Tải bản đầy đủ (.doc) (144 trang)

Tài liệu ôn tập lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 144 trang )

Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
Chuyên đề 1: các văn bản nhật dụng
( dạy tuần 1+2)
Văn bản 1: phong cách Hồ Chí Minh
(Lê Anh Trà)
I - Gợi ý
1. Xuất xứ:
Phong cách Hồ Chí Minh là một phần bài viết "Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn
với cái giản dị" của tác giả Lê Anh Trà, trích trong cuốn sách "Hồ Chí Minh và văn hoá
Việt Nam", Viện Văn hoá xuất bản, Hà Nội, 1990.
2. Tác phẩm:
Mặc dù am tờng và ảnh hởng nền văn hoá nhiều nớc, nhiều vùng trên thế giới nhng
phong cách của Hồ Chí Minh vô cùng giản dị, điều đó đợc thể hiện ngay trong đời sống
sinh hoạt của Ngời: nơi ở chỉ là một ngôi nhà sàn nhỏ bé với những đồ đạc mộc mạc, trang
phục đơn sơ, ăn uống đạm bạc.
3. Tóm tắt:
Viết về phong cách Hồ Chí Minh, tác giả đa ra luận điểm then chốt: Phong cách Hồ
Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa tính dân tộc và tính nhân loại, truyền thống và hiện đại,
giữa vĩ đại và giản dị.
Để làm sáng tỏ luận điểm này, tác giả đã vận dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, với
những dẫn chứng xác thực, giàu sức thuyết phục về quá trình hoạt động cách mạng, khả
năng sử dụng ngôn ngữ và sự giản dị, thanh cao trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của
Bác.
II - Giá trị tác phẩm
Trong bài thơ Ngời đi tìm hình của nớc, Chế Lan Viên viết:
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá
Đó là những câu thơ viết về Bác trong thời gian đầu của cuộc hành trình cứu nớc gian
khổ. Câu thơ vừa mang nghĩa tả thực vừa có ý khái quát sâu xa. Sự đối lập giữa một viên
gạch hồng giản dị với cả một mùa đông băng giá đã phần nào nói lên sức mạnh và phong
thái của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại. Sau này, khi đã trở về Tổ quốc, sống giữa đồng bào,


đồng chí, dờng nh chúng ta vẫn gặp đã con ngời đã từng bôn ba khắp thế giới ấy:
Nhớ Ngời những sáng tinh sơng
Ung dung yên ngựa trên đờng suối reo
Nhớ chân Ngời bớc lên đèo
Ngời đi, rừng núi trông theo bóng Ngời.
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Còn nhiều, rất nhiều những bài thơ, bài văn viết về cuộc đời hoạt động cũng nh tình
cảm của Bác đối với đất nớc, nhân dân. Điểm chung nổi bật trong những tác phẩm ấy là
phong thái ung dung, thanh thản của một ngời luôn biết cách làm chủ cuộc đời, là phong
cách sống rất riêng: phong cách Hồ Chí Minh.
Với một hệ thống lập luận chặt chẽ và những dẫn chứng vừa cụ thể vừa giàu sức thuyết
phục, bài nghị luận xã hội của Lê Anh Trà đã chỉ ra sự thống nhất, kết hợp hài hoà của các
yếu tố: dân tộc và nhân loại, truyền thống và hiện đại để làm nên sự thống nhất giữa sự vĩ
đại và giản dị trong phong cách của Ngời.
Cách gợi mở, dẫn dắt vấn đề của tác giả rất tự nhiên và hiệu quả. Để lí giải sự thống
nhất
giữa dân tộc và nhân loại, tác giả đã dẫn ra cuộc đời hoạt động đầy truân chuyên, tiếp xúc
với văn hoá nhiều nớc, nhiều vùng trên thế giới Kết luận đợc đa ra sau đó hoàn toàn hợp
lô gích: "Có thể nói ít có vị lãnh tụ nào lại am hiểu nhiều về các dân tộc và nhân dân thế
giới, văn hoá thế giới sâu sắc nh Chủ tịch Hồ Chí Minh Ngời cũng chịu ảnh hởng tất cả
các nền văn hoá, đã tiếp thu cái đẹp và cái hay ". Đó là những căn cứ xác đáng để lí giải về
1
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
tính nhân loại, tính hiện đại một vế của sự hoà hợp, thống nhất trong phong cách Hồ Chí
Minh.
Ngay sau đó, tác giả lập luận: "Nhng điều kì lạ là tất cả những ảnh hởng quốc tế đó đã
nhào nặn với cái gốc văn hoá dân tộc không gì lay chuyển đợc ở Ngời, để trở thành một
nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phơng Đông, nhng cũng
đồng thời rất mới, rất hiện đại ".
Đây có thể coi là lập luận quan trọng nhất trong bài nhằm làm sáng tỏ luận điểm chính nói

