Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với giáo dục đào tạo nguồn nhân lực ở đại học huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.18 KB, 59 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài....................................................................................2
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài........................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài....................................................3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu........................................................4
5. Đóng góp của đề tài...........................................................................................4
6. Kết cấu của đề tài..............................................................................................4
CHƯƠNG 1: THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀ
MỘT NGUYÊN TẮC CĂN BẢN CỦA TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN............5
1.1. Quan điểm của triết học Mác- Lênin về nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn....................................................................................................5
1.1.1. Phạm trù lý luận..........................................................................................5
1.1.2. Phạm trù thực tiễn.......................................................................................9
1.1.3 Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn........................................14
1.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống nhất ...............19
CHƯƠNG 2: GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC Ở
ĐẠI HỌC HUẾ HIỆN NAY.............................................................................28
2.1. Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nước
ta hiện nay...........................................................................................................28
2.1.1 Khái niệm nguồn nhân lực.........................................................................28
2.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nước
ta hiện nay...........................................................................................................29
2.2. Thực trạng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực ở Đại Học Huế......................36
2.3. Một số giải pháp cơ bản trong giáo dục đào tạo nguồn nhân lực ở ĐHH.
.............................................................................................................................49
KẾT LUẬN........................................................................................................57
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................59

Đinh Thanh Bình



1


Khóa luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực hết sức quan trọng,
nguồn lực hàng đầu quyết định sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi
địa phương và cũng là nguồn lực tích cực nhất để khai thác có hiệu quả các
nguồn lưc tự nhiên và nguồn lực xã hội.
Để thực hiện thành cơng q trình cơng tác xã hội, quá trình phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2020,
nước ta trở thành một quốc gia công nghiệp theo hướng hiện đại hóa địi hỏi
phải có một đội ngũ nguồn nhân lực có sức khỏe tốt, có trình độ, có đạo
đức, có lý tưởng, đủ khả năng tiếp nhận các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên
tiến và áp dụng chúng vào sản xuất, vào đời sống kinh tế xã hội.
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã xác định lấy việc
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững, con người không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự phát
triển. Nguồn nhân lực có chất lượng cao là nhân tố giữ vai trị quyết định
cho sự thành cơng của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên,
muốn phát triển nguồn nhân lực có số lượng đơng đảo đảm bảo về chất
lượng đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế phát triển trong điều kiện xã hội
công nghiệp cần phải có một chiến lược phát triển lâu dài đúng đắn và khoa
học.
Đại Học huế với bề dày lịch sử gần 55 năm hình thành và phát triển, trở
thành “thương hiệu” là trung tâm đào tạo uy tín của miền Trung -Tây
Nguyên. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho cơng cuộc xây
dựng đất nước nói chung và ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên nói riêng,

là một đại học đa ngành, với nhiều ngành và cơ sở đào tạo chun sâu, Đại
Học Huế có vai trị quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất
lượng cao cho cả nước, trước hết là cho khu vực miền Trung -Tây Nguyên.
Với việc mở rộng quy mô và đa dạng loại hình đào tạo, Đại Học Huế đóng
vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho quá trình phát
triển kinh tế xã hội của cả nước.
Chính vì vậy, nghiên cứu lý luận tổng kết thực tiễn để tìm ra con
đường phù hợp cho việc giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu trong nước và thế giới là rất cần thiết. Sự nhạy bén trong tổng
kết tư duy lý luận và thực tiễn đã được Đảng ta tiếp tục lựa chọn chủ nghĩa
Đinh Thanh Bình

2


Khóa luận tốt nghiệp
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam
cho mọi nhận thức và hành động. Đây được coi là ngun tắc sống cịn của
cả dân tộc. Bởi vậy nó chứa đựng quan điểm biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn là chìa khóa để giải quyết tốt nhất hiện tại và tương lai, đặc biệt là
đối với vấn đề phát triển nguồn nhân lực
Với những vấn đề nêu trên và với mong muốn đưa ra những giải pháp
để giáo dục đào tạo nguồn nhân lực ở Đại Học Huế phục vụ q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nên tôi đã lựa chọn đề tài: “Nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn với giáo dục đào tạo nguồn nhân lực ở Đại Học
Huế” để làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Để thu thập tài liệu phục vụ cho việc thực hiện đề tài về nội dung trên,
đã được nghiên cứu trong một số cơng trình nghiên cứu phát triển nguồn
nhân lực đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu với “quản lý và phát

triển nguồn nhân lực xã hội”, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội 2002; GS.TS
Phạm Minh Hạc phân tích vấn đề con người trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb chính trị Quốc Gia Hà Nội 1996; TS
Nguyễn Hữu Dũng: “sử dụng nguồn lực con người ở Việt Nam”, Nxb Lao
Động – Xã Hội 2003; tác giả Mai Quốc Chánh “ Các giải pháp nâng cao
chât lượng nguồn nhân lực theo hướng cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa”Nxb
Chính trị quốc Hà Nội 1999, tác giả Phan Thành Nghị “Giải pháp nâng cao
hiệu quả quản lý nguồn nhân lực GD –ĐT” tạp chí giáo dục số 11 năm
2004
Tuy nhiên, những kết quả được nghiên cứu về nguồn nhân lực mới chỉ
đề cập tới những vấn đề chung của nguồn nhân lực và mới chỉ từng bước
giải quyết những vấn đề tháo gỡ khó khăn trước mắt của vấn đề cơ bản này.
Còn vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở Đại Học Huế chưa được đề cập đến.
Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các tác giả đi trước, đề tài tập
trung phân tích luận giải sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đang đặt ra
trong việc giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở Đại Học Huế
hiện nay
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài:
Để hiểu sâu sắc hơn vấn đề thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở Đại Học Huế.
Nhiệm vụ của đề tài:
Đinh Thanh Bình

3


Khóa luận tốt nghiệp
Một là, làm rõ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
triết học Mác-Lênin.

