặc biệt là tiềm năng trí tuệ và tay nghề là một
Nguyễn Thanh Hoa – Công nghiệp 47C - ĐHKTQD
Đề án môn học
trong những chỉ báo quan trọng phản ánh trình độ phát triển của một quốc gia.
Kinh nghiệm các nước, ngay cả các nước phát triển, cho thấy việc khai thác
tiềm năng con người còn rất hạn chế.
Như vậy phát triển nguồn nhân lực là quá trình làm biến đổi về số
lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của
nền kinh tế - xã hôi. Quá trình đó bao gồm phát triển thể lực, trí lực, khả năng
nhận thức và tiếp thu kiến thức tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng
tạo của con người, nền văn hóa, truyền thống lịch sử dân tộc hun đúc nên bản
lĩnh, ý chí của người lao động.
1.2. Nguồn nhân lực dưới đại học
Nguồn nhân lực dưới đại học bao gồm công nhân kỹ thuật và lao động
phổ thông… Lực lượng lao động này được đào tạo trong các cơ sở dạy nghề,
các trường cao đẳng, trung cấp, hoặc mới tốt nghiệp phổ thông trung học,
thậm chí cả những lao động chưa được đào tạo.
Lực lượng trụ cột của đội ngũ lao động là đội ngũ công nhân mà trước hết là
công nhân lành nghề, tức là đội ngũ những người lao động trực tiếp sản xuất
hàng hoá, cung ứng các dịch vụ đạt chất lượng theo chuẩn mực quốc tế để
cung cấp cho người tiêu dùng cả ở trong nước lẫn các nước khác trên thế giới.
2. Vai trò
Trong giai đoạn hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế dựa chủ yếu vào
tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta ngày
càng nhận thực rõ hơn về vai trò quyết định của nguồn lực con người trong
phát triển. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây đã chỉ ra rằng, một nền
kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột
cơ bản là: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, yếu tố và cũng là động lực quan
trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người, con người
Nguyễn Thanh Hoa – Công nghiệp 47C - ĐHKTQD
Đề án môn học
được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến thức tay nghề, kinh nghiêm, năng
lực sáng tạo để trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”
Nếu xem xét dưới góc độ phát triển bền vững bao gồm tăng trưởng kinh
tế, an toàn xã hội và bảo vệ môi trường, thì phát triển nguồn vốn con người,
vốn nhân lực vừa là nguồn lực, vừa là mục tiêu cuối cùng, là đỉnh cao nhất của
quá trình phát triển ở mỗi quốc gia. Vì nó gắn liền với phát triển con người là
lấy con người làm trung tâm của sự phát triển. Tuy nhiên, nguồn lực con
người đó phải được phát triển và huy động tối đa vào quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, đảm bảo có đủ việc làm, tiến tới việc làm có năng suất và được tự
do lựa chọn, tức là việc làm mang tính nhân văn, trên cơ sở giải phóng mọi
tiềm năng lao động, thì mới trở thành nguồn lực, động lực và là yếu tố cơ bản
nhất của sự phát triển bền vững.
Tầm quan trọng của nguồn lực con người không chỉ dừng lại ở nhận
thức lý thuyết, ở tư duy của nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, mà
điều này luôn luôn được khẳng định trong cuộc sống sinh động. Nguồn lực
con người luôn luôn là nguồn lực to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội, là
yếu tố vật chất quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất, của
nền kinh tế, công nghệ mới vào quá trình sản xuất, và do đó nó là một trong
những yếu tố quyết định nhất của tăng trưởng.
Nguồn nhân lực dưới đại học có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiện nay có rất nhiều nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, công nghiệp nước ta phát triển hơn, nhu cầu
sử dụng lao động tăng lên, nhất là những công nhân có trình độ tay nghề
tương đối. Chính nhờ lực lượng lao động này đã làm cho công nghiệp nước ta
ngày càng phát triển hơn.