trên. Trong thực tế, các yếu tố "dân tộc" và "nhân loại", "truyền thống" và "hiện đại" luôn có
xu hớng loại trừ nhau. Yếu tố này trội lên sẽ lấn át yếu tố kia. Sự kết hợp hài hoà của các yếu
tố mang nhiều nét đối lập ấy trong một phong cách quả là điều kì diệu, chỉ có thể thực hiện đ-
ợc bởi một yếu tố vợt lên trên tất cả: đó là bản lĩnh, ý chí của một ngời chiến sĩ cộng sản, là
tình cảm cách mạng đợc nung nấu bởi lòng yêu nớc, thơng dân vô bờ bến và tinh thần sẵn sàng
quên mình vì sự nghiệp chung. Hồ Chí Minh là ngời hội tụ đầy đủ những phẩm chất đó.
Để củng cố cho lập luận của mình, tác giả đa ra hàng loạt dẫn chứng. Những chi tiết hết
sức cụ thể, phổ biến: đó là ngôi nhà sàn, là chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp đã từng đi vào thơ
ca nh một huyền thoại, là cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, là tình cảm thắm thiết đối với
đồng bào, nhất là với các em thiếu nhi cũng đã trở thành huyền thoại trong lòng nhân dân
Việt Nam. Với những dẫn chứng sống động ấy, thủ pháp liệt kê đợc sử dụng ở đây không
những không gây nhàm chán, đơn điệu mà còn có tác dụng thuyết phục hơn hẳn những lời
thuyết lí dài dòng.
Trong phần cuối bài, tác giả đã khiến cho bài viết thêm sâu sắc bằng cách kết nối giữa
quá khứ với hiện tại. Từ nếp sống "giản dị và thanh đạm" của Bác, tác giả liên hệ đến
Nguyễn Trãi, đến Nguyễn Bỉnh Khiêm các vị "hiền triết" của non sông đất Việt:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Đây cũng là một yếu tố trong hệ thống lập luận của tác giả. Dẫu các yếu tố so sánh
không thật tơng đồng (Bác là một chiến sĩ cách mạng, là Chủ tịch nớc trong khi Nguyễn
Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đợc nói đến trong thời gian ở ẩn, xa lánh cuộc sống sôi động
bên ngoài) nhng vẫn đợc vận dụng hợp lí nhờ cách lập luận có chiều sâu: "Nếp sống giản dị
và thanh đạm của Bác Hồ, cũng nh các vị danh nho xa, hoàn toàn không phải là một cách tự
thần thánh hoá, tự làm cho khác đời, hơn đời, mà đây là lối sống thanh cao, một cách di d-
ỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống, có khả năng đem lại hạnh phúc thanh
cao cho tâm hồn và thể xác".
Bài văn nghị luận này giúp chúng ta hiểu sâu thêm về phong cách của Bác Hồ vị lãnh
tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá của thế giới.
Văn bản 2: đấu tranh cho một thế giới hoà bình
(G. G. Mác-két)

I - Gợi ý
1. Tác giả:
Nhà văn Cô-lôm-bi-a G.G. Mác-két (Gabriel Garcia Marquez) sinh năm 1928. Năm
1936, tốt nghiệp tú tài, ông vào học ngành Luật tại trờng đại học Tổng hợp Bô-gô-ta và viết
những truyện ngắn đầu tay.
Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két là tác giả của nhiều tiểu thuyết theo khuynh hớng hiện thực
huyền ảo nổi tiếng. Ông từng đợc nhận giải thởng Nô-ben văn học năm 1982.
G. G. Mác-két có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, nhng nổi tiếng nhất là cuốn Trăm năm
cô đơn (1967) - tiểu thuyết đợc tặng Giải Chianchianô của I-ta-li-a, đợc Pháp công nhận là
cuốn sách nớc ngoài hay nhất trong năm, đợc giới phê bình văn học ở Mĩ xếp là một trong
12 cuốn sách hay nhất trong những năm sáu mơi của thế kỉ XX.
Toàn bộ sáng tác của G. G. Mác-két xoay quanh trục chủ đề chính: sự cô đơn - mặt
trái của tình đoàn kết, lòng thơng yêu giữa con ngời.
2
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
2. Tác phẩm:
Văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình trình bày những ý kiến của tác giả xung
quanh hiểm hoạ hạt nhân, đồng thời kêu gọi thế giới nỗ lực hành động để ngăn chặn, đẩy
lùi nguy cơ về một thảm hoạ có thể huỷ diệt toàn bộ sự sống trên trái đất.
3. Tóm tắt:
Đây là một bài văn nghị luận xã hội. Tác giả nêu ra hai luận điểm cơ bản có liên quan
mật thiết với nhau:
Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe doạ cuộc sống trên trái đất.
Nhiệm vụ cấp bách của nhân loại là phải ngăn chặn nguy cơ đó, đồng thời đấu tranh
cho một thế giới hoà bình.
Để làm sáng tỏ hai luận điểm trên, tác giả đã đa ra một hệ thống lập luận chặt chẽ, đặc
biệt là những dẫn chứng rất cụ thể, xác thực, giàu sức thuyết phục.
II - Giá trị tác phẩm
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà trình độ khoa học kỹ thuật đang phát triển
với một tốc độ đáng kinh ngạc: những thành tựu của ngày hôm nay, rất có thể chỉ ngày mai