Hai là, Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn
Trên cơ sở đó chỉ ra được thực trạng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực
ở Đại Học Huế, đề xuất những giải pháp trong giáo dục đào tạo phát triển
nguồn nhân lực ở Đại Học Huế.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài: Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác–Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Phương pháp xuyên suốt và tối ưu
trong việc nghiên cứu đề tài là sự phối kết hợp giữa các phương pháp lơgíc lịch sử, phân tích - tổng hợp, chứng minh cũng như các phương pháp khái
quát so sánh để giải quyết vấn đề đặt ra.
5. Đóng góp của đề tài.
Đề tài nêu lên một cách có hệ thống khoa học quan điểm của triết học
Mác– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn. Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, vận dụng
quan điểm đó vào việc đánh giá thực trạng giáo dục đào tạo phát triển nguồn
nhân lực ở Đại Học Huế
Trên cơ sở đó khóa luận đề ra những mục tiêu, phương hướng – nhiệm
vụ và những giải pháp chiến lược để giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân
lực ở Đại Học Huế hiện nay
6. Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu và kết luận thì nội dung của đề tài gồm 2 chương 6
tiết
Chương1: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn
bản của triết học Mác- Lênin
Chương 2: Giáo dục – đào tạo nguồn nhân lực ở Đại Học Huế hiện
nay.

Đinh Thanh Bình


4


Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 1: THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀ
MỘT NGUYÊN TẮC CĂN BẢN CỦA TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
1.1. Quan điểm của triết học Mác- Lênin về nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn
1.1.1. Phạm trù lý luận
Trước hết cần khẳng định rằng phạm trù lý luận là phạm trù mang tính
trừu tượng, vì vậy từ trước đến nay, đã có rất nhiều quan niệm, quan điểm
khác nhau về lý luận. Lý luận ra đời ngay từ thời cổ đại, khi triết học mới ra
đời, lúc đầu chỉ là những tri thức thuần túy trải qua quá trình nhận thức lâu
dài cùng với sự xuất hiện của ngành khoa học thì tri thức lý luận hình thành
và ngày càng mang tính khái qt trừu tượng hóa cao.
Kế thừa những yếu tố hợp lý đó và phát triển một cách sáng tạo. MácĂngghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy vật về lý luận: “ lý
luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người, là toàn
bộ tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri
thức có tác dụng tái hiện trong lơgíc của khái niệm cái lơgíc khách quan của
sự vật. [24, 242-243]. Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức
được hệ thống hóa, khái quát hóa từ những tài liệu của thực tiễn, kinh
nghiệm lịch sử phản ánh mối liên hệ bản chất những quy luật của thế giới
khách quan cũng như sự phát triển của tư duy con người. Chính vì thế mà
chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm
của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử” [ 21,497 ]
Để hình thành lý luận, con người phải trải qua quá trình nhận thức kinh
nghiệm. Nhận thức kinh nghiêm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại, diễn
biến của các sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri

thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm
thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm thông
thường được thông qua quá trình sinh hoạt và hoạt động hàng ngày của con
người. Nó giúp con người giải quyết nhanh một số vấn đề cụ thể, đơn giản
trong quá trình tác động trực tiếp đối tượng. Tri thức kinh nghiệm khoa học
là kết quả của q trình thực nghiệm khoa học. Nó địi hỏi chủ thể phải tích
luỹ một lượng tri thức nhất định trong hoạt động sản xuất cũng như hoạt
động khoa học mới có thể hình thành tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri
Đinh Thanh Bình

5


Khóa luận tốt nghiệp
thức kinh nghiệm khoa học giúp các nhà khoa học hình thành lý luận. Tri
thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức nhưng ở trình độ thấp. Thế
nhưng nó là cơ sở hình thành lý luận.
Lý luận là sản phẩm cao nhất của nhận thức, của sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ não con người. Cho nên, bản chất của lý luận là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Nhận thức là cả một quá trình biện chứng từ chưa biết đến biết, từ biết
ít đến biết nhiều, từ nơng cạn đến sâu sắc, từ hiện tượng đến bản chất …
Đúng như Lênin nhận xét: “ Trong lý luận nhận thức cũng như trong tất cả
các lĩnh vực khác của khoa học cần suy luận một cách biện chứng nghĩa là
đừng giả định rằng nhận thức chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn mà phải
phân tích xem xét sự hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và
khơng chính xác trở thành đầy đủ và chính xác hơn như thế nào” [ 12, 117]
Như vậy có thể thấy, nhận thức là một q trình biện chứng diễn ra rất
phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vịng khâu và hình thức khác
nhau. Tuỳ theo tính chất nghiên cứu mà q trình đó được phân chia thành

nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính (hay cịn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn
đầu tiên của quá trình nhận thức. Nó được thể hiện ở ba hình thức cơ bản là
cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc
của mọi hiểu biết của con người. Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng
thuộc tính bên ngồi của sự vật vào các giác quan của con người. Sự vật,
hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên cảm
giác. Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật, hiện tượng
vào các giác quan con người, là sự chuyển hố năng lượng kích thích bên
ngồi thành yếu tố của ý thức. Theo Lênin “cảm giác là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan” [ 10, 138].
Cảm giác mới nhận thức từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện
tượng. Muốn hiểu bản chất của sự vật hiện tượng thì phải nắm được một
cách tương đối tồn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng đó. Nhận thức
chuyển sang tri giác.
Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác, nó đem lại hình ảnh hồn chỉnh
hơn về sự vật. Tri giác nảy sinh trên cơ sở các cảm giác, là sự kết hợp các
cảm giác. So với cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức cảm
tính, nó đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Đinh Thanh Bình