Nguyễn Thanh Hoa – Công nghiệp 47C - ĐHKTQD
Đề án môn học
II. Những yêu cầu cơ bản của nguồn nhân lực dưới đại học
1. Đội ngũ công nhân phải có trình độ tay nghề đáp ứng được yêu cầu của
công việc
Người lao động phải có năng lực sáng tạo, có khả năng áp dụng những
thành tựu của khoa học để có thể tiếp thu các kiến thức, những công nghệ mới
tiên tiến. Hơn nữa người lao động còn có khả năng biến tri thức thành kỹ năng
lao động nghề nghiệp, nghĩa là phải có trình độ tay nghề, mức độ thành thạo
chuyên môn nghiệp vụ.
Lực lượng trụ cột của đội ngũ lao động là đội ngũ công nhân mà trước
hết là công nhân lành nghề, tức là đội ngũ những người lao động trực tiếp sản
xuất hàng hoá, cung ứng các dịch vụ đạt chất lượng theo chuẩn mực quốc tế
để cung cấp cho người tiêu dùng cả ở trong nước lẫn các nước khác trên thế
giới. Muốn vậy, họ phải có một trình độ trí tuệ nhất định để tiếp thu và làm
chủ được công nghệ tiên tiến. Hơn thế nữa, với những tri thức khoa học và
những kinh nghiệm tích luỹ được trong quá trình sản xuất trực tiếp, người
công nhân lao động không những sử dụng các công cụ lao động hiện có, mà
còn có thể sáng chế ra những tư liệu lao động mới, hoàn thiện kỹ thuật và
phương pháp sản xuất.
2. Đội ngũ công nhân phải có tinh thần trách nhiệm với công việc, kỉ luật lao
động tốt
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta được tiến hành trong
xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với tư cách là xu thế phát triển khách
quan, do đó đòi hỏi giai cấp công nhân Việt Nam phải có ý thức trách nhiệm
và ý thức tổ chức kỉ luật cao. Giai cấp công nhân phải thấy rõ được sứ mệnh
cao cả của mình, là người làm chủ đất nước Việt Nam này, nên phải có nghĩa
vụ và trách nhiệm với công việc của mình, đơn vị mình làm việc. Nó được thể
Nguyễn Thanh Hoa – Công nghiệp 47C - ĐHKTQD
Đề án môn học
hiện ở việc tôn trọng gìn giữ kỉ cương luật pháp Nhà nước, ra sức xây dựng
đơn vị lớn mạnh, thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, làm tròn nghĩa
vụ đối với Nhà nước, kiên quyết đấu tranh chống những việc làm sai trái, góp
phần xây dựng nhà máy, xí nghiệp nơi mình làm việc chẳng những sản xuất
kinh doanh đạt hiệu quả cao mà còn là môi trường văn hoá văn minh, đoàn
kết. Đội ngũ công nhân phải tự chịu trách nhiệm với những công việc mình
đã làm, phải chấp hành mọi kỉ luật mà doanh nghiệp quy đinh, Nhà nước đã đề
ra.
Nguyễn Thanh Hoa – Công nghiệp 47C - ĐHKTQD
Đề án môn học
PHẦN II
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
DƯỚI ĐẠI HỌC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I. Thực trạng nguồn nhân lực dưới đại học hiện nay
1. Đặc điểm, xuất thân
1.1. Nguồn gốc xuất thân
Trong các giai đoạn trước, nguồn gốc xuất thân của công nhân tương
đối đồng nhất là từ giai cấp nông dân nhưng những năm gần đây công nhân có
nguồn gốc xuất thân khá đa dạng. Nguyên nhân là do sự phát triển mạnh mẽ
của nên kinh tế đã làm biến đổi cơ cấu dân số của các giai cấp, tầng lớp trong
xã hội với sự sụt giảm về mặt số lượng của giai cấp nông dân. Ngày nay đội
ngũ công nhân có nguồn gốc xuất thân chủ yếu từ giai cấp nông dân nhưng đã
có sự tăng lên đáng kể từ các giai cấp, tầng lớp khác và có sự tham gia mạnh
mẽ số lượng công nhân nguồn gốc nhiều đời. Đó những là những điểm đáng
chú ý của công nhân khi nghiên cứu và ra Nghị quyết về giai cấp công nhân
Đảng cần phải chú ý.