đã thành lạc hậu. Đã từng có những ý kiến bi quan cho rằng: trong khi của cải xã hội tăng
theo cấp số cộng thì dân số trái đất lại tăng theo cấp số nhân, con ngời sẽ ngày càng đói
khổ. Tuy nhiên, nhờ có sự phát triển nh vũ bão của khoa học kĩ thuật, của cải xã hội ngày
càng dồi dào hơn, số ngời đói nghèo ngày càng giảm đi
Đó là những yếu tố tích cực trong sự phát triển của khoa học mà phần lớn chúng ta đều
nhận thấy. Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển đó thì hầu nh rất ít ngời có thể nhận thức đ-
ợc. Bài viết của nhà văn Gác-xi-a Mác-két đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh nhân loại
trớc nguy cơ đang hiện hữu của một cuộc chiến tranh hạt nhân thảm khốc có khả năng huỷ
diệt toàn bộ sự sống trên hành tinh xanh mà phơng tiện của cuộc chiến tranh ấy mỉa mai
thay lại là hệ quả của sự phát triển khoa học nh vũ bão kia.
Vấn đề đợc khơi gợi hết sức ấn tợng: "Chúng ta đang ở đâu? Hôm nay ngày 8 - 8 -
1986, hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân đã đợc bố trí khắp hành tinh. Nói nôm na ra, điều đó có
nghĩa là mỗi ngời không trừ trẻ con, đang ngồi trên một thùng 4 tấn thuốc nổ: tất cả chỗ đó
nổ tung lên sẽ làm biến hết thảy, không phải một lần mà là mời hai lần, mọi dấu vết của sự
sống trên trái Đất".
Sức tác động của đoạn văn này chủ yếu bởi những con số thống kê cụ thể: 50.000 đầu
đạn hạt nhân; 4 tấn thuốc nổ; không phải một lần mà là mời hai lần Thông điệp về nguy
cơ huỷ diệt sự sống đợc truyền tải với một khả năng tác động mạnh mẽ vào t duy bạn đọc.
Không chỉ có thế, trong những câu văn tiếp theo, tác giả còn mở rộng phạm vi ra toàn hệ
Mặt Trời, dẫn cả điển tích trong thần thoại Hi Lạp nhằm làm tăng sức thuyết phục.
Trong phần tiếp theo, tác giả đa ra hàng loạt so sánh nhằm thể hiện sự bất hợp lí trong
xu hớng phát triển của khoa học hiện đại: tỉ lệ phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân
loại quá thấp trong khi tỉ lệ phục vụ cho chiến tranh lại quá cao. Vẫn là những con số thống
kê đầy sức nặng:
100 tỉ đô la cho trẻ em nghèo khổ tơng đơng với 100 máy bay ném bom chiến lợc
B.1B hoặc dới 7.000 tên lửa vợt đại châu;
Giá 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để thực hiện chơng trình phòng
bệnh trong cùng 14 năm, bảo vệ cho hơn 1 tỉ ngời khỏi bệnh sốt rét;
Hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá nạn mù chữ cho toàn thế
giới

Đó là những con số vợt lên trên cả những giá trị thống kê bởi nó còn có giá trị tố cáo bởi
điều nghịch lí là trong khi các chơng trình phục vụ chiến tranh đều đã hoặc chắc chắn trở thành
hiện thực thì các chơng trình cứu trợ trẻ em nghèo hay xoá nạn mù chữ chỉ là sự tính toán giả
thiết và không biết đến bao giờ mới trở thành hiện thực. Trong khía cạnh này thì rõ ràng là
khoa học đang phát triển ngợc lại những giá trị nhân văn mà từ bao đời nay con ngời vẫn
3
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
hằng xây dựng.
Vẫn bằng phép suy luận lô gích và những con số thống kê nóng bỏng, tác giả đẩy mâu
thuẫn lên đến đỉnh điểm: sự phát triển vũ khí hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí của con
ngời mà còn đi ngợc lại lí trí tự nhiên. Sự đối lập khủng khiếp giữa 380 triệu năm, 180 triệu
năm, bốn kỷ địa chất (hàng chục triệu năm) với khoảng thời gian đủ để "bấm nút một cái"
đã phơi bày toàn bộ tính chất phi lí cũng nh sự nguy hiểm của chơng trình vũ khí hạt nhân
mà các nớc giàu có đang theo đuổi. Bằng cách ấy, rất có thể con ngời đang phủ nhận, thậm
chí xoá bỏ toàn bộ quá trình tiến hoá của tự nhiên và xã hội từ hàng trăm triệu năm qua. Đó
không chỉ là sự phê phán mà còn là sự kết tội.
Đó là toàn bộ luận điểm thứ nhất, chiếm đến hơn ba phần t dung lợng của bài viết này. ở
luận điểm thứ hai, thủ pháp tơng phản đã đợc vận dụng triệt để. Ngay sau lời kết tội trên
đây, tác giả kêu gọi:
"Chúng ta đến đây để cố gắng chống lại việc đó, đem lại tiếng nói của chúng ta tham
gia vào bản đồng ca của những ngời đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống
hoà bình, công bằng. Nhng dù cho tai hoạ xảy ra thì sự có mặt của chúng ta ở đây cũng
không phải là vô ích".
Đó không hẳn là một lời kêu gọi thống thiết và mạnh mẽ, tuy nhiên không vì thế mà nó
kém sức thuyết phục. Chính d âm của luận điểm thứ nhất đã tạo nên hiệu quả cho luận điểm
thứ hai này. Những lời kêu gọi của tác giả gần nh những lời tâm sự nhng thấm thía tận đáy
lòng. Cha hết, tác giả còn tởng tợng ra tấn thảm kịch hạt nhân và đề nghị mở "một ngân
hàng lu trữ trí nhớ". Lời đề nghị tởng nh rất không thực ấy lại trở nên rất thực trong hoàn
cảnh cuộc chiến tranh hạt nhân có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Trong luận điểm thứ hai này, tác giả hầu nh không sử dụng một dẫn chứng hay một con