6


Khóa luận tốt nghiệp
Tuy nhiên, nhận thức ở cấp độ tri giác cũng chỉ cho chúng ta biết về hình
ảnh chủ quan và tương đối toàn diện về đối tượng. Trong khi đó nhận thức
khơng phải lúc nào cũng địi hỏi các sự vật xuất hiện trước các giác quan,
mà nhiều khi nó xuất hiện một lần rồi biến mất, nhưng con người vẫn phải

nhận thức nó. Như vậy ở đây xuất hiện một mâu thuẫn mới sự vật, hiện
tượng có trong thực tế với thực tế sự vật khơng hiện có trước các giác quan
của con người. Khi giải quyết mâu thuẫn này nhận thức chuyển sang cấp độ
cao hơn là biểu tượng.
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ, sự tiếp
xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại cho chúng ta những ấn tượng,
những hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu
sắc đến mức có thể hiện lên trong kí ức của chúng ta ngay cả khi sự vật
khơng cịn ở trước mắt. Đó chính là những biểu tượng. Trong biểu tượng chỉ
giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm giác, tri giác đem
lại trước đó. Biểu tượng thường hiện ra khi có những tác nhân tác động kích
thích đến trí nhớ con người. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng
tượng, sự tưởng tượng đã mang tính chủ động sáng tạo. Tưởng tượng có vai
trị to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật. Biểu
tượng tuy vẫn cịn mang tính chất cụ thể sinh động của nhận thức cảm tính,
song bắt đầu mang tính chất khái quát và gián tiếp
Có thể xem biểu tượng như là hình thức trung gian quá độ cần thiết để
chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính. Trên cơ sở những tài
liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, nhận thức sẽ phát triển cao hơn, đó là
nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính hay cịn gọi là tư duy trừu tượng là giai đoạn tiếp
theo và cao hơn về chất của q trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận
thức cảm tính. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con ngưịi
sẽ rất hạn chế, bởi vì con người khơng thể bằng cảm giác mà hiểu được
những cái như tốc độ ánh sáng, giá trị hàng hố, quan hệ giai cấp, hình thái
kinh tế xã hội…Muốn hiểu được cái đó phải nhờ đến sức mạnh của tư duy
trừu tượng.
Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát gián tiếp hiện thực khách
quan. Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, được biểu đạt thành ngôn ngữ,
ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy. Tư duy có tính chất năng động sáng

tạo, nó có thể phản ánh mối liên hệ bản chất, tất nhiên bên trong của sự vật,
Đinh Thanh Bình

7


Khóa luận tốt nghiệp
do đó phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Nhận thức lý tính được
thể hiện ở ba hình thức cơ bản là khái niệm, phán đốn và suy lý.
Khái niện là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối
liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật hiện
tượng nào đó. Khái niệm đóng vai trị quan trọng trong tư duy khoa học.
Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Khái niệm là những
phương tiện để con người tích luỹ thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức
với nhau.
Khái niệm có tính chất khách quan bởi nó phản ánh những mối liên hệ,
những thuộc tính khách quan của sự vật hiện tượng trong thế giới. Vì vậy
khi vận dụng khái niệm phải chú ý tính khách quan của nó. Nếu áp dụng
khái niệm một cách chủ quan, tuỳ tiện sẽ rơi vào chiết trung và ngụy biện.
Như Lênin nhận xét: “những khái niệm của con người là chủ quan trong
tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng nhưng là khách quan
trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong
nguồn gốc” [ 19, 223-224]
Chúng ta cần phải chú ý đến tính biện chứng, sự mềm dẻo của chúng
khi vận dụng khái niệm. Phải mài sắc gọt giũa các khái niệm, phải bổ sung
những nội dung mới cho các khái niệm đã có, thay thế các khái niệm cũ
bằng khái niệm mới để phản ánh hiện thực mới phù hợp với thực tiễn mới.
Phán đốn là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng liên kết các khái
niệm để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó
của hiện thực khách quan. Phán đốn là hình thức liên hệ giữa các khái

niệm. Phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng trong ý thức của con
người. Tuy nhiên, phán đốn khơng phải là tổng số giản đơn của những khái
niệm tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm có sự
quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức
ngơn ngữ là các mệnh đề theo những quy tắc trong những văn phạm nhất
định.
Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng, trong đó, xuất phát từ
một hoặc nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đốn mới làm kết luận.
Nói cách khác suy lý là quá trình đi đến một phán đoán mới từ những phán
đoán tiền đề. Nếu như phán đốn là sự liên hệ giữa các khái niệm thì suy lý
là sự liên hệ giữa các phán đoán. Suy lý là công cụ hùng mạnh của tư duy
trừu tượng thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ những cái đã biết
đến nhận thức những cái chưa biết một cách gián tiếp. Có thể nói, tồn bộ
Đinh Thanh Bình

8


Khóa luận tốt nghiệp
các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy lý và nhờ suy lý mà con
người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan.
Tuy nhiên để phản ánh đúng hiện thực khách quan trong quá trình suy lý
phải xuất phát từ những tiền đề đúng và phải tuân theo những quy tắc lơgíc.
Do đó nếu những tiền đề của chúng ta là đúng và nếu chúng ta vận dụng
một cách chính xác những quy luật của tư duy đối với những tiền đề ấy thì
kết quả phải phù hợp với hiện thực [13,829-830].
Xét về bản chất, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ
thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế
giới khách quan, lý luận được hình thành khơng phải nằm ngồi thực tiễn
mà trong mối liên hệ với thực tiễn.

Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng
cơ bản là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chúc năng phương
pháp luận cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan
bằng những quy luật chung nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức lý
luận đều phản ánh hiện thực khách quan nhưng ở những phạm vi lĩnh vực
và trình độ khác nhau. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan để làm
phương pháp luận nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan bằng hoạt
động thực tiễn.
Tóm lại, lý luận là một cơng cụ tư tưởng sắc bén có vai trị rất to lớn
đối với hoạt động thực tiễn cũng như đối với sự định hướng về nhận thức.
Lý luận giúp cho con người thấy được những ưu điểm và hạn chế trong việc
biến đổi những q trình đối tượng hố khách thể. Tự nhiên luôn cần đến
những bàn tay con người, và cũng chính tự nhiên quyết định cho con người
những trình tự tất yếu để trong quá trình tồn tại, con người tự bổ sung, hoàn
thiện cách thức cải tạo tự nhiên. Lý luận ln đóng vai trị quan trọng trong
việc tạo ra sự liên kết gắn bó giữa chủ thể tự nhiên và chủ thể nhận thức. Lý
luận cũng có quá trình hình thành và phát triển của nó, khơng phải lý luận
có khi con người xuất hiện, mà con người phải phát triển đến một giai đoạn
nhất định nào đó lý luận mới được xuất hiện. Lý luận không phải sinh ra
vốn đã hồn thiện mà nó được bổ sung và hồn thiện dần dần theo tiến trình
phát triển của lịch sử xã hội. Hay nói cách khác, lý luận mang tính lịch sử xã
hội, có những lý luận đúng ở quá khứ nhưng ở hiện tại và tương lai nó
khơng cịn phù hợp nữa.
1.1.2. Phạm trù thực tiễn
Đinh Thanh Bình

9


Khóa luận tốt nghiệp

Các nhà duy vật trước C.Mác đã có cơng lớn trong việc phát triển thế
giới quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết
không thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ cịn nhiều hạn chế, thiếu sót, trong
đó hạn chế lớn nhất là khơng thấy đựơc vai trị của hoạt động thực tiễn đối
với nhận thức. Do đó chủ nghĩa duy vật của họ mang tính trực quan.
F.Bêcơn (1561-1626) nhà triết học duy vật Anh, người đặt nền móng
cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật siêu hình thể kỷ XVII – XVIII, khi
đề cao vai trò của tri thức ông đã nhấn mạnh nhiệm vụ của triết học là tìm ra
con đường nhận thức giới tự nhiên. Theo ông, quá trình nhận thức phải kiên
quyết chống chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa kinh viện. Nhận thức phải
xuất phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm xuất phát từ giới tự nhiên và thực
nghiệm để tìm ra mối quan hệ nhân quả, phát hiện và kiểm tra chân lý. Có
thể nói Bêcơn là nhà triết học đầu tiên thấy được vai trò của thực tiễn, của
thực nghiệm khoa học trong quá trình nhận thức, trong quá trình hình thành
tri thức.
Đến Phoiơbắc, nhà triết học duy vật Đức thế kỉ XIX đã đề cập đến thực
tiễn, nhưng đối với ông, chỉ có lí luận mới thực sự là hoạt động chân chính
của con người cịn thực tiễn mang tính chất con bn bẩn thỉu. Ơng khơng
thấy được vai trị, ý nghĩa của thực tiễn đối với nhận thức và cải tạo thế giới.
Đối với ơng chỉ có hoạt động lý luận mới quan trọng.
Với Hêgghen, nhà triết học duy tâm Đức cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ
XIX đã có một số tư tưởng hơp lý, sâu sắc về thực tiễn. Ơng cho rằng chủ
thể tự “ nhân đơi” mình, đối tượng hố bản thân mình trong quan hệ với thế
giới bên ngồi, nhưng ơng chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư
tưởng. Đối với ông thực tiễn là một suy lý lơgíc.
Các nhà triết học duy vật trước Mác cho rằng, quá trình hình thành ý
thức của con người mang tính thụ động. Chính vì vậy, C.Mác đã đánh giá:
“Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể
cả chủ nghĩa duy vật của phoiơbắc- là sự vật hiện thực, cái cảm giác được,
chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ

khơng được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn”.
[ 17 ,9]
Sự phát triển của khoa học thời cận đại, đặc biệt với việc ra đời của các
ngành khoa học thực nghiệm đã thực sự là cuộc cách mạng trong nhận thức
luận. Theo đó, mỗi chân lý khoa học phải đươc chứng minh bằng thực
nghiệm. Mặc dù các nhà triết học trước Mác chưa đặt ra vai trị của thực tiễn
Đinh Thanh Bình

10


Khóa luận tốt nghiệp
đối với nhận thức, nhưng vai trị của thực nghiệm trong khoa học lại được
đề cập đầu tiên và thực sự là một trong những tiền đề đặt nền tảng cho quan
niệm thực tiễn của triết hoc Mác.
E.Makhơ, nhà triết học duy tâm chủ quan người Áo đồng thời là một
trong những người sáng lập ra chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán cho rằng cái
tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mọi người phân biệt được ảo tưởng và
hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, ngoài giới hạn của nhận thức.
Trái lại, Makhơ cho rằng thực tiễn là một việc khác và người ta có thể đặt
hai cái bên cạnh nhau mà khơng làm cho cái trước chế ước cái sau.
Dựa vào những thành tựu của khoa học nói chung và khoa học tự nhiên
nói riêng, cùng với việc kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý
trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước và khắc phục
những yếu tố sai lầm của những quan niệm cũ về thực tiễn, cùng với những
hoạt động của các ông trong phong trào đấu tranh của quần chúng lao động,
C.Mác – Ph. Ăngghen đã có cơng lớn trong việc đưa thực tiễn vào nhận
thức luận. Không những thế, cả lý luận và thực tiễn đều được các ông nâng
lên trình độ mới: Thực tiễn cách mạng và lý luận cách mạng. Nhờ đó, lý
luận gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, trở thành vũ khí nhận thức và cải tạo thế

giới. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận của mình, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận
nói chung và trong nhận thức luận nói riêng. Thực tiễn là tồn bộ hoạt động
vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo
tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động
tinh thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Hoạt động vật chất là những hoạt
động mà chủ thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào đối tượng vật
chất nhất định nhằm cải tạo chúng theo nhu cầu của con người. Con người
sử dụng các phương tiện để tác động vào đối tượng theo những hình thức và
mức độ khác nhau tuỳ thuộc mục đích của con người. Kết quả của quá trình
hoạt động thực tiễn là những sản phẩm thoả mãn nhu cầu vật chất và nhu
cầu tinh thần của cá nhân và cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động sáng tạo, là hoạt
động được đối tượng hố, là q trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật
chất. Bởi hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể và khách
thể trong đó chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể trên cơ sở đó nhận
thức khách thể. Vì vậy thực tiễn là khâu trung gian nối liền ý thức con người
Đinh Thanh Bình