1.2. Đặc điểm
1.2.1. Đội ngũ công nhân Việt Nam đang có sự biến động mạnh về cơ cấu đội
ngũ
Trong những năm gần đây, cơ cấu đội ngũ công nhân có sự biến động.
Thứ nhất, khi đất nước mở cửa, có sự kêu gọi đầu tư của nước ngoài, theo đó
nhiều tập đoàn kinh tế nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam, tạo nên một
thành phần kinh tế mà ở đó có số đông công nhân Việt Nam là thuê cho các
công ty đó. Thứ hai, cũng do có sự mở cửa, gọi mời liên doanh giữa các công
ty trong và ngoài nước, cho nên hình thành những công ty liên doanh. Thực
Nguyễn Thanh Hoa – Công nghiệp 47C - ĐHKTQD
Đề án môn học
chất, công nhân làm việc ở các công ty này vẫn ở vào địa vị làm thuê. Thứ ba,
ở Việt Nam, kinh tế tư nhân trong những năm gần đây phát triển nhanh. Công
nhân làm việc ở các công ty này đương nhiên là những người làm thuê. Thứ
tư, nhiều cơ sở kinh tế thuộc doanh nghiệp nhà nước vẫn đang hoạt động trong
cơ chế mới, mà ở đó đội ngũ công nhân khá đông. Số công nhân này vẫn đang
ở địa vị làm chủ. Thứ năm, kể cả trong các cơ sở kinh tế tư nhân và kinh tế
nhà nước, một số công nhân mua cổ phần trở thành cổ đông, những công nhân
này nếu ở các cơ sở kinh tế tư nhân thì vừa là người làm thuê, có một phần
làm chủ, do họ là cổ đông, nếu là ở các cơ sở kinh tế nhà nước thì vị thế làm
chủ càng rõ ràng hơn. Thứ sáu, Việt Nam đã hình thành nên một số lượng
không nhỏ công nhân làm thuê ỏ một số nước ngoài theo con đường xuất khẩu
lao động của Chính phủ. Số lao động này, khi hết thời hạn theo hợp đồng lao
động ở nước sở tại, sẽ trở về nước và phần lớn bổ sung vào đội ngũ giai cấp
công nhân trong nước.
Tình hình trên đây cho chúng ta thấy đội ngũ giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay rất phong phú về thành phần, họ sống và làm việc với nhiều tâm
trạng khác nhau, có quan niệm về lợi ích khác nhau. Cơ cấu đội ngũ giai cấp
công nhân Việt Nam đang trên đà biến động ngày càng mạnh do kết quả biến
động của các thành phần kinh tế trong công nghiệp, dịch vụ.
1.2.2. Trình độ giác ngộ chính trị của đội ngũ công nhân nói chung chưa cao
Tuyệt đại bộ phận công nhân, dù xuất thân từ nhiều nguồn và nhiều môi
trường khác nhau, nhưng vẫn giữ được những phẩm chất truyền thống tốt đẹp.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số bộ phận không nhỏ trong công nhân
chưa nhận thức được vị trí, vai trò của giai cấp mình. Khi tiến hành tổ chức
Hội thảo khoa học về đời sống công nhân ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
cuối năm 2006, trong một cuộc điều tra phối hợp tại thành phố Hồ Chí Minh
của Ban Thường trú miền Nam Tạp chí Cộng sản, với câu hỏi về cảm nhận
Nguyễn Thanh Hoa – Công nghiệp 47C - ĐHKTQD
Đề án môn học
của công nhân về địa vị của mình, 25,7% rất tự hào là công nhân, 56,5% bằng
lòng với vị trí hiện nay, 3.0% cảm thấy thân phận là thuê bị coi rẻ, chẳng thích
thú gì là 8%. Con số trên mới chỉ mang tính bộ phận nhưng cũng phần nào
cho thấy ý thức giá trị, vai trò tiền phong của giai cấp mình còn thấp.