số thống kê nào. Nhng cách dẫn dắt vấn đề, lời tâm sự tha thiết mang âm điệu xót xa của
tác giả đã tác động mạnh đến lơng tri nhân loại tiến bộ. Tác giả không chỉ ra thế lực nào đã
vận dụng những phát minh khoa học vào mục đích xấu xa bởi đó dờng nh không phải là
mục đích chính của bài viết này nhng ông đã giúp nhân loại nhận thức đợc nguy cơ chiến
tranh hạt nhân là hoàn toàn có thực và ngăn chặn nguy cơ đó, đồng thời đấu tranh cho một
thế giới hoà bình sẽ là nhiệm vụ quan trọng nhất của nhân loại trong thế kỉ XXI.
Văn bản 3: tuyên bố thế giới về sự sống còn,
quyền đợc bảo vệ và phát triển của trẻ em
I - Gợi ý
1. Xuất xứ:
Văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát trỉen của trẻ em đ-
ợc trích từ Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em họp tại Liên hợp quốc ngày
30-9-1990, in trong cuốn "Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em", NXB Chính
trị quốc gia - Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, 1997.
2. Tóm tắt:
Tuy chỉ là một trích đoạn nhng bài viết này có thể coi là một văn bản khá hoàn chỉnh
về hiện thực và tơng lai của trẻ em cũng nh những nhiệm vụ cấp thiết mà cộng đồng quốc tế
phải thực hiện nhằm đảm bảo cho trẻ em có đợc một tơng lai tơi sáng.
Ngoài hai ý mở đầu, bài viết đợc chia thành ba phần rất rõ ràng:
Phần một (sự thách thức): thực trạng cuộc sống khốn khổ của rất nhiều trẻ em trên thế
giới những thách thức đặt ra với các nhà lãnh đạo chính trị.
Phần hai (cơ hội): những điều kiện thuận lợi đối với việc bảo vệ và phát triển cuộc sống,
đảm bảo tơng lai cho trẻ em.
Phần ba (nhiệm vụ): những nhiệm vụ cụ thể, cấp thiết cần thực hiện nhằm bảo vệ và cải
thiện đời sống, vì tơng lai của trẻ em.
II- Giá trị tác phẩm
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy:
Trẻ em nh búp trên cành
4
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ

Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan.
Trẻ em là tơng lai đất nớc. Suy rộng ra, sự vận động và phát triển của thế giới trong tơng
lai phụ thuộc rất nhiều vào cuộc sống và sự phát triển của trẻ em hôm nay. Càng ngày, vấn
đề đó càng đợc nhận thức rõ ràng hơn trên phơng diện quốc tế. Năm 1990, Hội nghị cấp
cao thế giới về trẻ em đã đợc tổ chức. Tại đó, các nhà lãnh đạo các nớc đã đa ra bản Tuyên
bố về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em. Bài viết này đã trích dẫn những ý cơ bản
nhất của bản Tuyên bố đó.
Ngay trong phần mở đầu, bản Tuyên bố đã khẳng định những đặc điểm cũng nh những
quyền lợi cơ bản của trẻ em. Từ đó, các tác giả bắt vào mạch chính với những ý kiến hết sức
cơ bản và lô gích.
Trong phần thứ nhất, tác giả nêu ra hàng loạt vấn đề có về thực trạng cũng nh sự vi
phạm nghiêm trọng quyền của trẻ em. Đó là sự bóc lột, đày đoạ một cách tàn nhẫn, là cuộc
sống khốn khổ của trẻ em ở các nớc nghèo. Trong hoàn cảnh ấy, những con số thống kê rất
có sức nặng ("Mỗi ngày, có hàng triệu trẻ em phải chịu đựng những thảm hoạ của đói
nghèo và khủng hoảng kinh tế, của nạn đói, tình trạng vô gia c, dịch bệnh ; Mỗi ngày có
tới 40000 trẻ em chết do suy dinh dỡng và bệnh tật, "). Những con số biết nói ấy thực sự là
lời cảnh báo đối với nhân loại.
Với nội dung nh vậy nhng các tác giả lại đặt tên cho phần này là Sự thách thức. Mới
đọc, có cảm tởng giữa đề mục và nội dung không thật thống nhất. Tuy nhiên, đó lại là yếu
tố liên kết giữa các phần trong văn bản này. Tác giả đã sử dụng phơng pháp "đòn bẩy": hiện
thực càng đợc chỉ rõ bao nhiêu thì những vấn đề đặt ra sau đó lại càng đợc quan tâm bấy
nhiêu.
Trong phần tiếp theo, các tác giả trình bày những điều kiện thích hợp (hay những cơ
hội) cho những hoạt động vì quyền của trẻ em. Đó là những phơng tiện và kiến thức, là sự
hợp tác, nhất trí của cộng đồng thế giới cùng sự tăng trởng kinh tế, sự biến đổi của xã hội
trong đó các tác giả nhấn mạnh đến nhân tố con ngời. Bằng những hoạt động tích cực, con
ngời hoàn toàn có thể làm chủ đợc tơng lai của mình khi quan tâm thoả đáng đến các thế hệ
tơng lai.
Trong phần Nhiệm vụ, các tác giả nêu ra tám nhiệm vụ hết sức cơ bản và cấp thiết. Có
thể tóm tắt lại nh sau:

1. Tăng cờng sức khoẻ và chế độ dinh dỡng của trẻ em.
2. Quan tâm săn sóc nhiều hơn đến trẻ em bị tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh sống đặc biệt
khó khăn.
3. Đảm bảo quyền bình đẳng nam - nữ (đối xử bình đẳng với các em gái).
4. Bảo đảm cho trẻ em đợc học hết bậc giáo dục cơ sở.
5. Cần nhấn mạnh trách nhiệm kế hoạch hoá gia đình.
6. Cần giúp trẻ em nhận thức đợc giá trị của bản thân.
7. Bảo đảm sự tăng trởng, phát triển đều đặn nền kinh tế.
8. Cần có sự hợp tác quốc tế để thực hiện các nhiệm vụ cấp bách trên đây.
Với những ý hết sức ngắn gọn, đợc trình bày rõ ràng, dễ hiểu, bản Tuyên bố này
không chỉ có ý nghĩa đối với mỗi ngời, mỗi thành viên trong cộng đồng quốc tế mà còn
có tác dụng kêu gọi, tập hợp mọi ngời, mọi quốc gia cùng hành động vì cuộc sống và sự
phát triển của trẻ em, vì tơng lai của chính loài ngời.
Bài tập:
1. Khái niệm văn bản nhật dụng chủ yếu đề cập tới chức năng, đề tài và tính cập nhật của
nội dung văn bản chứ không phải là một khái niệm thể loại.
Hãy chọn Đúng hoặc Sai cho nhận định trên.
A. Đúng B. Sai
2. Nối tên văn bản ở cột A với phơng thức biểu đạt ở cột B để có đợc kết luận chính xác
nhất về hình thức của mỗi một văn bản nhật dụng.
5
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
A B
Đấu tranh cho một thế giới hoà bình Tự sự và miêu tả
Ôn dịch, thuốc lá Thuyết minh, nghị luận và biểu cảm
Ca Huế trên sông Hơng Thuyết minh và miêu tả
Cuộc chia tay của những con búp bê Nghị luận và biểu cảm
3. Điền cụm từ còn thiếu vào chỗ trống để hoàn chỉnh nhận định :
"Khi học văn bản nhật dụng, nhất thiết phải liên hệ với ".
4. Trong văn bản Phong cách Hồ Chí Minh, cốt lõi của phong cách Hồ Chí Minh là gì ?