11


Khóa luận tốt nghiệp
với thế giới bên ngồi. Như vậy, hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất
của con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi
một cách thụ động với thế giới bên ngồi thì con người nhờ vào thực tiễn
như là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình để cải tạo thế giới
nhằm thoả mãn nhu cầu mình thích nghi một cách chủ động tích cực với thế
giới và làm chủ thế giới. Để thoả mãn nhu cầu của mình con người phải tiến

hành sản xuất ra của cải vật chất để ni sống mình và nhờ đó con người tạo
nên những vật phẩm vốn khơng có sẵn trong tự nhiên. Như vậy, khơng có
hoạt động thưc tiễn con người và xã hội không thể tồn tại và phát triển
được. Vì vậy có thể nói: Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con
người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa
con người và thế giới. Mỗi hoạt động của con người đều mang tính lịch sử
cụ thể. Nó chỉ diễn ra trong một giai đoạn nhất định nào đó. Nó có q trình
hình thành phát triển và kết thúc hoặc chuyển hố sang giai đoạn khác,
khơng có hoạt động thực tiễn nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác, hoạt động
thực tiễn chịu sự chi phối của mỗi giai đoạn lịch sử cả về đối tuợng, phương
tiện cũng như mục đích hoạt động.
Hoạt động thực tiễn mặc dù phải thơng qua từng cá nhân, từng nhóm
người nhưng hoạt động thực tiễn của từng cá nhân, từng nhóm người lại
không thể tách rời quan hệ xã hội. Xã hội quy định mục đích, đối tượng
phương tiện và lực lượng trong hoạt động thực tiễn. Do đó hoạt động thực
tiễn của con người mang tính xã hội sâu sắc, được thực hiện trong cộng đồng,
vì cộng đồng và do cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn mang tính tất yếu, nhưng tất yếu đã có nhận thức,
đã có ý thức. Đó là ý thức về kết quả, ý thức về phương pháp, ý thức về đối
tượng…, đặc biệt là ý thức về mục đích của q trình hoạt động. Mục đích
của hoạt động thực tiễn là nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của
cá nhân và xã hội. Mỗi hoạt động đều có mục đích khác nhau để giải quyết
nhu cầu cụ thể, khơng có hoạt động nào khơng có mục đích, mặc dù kết quả
của hoạt động thực tiễn không phải lúc nào cũng diễn ra phù hợp với mục
đích của con người.
Hoạt động thực tiễn rất phong phú đa dạng, song có thể chia làm ba
hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị-xã hội
và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động trực tiếp của con người tác
động vào giới tự nhiên, cải tạo tự nhiên bằng các công cụ vật chất nhằm tạo

Đinh Thanh Bình

12


Khóa luận tốt nghiệp
ra của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phái triển của con người và của
xã hội. Vì vậy hoạt động sản xuất vật chất được xem là động lực phát triển
của xã hội biến đổi con người theo trạng thái phát triển tích cực về mặt thể
chất lẫn tinh thần. Bởi thông qua lao động con người mới phát huy hết tiềm
năng của mình. Ph.Ăngghen đã viết: “ trước hết là lao động và đồng thời với
lao động là ngơn ngữ; đó là hai thứ có sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng
đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc
của con người” [ 1, 251]. Sự phát triển của xã hội càng cao thì cách thức con
người sáng tạo ra cơng cụ lao đơng ngày càng tinh vi, hiệu quả hơn, góp
phần vào việc tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, đa dạng hơn và
chất lượng, mẫu mã được nâng lên. Như vậy tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội. Lênin khẳng định: “ việc anh ta sống anh ta hoạt động kinh tế, anh ta
sinh đẻ con cái và anh ta chế tạo ra các sản phẩm, làm nảy sinh một chuỗi
tất yếu khách quan gồm những biến cố, những sự phát triển, không phụ
thuộc vào ý thức xã hội của anh ta và ý thức này khơng bao giờ bao qt
được tồn vẹn các chuỗi đó” [9, 403 ]
Đồng thời sản xuất vật chất là cơ sở hình thành xã hội và các thiết chế
xã hội khác nhau. Tất cả quan điểm về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ
thuật tôn giáo… các quan hệ xã hội như gia đình, chủng tộc, dân tộc, quốc tế
và các thiết chế xã hội như tòa án, nhà thờ… Đều được hình thành và phát
triển trên cơ sở sản xuất vật chất. Bên cạnh đó sản xuất vật chất còn là cơ sở
cho tiến bộ xã hội.
Hoạt động chính trị-xã hội là hoạt động của con người nhằm cải tạo,
biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội, như đấu tranh

giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh bảo vệ hịa bình thế giới vì
sự tiến bộ xã hội lồi người, đấu tranh chống ô nhiễm môi trường bảo vệ
cân bằng sinh thái, đấu tranh chống các thảm họa do các dịch bệnh gây ra.
Hoat động chính trị-xã hội là hoạt động giúp cho con người có điều
kiện để phát huy hết khả năng sáng tạo của mình góp phần vào sự phát triển
chung của nhân loại và nếu không có các dạng hoạt động này thì sẽ khơng
làm thay đổi các quan hệ xã hội và như vậy sẽ không thúc đẩy xã hội phát
triển được.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động của các ngành khoa học
tác động làm cải biến những đối tượng nhất định trong một điều kiện nhất
định, theo một mục đích nghiên cứu nhất định, đây là dạng đặc biệt của hoạt
động thực tiễn bởi vì nó được tiến hành trong những điều kiện nhân tạo
Đinh Thanh Bình