Ý thức này còn thể hiện ở hiện tượng đình công tự phát. Theo số liệu
thống kê từ 1995 đến cuối năm 2007 có trên dưới 1.500 cuộc đình công tự
phát với số lượng ngày càng gia tăng, từ 6 cuộc năm 1995 lên 139 cuộc năm
2003, 147 cuộc năm 2005… Đình công có rất nhiều nguyên nhân, nhưng đình
công tự phát, không tuân thủ các tiêu chí (dù các tiêu chí thiếu đồng bộ và
chưa rõ ràng) là biểu hiện chưa thật nghiêm túc của ý thức người lao động. Có
rất nhiều cuộc đình công nổ ra mà người tham gia một cách vô ý thức bởi họ
về quê ăn tết hay một lý do vô cớ nào khác. Nhiều công nhân thậm chí không
biết quyền lợi và trách nhiệm của mình, có khi chỉ biết đến quyền lợi của mình
mà không biết đến các nghĩa vụ phải thực hiện, nhưng có nhiều trường hợp lại
không nhận thức được hết quyền lợi về chính sách xã hội của mình…
1.2.3. Số lượng công nhân phát triển vượt bậc do Việt Nam ngày càng hội
nhập kinh tế quốc tế sâu và đầy đủ hơn trong xu thế toàn cầu hoá
Việt Nam đã đổi mới chính sách đối ngoại đã phương hoá, đa dạng hoá
các mối quan hệ. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Việt
Nam bắt đầu thực hiện đường lối “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Trong thời kì đổi mới, Việt Nam đã từng bước tích cực, chủ động hội nhập
kinh thế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá. Cho đến cuối năm 2006 đầu năm
2007, Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO.
Với tình hình đó một mặt Việt Nam sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và theo đó là đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội, số
lượng công nhân sẽ tăng gấp bội. Mặt khác, làn sóng đầu tư của các doanh
Nguyễn Thanh Hoa – Công nghiệp 47C - ĐHKTQD
Đề án môn học
nghiệp nước ngoài vào Việt Nam mạnh hơn bao giờ hết.
Tình hình này càng thu hút nhiều lực lượng lao động từ khắp các địa
bàn trên cả nước đến các công ty làm việc. Lực lượng lao động ở địa bàn nông
thôn vẫn là nguồn lớn nhất. Việc chuyển dịch một cách tất yếu lao động nông
thôn sang công nghiệp và dịch vụ là con đường hợp quy luật mà các nước
công nghiệp phát triển hiện nay trải qua. Vấn đề là ở chổ tốc độ chuyển dịch
ấy như thế nào, con đường chuyển dịch ra sao, sự chuẩn bị chất lượng một
cách chủ động, tích cực cho sự chuyển dịch ấy có đạt đến độ cần thiết không.
Lực lượng lao động vì thế đa dạng hơn nhiều, phức tạp hơn, và số lượng sẽ
đông lên nhanh chóng.
Tình hình đó cho chúng ta thấy một đặc điểm là trong khi số lượng tăng
thêm nhanh chóng, thậm chí đột biến, thì chất lượng về mọi mặt, cả chính trị
lẫn chuyên môn đều không theo kịp. Điều này nếu cơ chế chính sách không
đổi mới kịp thời, rất có thể sẽ phát sinh tiêu cực trong mối quan hệ giữa đội
ngũ công nhân với chủ doanh nghiệp, với địa bàn nơi có công ty… Trong quá
trình đó, các quy trình, quy chuẩn của kinh tế quốc tế được áp dụng, quy luật
đào thải tác động mạnh, một số công nhân bị đào thải do không thích ứng
được, số còn lại là những người cơ bản đáp ứng được các quy trình sản xuất,
có tác phong công nghiệp và sẽ dần nâng cao tay nghề trong cuộc mưu sinh,
cuộc cạnh tranh.
2. Chất lượng nguồn nhân lực dưới đại học
2.1. Những mặt tốt
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã tăng lên
cả về số lượng và chất lượng. Về số lượng, hiện nay với đội ngũ khoảng 16
triệu người, độ tuổi tương đối trẻ, gần 40% số công nhân có tuổi đời dưới 30.
Mỗi năm có hơn một triệu lao động được bổ sung vào đội ngũ công nhân. Do
xu hướng công nghiệp hoá nên một bộ phận rất lớn công nhân hiện nay là
Nguyễn Thanh Hoa – Công nghiệp 47C - ĐHKTQD