Hãy chọn đáp án đúng nhất.
A. Vẻ đẹp của sự hiểu biết sâu rộng.
B. Vẻ đẹp của lối sống giản dị, thanh đạm.
C. Vẻ đẹp văn hoá với sự kết hợp hài hoà giữa tinh hoa văn hoá dân tộc và tinh hoa
văn hoá nhân loại.
D. Vẻ đẹp của một lối sống hiện đại.
5. Yêu cầu nào là yêu cầu cao nhất của văn bản nhật dụng ? Khoanh tròn vào đáp án đúng
nhất.
A. Tính văn chơng B. Tính thẩm mĩ
C. Tính mới lạ D. Tính cập nhật
6. Trong các văn bản sau, văn bản nào không phải là văn bản nhật dụng ? Khoanh tròn vào
đáp án đúng.
A. Mẹ tôi
B. Bức th của thủ lĩnh da đỏ
C. Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới
D. Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000
7. Chọn Đúng hoặc Sai cho nhận định sau : Văn bản nhật dụng có thể sử dụng mọi thể loại,
mọi kiểu văn bản.
A. Đúng B. Sai
8. Những nội dung cụ thể sau tơng ứng với những phần nào trong bố cục của văn bản
"Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát triển của trẻ em". Hãy điền tên
từng phần vào trớc dấu hai chấm và sắp xếp lại các phần theo trật tự đúng nh trong văn bản.
A. : Nêu lên thực tế cuộc sống của trẻ em trên thế giới hiện nay: khổ
cực về nhiều mặt, tình trạng bị rơi vào hiểm hoạ.
B. : Những điều cần phải làm của từng quốc gia và cộng đồng thế
giới, vì sự sống còn, phát triển của trẻ em.
C. : Khẳng định những điều kiện thuận lợi cơ bản để cộng đồng quốc
tế có thể đẩy mạnh việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em.
9. Các văn bản nhật dụng ở lớp 8 và lớp 9 đã đề cập tới những vấn đề nào trong các vấn đề
sau đây ? Khoanh tròn vào đáp án đúng.

A. Môi trờng
B. Văn hoá
C. Dân số và tơng lai loài ngời
D. Quan hệ giữa con ngời và thiên nhiên
E. Giáo dục
6
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
G. Quyền sống của con ngời
H. Bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh
I. Hội nhập thế giới và giữ gìn bản sắc dân tộc
K. Danh lam thắng cảnh
10. Hội nhập với thế giới và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là nội dung của văn bản nhật
dụng nào ?
11. Điền từ còn thiếu vào chỗ trống để hoàn chỉnh kết luận về thể loại của văn bản "Đấu
tranh cho một thế giới hoà bình" :
"Về thể loại, văn bản này thuộc loại ".
12. Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em đợc công bố vào ngày, tháng, năm
nào ?
13. Đề cập, bàn luận, thuyết minh, miêu tả, đánh giá những vấn đề, những hiện tợng gần
gũi, bức thiết đối với đời sống trớc mắt của con ngời và cộng đồng, là biểu hiện cho tính
chất gì của văn bản nhật dụng ?
14. Hãy sắp xếp lại hệ thống luận cứ trong văn bản "Đấu tranh cho một thế giới hoà
bình" (G.Mac-ket) sao cho chính xác nhất với cách trình bày của tác giả.
A. Cuộc chạy đua vũ trang làm mất đi khả năng cải thiện đời sống cho hàng tỉ ngời.
B. Kho vũ khí hạt nhân đang đợc tàng trữ có khả năng huỷ diệt cả trái đất và các hành
tinh khác trong hệ mặt trời.
C. Tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc chiến tranh hạt nhân, đấu tranh
cho một thế giới hoà bình.
D. Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí của loài ngời mà còn ngợc lại với lí
trí của tự nhiên, phản lại sự tiến hoá.

15. Chọn Đúng hoặc Sai cho nhận định sau : Bài học quan trọng đợc rút ra từ văn bản
"Phong cách Hồ Chí Minh" là : cần phải hoà nhập với khu vực và quốc tế nhng cũng cần
phải giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
A. Đúng B. Sai
.
Chuyên đề 2:
Tu từ từ vựng Tiếng Việt
( Dạy tuần 3+4)

Bài 1: so sánh
1. Thế nào là so sánh?
So sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật sự việc khác có nét tơng đồng để làm
tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
VD:
- Trong nh tiếng hạc bay qua
Đục nh tiếng suối mới sa nửa vời.
7
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
(Nguyễn Du)
- Mỏ Cốc nh cái dùi sắt, chọc xuyên cả đất
(Tô Hoài)
2. Cấu tạo của phép so sánh
So sánh là cách công khai đối chiếu các sự vật với nhau, qua đó nhận thức đợc sự vật một
cách dễ dàng cụ thể hơn. Vì vậy một phép so sánh thông thờng gồm 4 yếu tố:
- Vế A : Đối tợng (sự vật) đợc so sánh.
- Bộ phận hay đặc điểm so sánh (phơng diện so sánh).
- Từ so sánh.
- Vế B : Sự vật làm chuẩn so sánh.
Ta có sơ đồ sau đây:
Yếu tố 1 Yếu tố 2 Yếu tố 3 Yếu tố 4