13


Khóa luận tốt nghiệp
nhằm tạo những luận cứ khoa học và để phục vụ cho hoạt động nhận thức
và hoạt động làm biến đổi giới tự nhiên, xã hội của con người.
Ngoài các hoạt động thực tiễn cơ bản nêu trên, cịn có các hoạt động
phát sinh trong các lĩnh vực đạo đức, nghệ thuật, y tế, giáo dục,…các loại
hoạt động này nảy sinh trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội lồi
người, có tác dụng bổ sung làm phong phú thêm những dạng hoạt động thực
tiễn của con người.
Như vậy mỗi hình thức hoạt động cơ bản có một chức năng quan trọng
khác nhau, khơng thể thay thế được cho nhau. Song giữa chúng có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó hoạt động sản xuất vật chất là
hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trị quyết định đối với các hoạt động khác.
Bởi vì nó là hoạt động ngun thuỷ nhất, tồn tại một cách khách quan,

thường xuyên nhất trong cuộc sống của con người và nó tạo ra những điều
kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển
của con người và xã hội. Nếu khơng có hoạt động sản xuất vật chất thì
khơng thể có các hình thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt động khác
suy cho cùng cũng xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho
hoạt động sản xuất vật chất của con người. Nhưng như vậy khơng có nghĩa
là các hình thức hoạt động chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học là hoàn
toàn thụ động lệ thuộc một chiều vào hoạt động sản xuất vật chất. Ngược lại,
chúng có thể tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất
phát triển. Chẳng hạn nếu hoạt động chính trị - xã hội mang tính chất tiến bộ
cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học mà đúng đắn sẽ tạo đà
cho hoạt động sản xuất vật chất phát triển. Còn nếu hoạt động chính trị - xã
hội mà lạc hậu phản cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm mà sai lầm
khơng khoa học sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất vật chất.
Tóm lại, hoạt động thực tiễn là một phạm trù không thể thiếu đối với
nhận thức khoa học, với quá trình hoạt động trong lĩnh vực lý luận, nghiên
cứu lý luận cần phải hiểu rõ và nắm chắc được tính đúng đắn của thực tiễn
đó là ư tố góp phần làm nên thành cơng trong cơng việc của mỗi người.
1.1.3 Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa
con người và thế giới khách quan. Con người luôn tác động tích cực vào thế
giới khách quan, tự nhiên và xã hội, cải biến thế giới khách quan bằng thực
tiễn. Trong q trình đó sự phát triển nhận thức của con người và sự biến
đổi thế giới khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy định sự thống
Đinh Thanh Bình

14


Khóa luận tốt nghiệp

nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động sinh tồn của cá
nhân và cộng đồng.
Giữa lý luận và thực tiễn giường như hai mặt tương đối độc lập với
nhau nhưng lại có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong
đó thực tiễn ln ln giữ vai trị quyết định. Để khẳng định vấn đề này
Lênin đã nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn lý luận (nhận thức) vì nó có ưu
điểm khơng những có tính phổ biến mà của cả tính hiện thực trực tiếp”
[ 11,230].
Vai trị của thực tiễn đối với nhận thức đựơc thể hiện ở những khía
cạnh sau:
Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận,
lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu
thực tiễn
Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp, những tri thức
được khái quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của
con người. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng
như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của
các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận.
Qúa trình hoạt động thực tiễn cịn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những
lý luận đã đựơc khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm
nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải
quyết. Thơng qua đó, lý luận được bổ sung, mở rộng. Chính vì vậy,
V.I.Lênin nói: “Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất yếu
của nó, trong những quan hệ tồn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn
của nó, tự nó và vì nó” [ 12,227]
Thực tiễn là động lực của lý luận. Hoạt động của con người không chỉ
là nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà cịn góp phần hồn thiện các mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận dụng làm
phương pháp cho hoạt động. Thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng
kích thích con người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Q

trình đó diễn ra khơng ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận
ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy hoạt động con người
không bị hạn chế trong không gian và thời gian. Thơng qua đó, thực tiễn đã
thúc đẩy một ngành khoa học mới ra đời – khoa học lý luận.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp những tri
thức khái quát về thế giới để làm thoả mãn nhu cầu hiểu biết của con người,
Đinh Thanh Bình

15


Khóa luận tốt nghiệp
nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con
người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thoả mãn nhu
cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo nên
những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực
hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi trong tự
nhiên và xã hội theo mục đích của con người, đó thực chất là mục đích của
lý luận. Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con
người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận
chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận đối với hoạt động thực tiễn
của con người. Do đó, mọi lý luận phải thơng qua thực tiễn để kiểm nghiệm.
Chính vì thế mà C.Mác nói: “vấn đề tìm hiểu tư duy của con người có thể
đạt đến chân lý khách quan khơng hồn tồn khơng phải là vấn đề lý luận
mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý” [ 17,10]. Thông qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân lý
sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại; những kết luận chưa phù
hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh bổ sung hoặc nhận thức lại giá trị của lý

luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Tuy thực tiễn là tiêu chẩn chân lý của lý luận nhưng không phải mọi
thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của
lý luận khi thực tiễn đạt đến tính tồn vẹn của nó. Tính tồn vẹn của thực
tiễn là thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và chuyển
hố. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ
phận nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn. Do đó, chỉ
những lý luận nào phản ánh được tính tồn vẹn của thực tiễn thì mới đạt
đến chân lý. Chính vì vậy mà Lênin cho rằng: “Thực tiễn của con người lặp
đi lặp lại hàng nghìn triệu lần được in vào ý thức của con người bằng những
hình tượng lơgíc. Những hình tượng này có tính vững chắc của một thiên
kiến, có một tính chất cơng lý, chính vì (và chỉ vì) sự lặp đi lặp lại hàng
nghìn triệu lần ấy [ 12, 234].
Quá trình thăng trầm của chủ nghĩa xã hội thế giới cho chúng ta thấy rõ
điều đó. Sau khi giành được chính quyền, những người vô sản tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hơi với cơ chế kế hoạch hố, tập trung, bao cấp thơng
qua hai hình thức sở hữu là tồn dân và tập thể. Tương ứng với hai hình
Đinh Thanh Bình

16


Khóa luận tốt nghiệp
thức sở hữu đó là hai hình thức kinh tế quốc doanh và tập thể. Thời kì đầu
chủ nghĩa xã hội đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Từ đây chúng ta cho
rằng cơ chế đó, hai thành phần kinh tế đó và những lý luận ra đời trên nền
tảng ấy vừa khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, vừa khẳng định lý
luận xây dựng chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn khoa học. Khủng hoảng của
chủ nghĩa xã hội từ những năm 70 của thế kỷ XX dẫn đến sụp đổ một loạt

nước xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ
đó chứng tỏ thực tiễn của chủ nghĩa xã hội chưa bộc lộ hết, chưa phát triển
toàn vẹn nên lý luận chưa phản ánh đúng hiện thực khách quan.
Tuy xét đến cùng thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý duy nhất của lý luận,
nhưng vì thực tiễn ln vận động và phát triển, đồng thời thực tiễn cũng rất
phong phú và đa dạng, do đó ngồi tiêu chuẩn thực tiễn cịn có thể có những
tiêu chuẩn khác như tiêu chuẩn lơgíc, tiêu chuẩn giá trị…Song các tiêu
chuẩn đó vẫn phải trên nền tảng của thực tiễn. Chính vì vậy chúng ta có thể
nói khái quát thực tiễn là tiêu chuẩn của lý luận.
Qúa trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự hình
thành lý luận. Đó khơng chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận thức
mà còn từ nhu cầu của thực tiễn. Thực tiễn phong phú đa dạng, ln vận
động và biến đổi, nhưng để hình thành lý luận, trước hết lý luận phải đáp
ứng thực tiễn. Con người nhận thúc hiện thực khách quan để giải quyết
những vấn đề con người quan tâm. Năng lực của con người ngày càng được
nâng cao chính nhờ khả năng thông qua hoạt động phản ánh, khái quát
thành tri thức lý luận. Trong sự vô cùng, vô tận của hiện thực khách quan,
con người khơng hề chống ngợp mà bằng mọi biện pháp để nhận thức.
Lồi người có khả năng trở thành chủ thể nhận thức để phản ánh sự vô tận
của hiện thực khách quan, nhưng để đáp ứng hoạt động thực tiễn của con
người. Đó là những lý luận mang tính phương pháp cho hoạt động cải tạo
hiện thực khách quan. Mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt hiệu quả
cao. Lý luận, trước hết phải đáp ứng mục đích đó. Quan hệ giữa người với
người, giữa người với tự nhiên đòi hỏi con người phải có lý luận sâu sắc về
chúng. Con người hình thành lý luận chủ yếu để làm phương pháp cho hoạt
động sáng tạo tri thức, phát minh sáng chế những tư liệu sản xuất, tư liệu
sinh hoạt nhằm nâng cao năng lực sáng tạo của con người. Do đó hệ thống
lý luận nào góp phần giải quyết đúng đắn, phù hợp mục đích của con người
thì được con người quan tâm khái qt. Vì lẽ đó lý luận phải đáp ứng nhu
cầu phát triển của thực tiễn.

Đinh Thanh Bình

17


Khóa luận tốt nghiệp
Thực tiễn chỉ đạo lý luận, ngược lại lý luận phải được vận dụng vào
thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn. C.Mác đã từng nói,
người thợ xây khơng bao giờ tinh xảo như con ong xây tổ nhưng người thợ
xây hơn hẳn con ong ở chỗ, trước khi xây dựng một công trình họ đã hình
thành được hình tượng của cơng trình ấy trong đầu họ. Tức là hoạt động
của con người là hoạt động có ý thức. Ban đầu hoạt động của con người
chưa có lý luận chỉ đạo, song con người phải hoạt động để đáp ứng nhu
cầu tồn tại của mình. Thơng qua đó, con người khái qt thành lý luận. Từ
đó những hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý
luận soi đường hoạt động thực tiễn của con người mới trở thàng tự giác,
có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn.
Lý luận đóng vai trị soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng
định hướng mục tiêu xác định lực lượng biện pháp thực hiện. Lý luận còn
dự báo được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự
báo được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế những thất bại có thế có
trong q trình hoạt động. Như vậy lý luận không chỉ giúp con người hoạt
động hiệu quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng
lực hoạt động của con người. Mặt khác lý luận cịn có vai trị giác ngộ mục
tiêu, lý tưởng liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh to
lớn của quần chúng trong cải taọ tự nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy,
C.Mác đã khẳng định “ vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế
được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ lực
lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi
nó thâm nhập vào quần chúng” [10,580].