Vế A
(Sự vật đợc so
sánh)
Phơng diện
so sánh
Từ so sánh
Vế B
(Sự vật dùng để làm chuẩn so
sánh)
Mây
Bà già
Dừa
Trắng
sóng sánh
đủng đỉnh
Nh
Nh
Nh là
bông
bát nớc chè
đứng chơi
+ Trong 4 yếu tố trên đây yếu tố (1) và yếu tố (4) phải có mặt. Nếu vắng mặt cả yếu tố (1)
thì giữa yếu tố (1) và yếu tó (4) phải có điểm tơng đồng quen thuộc. Lúc đó ta có ẩn dụ.
Khi ta nói : Cô gái đẹp nh hoa là so sánh. Còn khi nói : Hoa tàn mà lại thêm tơi (Nguyễn
Du) thì hoa ở đây là ẩn dụ.
+ Yếu tố (2) và (3) có thể vắng mặt. Khi yếu tố (2) vắng mặt ngời ta gọi là so sánh chìm
vì phơng diện so sánh (còn gọi là mặt so sánh) không lộ ra do đó sự liên tởng rộng rãi hơn,
kích thích trí tuệ và tình cảm ngời đọc nhiều hơn.
+ Yếu tố (3) có thể là các từ nh: gióng, tựa, khác nào, tựa nh, giống nh, là, bao nhiêu,
bấy nhiêu, hơn, kém Mỗi yếu tố đảm nhận một sắc thái biểu cảm khác nhau:

- Nh có sắc thái giả định
- Là sắc thái khẳng định
- Tựa thể hiện mức đọ cha hoàn hảo,
+ Trật tự của phép so sánh có khi đợc thay đổi.
VD:
Nh chiếc đảo bốn bề chao mặt sóng
Hồn tôi vang tiếng vọng của hai miền.
3. Các kiểu so sánh
Dựa vào mục đích và các từ so sánh ngời ta chia phép so sánh thành hai kiểu:
a) So sánh ngang bằng
Phép so sánh ngang bằng thờng đợc thể hiện bởi các từ so sánh sau đây: là, nh, y nh, tựa
nh, giống nh hoặc cặp đại từ bao nhiêubấy nhiêu.
Mục đích của so sánh nhiều khi không phải là tìm sự giống nhau hay khác nhau mà nhằm
diễn tả một cách hình ảnh một bộ phận hay đặc điểm nào đó của sự vật giúp ngời nghe, ng-
ời đọc có cảm giác hiểu biết sự vật một cách cụ thể sinh động. Vì thế phép so sánh thờng
mang tính chất cờng điệu.
VD: Cao nh núi, dài nh sông
(Tố Hữu)
b) So sánh hơn kém
Trong so sánh hơn kém từ so sánh đợc sử dụng là các từ : hơn, hơn là, kém, kém gì
VD:
- Ngôi nhà sàn dài hơn cả tiếng chiêng
Muốn chuyển so sánh hơn kém sang so sánh ngang bằng ngời ta thêm một trong các từ
phủ định: Không, cha, chẳng vào trong câu và ngợc lại.
VD:
Bóng đá quyến rũ tôi hơn những công thức toán học.
Bóng đá quyến rũ tôi không hơn những công thức toán học.
4. Tác dụng của so sánh
8
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ

+ So sánh tạo ra những hình ảnh cụ thể sinh động. Phần lớn các phép so sánh đều lấy cái
cụ thể so sánh với cái không cụ thể hoặc kém cụ thể hơn, giúp mọi ngời hình dung đợc sự
vật, sự việc cần nói tới và cần miêu tả.
VD:
Công cha nh núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ nh nớc trong nguồn chảy ra.
(Ca dao)
+ So sánh còn giúp cho câu văn hàm súc gợi trí tởng tợng của ta bay bổng. Vì thế trong
thơ thể hiện nhiều phép so sánh bất ngờ.
VD:
Tàu dừa chiếc lợc chải vào mây xanh
Cách so sánh ở đây thật bất ngờ, thật gợi cảm. Yếu tố (2) Và Yếu tố (3) bị lợc bỏ. Ngời
đọc ngời nghe tha hồ mà tởng tợng ra các mặt so sánh khác nhau làm cho hình tợng so sánh
đợc nhân lên nhiều lần.
II/ Bài tập
1. Trong câu ca dao :
Nhớ ai bồi hổi bồi hồi
Nh đứng đống lửa nh ngồi đống than
a) Từ bồi hổi bồi hồi là từ gì?
b) Giải nghĩa từ láy bồi hổi bồi hồi
c) Phân tích cái hay của câu thơ do phép so sánh đem lại.

Gợi ý:
a) Đây là từ láy chỉ mức độ cao.
b) Giải nghĩa : trạng thái có những cảm xúc, ý nghĩ cứ trở đi trở lại trong cơ thể con ngời.
c) Trạng thái mơ hồ, trừu tợng chỉ đợc bộc lộ bằng cách đa ra hình ảnh cụ thể: đứng đống
lửa, ngồi đống than để ngời khác hiểu đợc cái mình muốn nói một cách dễ dàng. Hình ảnh
so sánh có tính chất phóng đại nên rất gợi cảm.
2. Phép so sánh sau đây có gì đặc biệt:
Mẹ già nh chuối và hơng