Mặc dù lý luận mang tính khái qt cao song nó cịn có tính lịch sử, cụ
thể. Do đó khi vận dụng lý luận chúng ta cần phân tích một cách cụ thể mỗi
tình hình cụ thể. Nếu vận dụng máy móc giáo điều, kinh viện thì chẳng
những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm
sai lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận hình thành là kết quả của nhận thức lâu dài và khó khăn của
con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy đa dạng
phong phú nhưng khơng phải khơng có tính quy luật. Tính quy luật của thực
tiễn được khái quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận khơng chỉ
là phương pháp mà còn là định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định
hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng lực lượng, định hướng giải quyết các
mối quan hệ trong hoạt động thực tiễn. Khơng những thế, lý luận cịn định
Đinh Thanh Bình

18


Khóa luận tốt nghiệp
hướng mơ hình của hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động
thực tiễn, trước hết từ lý luận để xây dựng mơ hình thực tiễn theo những
mục đích khác nhau của q trình hoạt động, dự báo các diễn biến, các mối
quan hệ lực lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong q trình phát
triển để phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm
đạt kết quả cao hơn.
Lý luận tuy là lơgíc của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu hơn so
với thực tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát
diễn biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết
của lý luận, hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn còn được làm sáng tỏ cụ thể hơn
khi xem xét nó từ quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Thực tiễn là khâu

trung gian cơ bản giữa chủ thể và khách thể, thực tiễn là hình thức liên hệ
thực tại khách quan nhờ đó chủ thể tự đối tượng hóa bản thân, các ý định,
các mục đích của mình. Điều này cho thấy thực tiễn và lý luận khơng thể
tuyệt đối độc lập với nhau. Bởi vì quan hệ lý luận giữa con người và khách
thể không bao giờ tách rời, biệt lập với thực tiễn. Hơn nữa, lý luận bao giờ
cũng phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và lý luận bao giờ cũng phát
triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn của xã hội. Vì vậy khơng có sự đối lập giữa
lý luận và thực tiễn, tính độc lập của lý luận chỉ là tương đối, lý luận cách
mạng khơng phải hồn tồn là thực tiễn cách mạng, tuy nhiên do lý luận
được sinh ra bởi các nhu cầu của thực tiễn xã hội nên lý luận cách mạng trở
thành một bộ phận của thực tiễn xã hội.
Tóm lại, quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một q trình mang tính
lịch sử xã hội cụ thể. Đây là quan hệ thống nhất biện chứng nắm bắt được
tính biện chứng của q trình đó là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng
ta có một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực
dụng ,máy móc và lý luận sng. Có thể nói rằng, C.Mác là người đầu tiên
đưa phạm trù thực tiễn vào nhận thức luận, nhờ đó ơng đã làm nên cuộc
cách mạng thực sự trong tư duy cũng như trong hoạt động. Đến Lênin đã
phát triển và nâng cao vai trò của thực tiễn trong lý luận nhận thức. Lênin có
cơng to lớn trong việc làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn, về học thuyết chân lý trên cơ sở khoa học hiện đại.
1.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn
Đinh Thanh Bình

19


Khóa luận tốt nghiệp
Quan điểm thực tiễn là quan điểm khởi đầu và xuyên suốt trong cuộc

đời và tư tưởng của Hồ chí Minh. Hồ Chí Minh khơng có “phát minh” gì
mới về phạm trù thực tiễn và về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Người chỉ thực hành cách mạng nhưng thông qua thực hành cách mạng
Người đã thể hiện rất sớm một khuynh hướng tối ưu, một khuynh hướng vô
cùng đúng đắn cho cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình mà vào thời
đó khơng có một nhà cách mạng nào đạt được. Đó là vào năm 21 tuổi Người
muốn tận mắt xem nước Pháp và các nước thuộc địa khác, nhưng lại phải
xem xét tường tận, cụ thể rồi sau đó phải làm gì là tùy thuộc vào tình hình
thực tế.
Ngay từ khi cịn rất trẻ Hồ Chí Minh đã bộc lộ là một con người thực
tiễn, con người hành động chính thực tiễn cách mạng và cách mạng thế giới
đã hướng dẫn tư tưởng và hành động của Người. Khi vận dụng vào thực tiễn
của cách mạng nước ta. Hồ Chí Minh thường dùng các khái niện “ thực tế”
hay “ thực hành” cùng với các khái niệm “thực tiễn”
Khái niệm thực tiễn và thực tế tuy có nội dung khác nhau, vì thực tế
rộng hơn thực tiễn, nhưng trong một số trường hợp thì Hồ Chí Minh lại
dùng khái niệm thực tế thay cho thực tiễn, bởi vì khái niệm thực tế nhân dân
ta đã quen dùng, chẳn hạn Người nói : Lý luận phải liên hệ với thực tế,
nhưng Người cũng nói: thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên
tắc căn bản của chủ nghĩa Mác- Lênin … Theo Hồ Chí Minh: “thực tế là các
vấn đề mình giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật. Chúng ta là những cán bộ
cách mạng, thực tế của chúng ta là những vấn đề cách mạng đề ra cho ta giải
quyết. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó bao gồm kinh nghiệm cơng tác và tư
tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm lịch sử
của Đảng cho đến các vấn đề trong nước và trên thế giới” [14, 497]
Tuy xác định khái niệm thực tế là rất rộng, nhưng Hồ Chí Minh chỉ
khn vào trong các lĩnh vực cụ thể mà người cán bộ cách mạng phải đối
mặt, phải giải quyết kể từ công tác trong thực hành cách mạng, kinh nghiệm
cách mạng, đường lối, chính sách của cách mạng, đến cơng tác tư tưởng của
cán bộ… “ các vấn đề trong nước và thế giới”. Bằng việc làm cụ thể và

những lời giáo huấn, Hồ Chí Minh ln đề cao vai trị của thực tiễn, cho dù
nhiều lúc nêu cao vai trò của lý luận nhưng bao giờ Người cũng nhấn mạnh
lý luận cũng phải gắn với thực tiễn, phục vụ thực tiễn.
Ngay từ năm 1924, khi đọc diễn văn tại đại hội lần thứ V Quốc tế cộng
sản, Nguyễn Ái Quốc nhắc nhở Đảng Cộng Sản Pháp phải có hành động
Đinh Thanh Bình

20



×