Nh xôi nếp một, nh đờng mía lau.
(Ca dao)
Gợi ý:
Chú ý những chỗ đặc biệt sau đây:
- Từ ngữ chỉ phơng diện so sánh bị lợc bỏ.
Vế (B) là chuẩn so sánh không phải có một mà có ba: chuối và hơng xôi nếp một - đ -
ờng mía lau là nhằm mục đích ca ngợi ngời mẹ về nhiều mặt, mặt nào cũng có nhiều u
điểm đáng quý.
3. Tìm và phân tích phép so sánh (theo mô hình của so sánh) trong các câu thơ sau:
a) Ngoài thềm rơi chiếc la đa
Tiếng rơi rất mỏng nh là rơi nghiêng.
(Trần Đăng Khoa)
b) Quê hơng là chùm khuế ngọt
Cho con chèo hái mỗi ngày
Quê hơng là đờng đi học
Con về rợp bớm vàng bay.
(Đỗ Trung Quân)
Gợi ý:
Chú ý đến các so sánh
a) Tiếng rơi rất mỏng nh là rơi nghiêng
b) Quê hơng là chùm khuế ngọt
Quê hơng là đờng đi học
_____________________________________________________________
Bài 2 : Nhân hoá

I/ Củng cố, mở rộng và nâng cao
1. Thế nào là nhân hoá ?
9
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
Nhân hoá là cách gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật, hiện tợng thiên nhiên bằng những từ

ngữ vốn đợc dùng đẻ gọi hoặc tả con ngời; làm cho thế giới loài vật, cây cối đồ vật, trở
nên gần gũi với con ngời, biểu thị đợc những suy nghĩ tình cảm của con ngời.
Từ nhân hoá nghĩa là trở thành ngời. Khi gọi tả sự vật ngời ta thờng gán cho sự vật đặc
tính của con ngời. Cách làm nh vậy đợc gọi là phép nhân hoá.
VD:
Cây dừa/Sải tay/Bơi/Ngọn mùng tơi/Nhảy múa
(Trần Đăng Khoa)
2. Các kiểu nhân hoá
Nhân hoá đợc chia thành các kiểu sau đây:
+ Gọi sự vật bằng những từ vốn gọi ngời
VD:
Dế Choắt ra cửa, hé mắt nhìn chị Cốc. Rồi hỏi tôi :
- Chị Cốc béo xù đứng trớc cửa nhà ta đấy hả ?
(Tô Hoài)
+ Những từ chỉ hoạt động, tính chất của con ngời đợc dùng để chỉ hoạt động, tính
chất sự vật.
VD :
Muôn nghìn cây mía/Múa gơm/Kiến/Hành quân/Đầy đờng
(Trần Đăng Khoa)
+ Những từ chỉ hoạt động, tính chất của con ngời đợc dùng để chỉ hoạt động tính chất
của thiên nhiên
VD :
Ông trời/Mặc áo giáp đen/Ra trận
(Trần Đăng Khoa)
+ Trò chuyện tâm sự với vật nh đối với ngời
VD :
Khăn thơng nhớ ai
Khăn rơi xuống đất ?
Khăn thơng nhớ ai
Khăn vắt trên vai

(Ca dao)
Em hỏi cây kơ nia
Gió mày thổi về đâu
Về phơng mặt trời mọc
(Bóng cây kơ nia)
3. Tác dụng của phép nhân hoá
Phép nhân hoá làm cho câu văn, bài văn thêm cụ thể, sinh động, gợi cảm ; là cho thế giới
đồ vật, cây cối, con vật đợc gần gũi với con ngời hơn.
VD :
Bác giun đào đất suốt ngày
Hôm qua chết dới bóng cây sau nhà.
(Trần Đăng Khoa)
II/ Bài tập
1. Trong câu ca dao sau đây:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta
Cách trò chuyện với trâu trong bài ca dao trên cho em cảm nhận gì ?
Gợi ý:
- Chú ý cách xng hô của ngời đối với trâu. Cách xng hô nh vậy thể hiện thái độ tình cảm
gì ? Tầm quan trọng của con trâu đối với nhà nông nh thế nào ? Theo đó em sẽ trả lời đợc
câu hỏi.
2. Tìm phép nhân hoá và nêu tác dụng của chúng trong những câu thơ sau:
a) Trong gió trong ma
Ngọn đèn đứng gác
10
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
Cho thắng lợi, nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía trớc.
(Ngọn đèn đứng gác)
Gợi ý:

Chú ý cách dùng các từ vốn chỉ hoạt động của ngời nh:
- Đứng gác, nối theo nhau, hành quân, đi lên phía trớc.
___________________________________________________________
Bài 3 : ẩn dụ

I/ Củng cố, mở rộng và nâng cao
1. Thế nào là ẩn dụ ?
ẩn dụ là cách gọi tên sự vật, hiện tợng này bằng tên sự vật hiện khác có nét tơng đồng
quen thuộc nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
ẩn dụ thực chất là một kiểu so sánh ngầm trong đó yếu tố so sánh giảm đi chỉ còn yếu tố
làm chuẩn so sánh đợc nêu lên.
Muốn có phép ẩn dụ thì giữa hai sự vật hiện tợng đợc so sánh ngầm phải có nét tơng đồng
quen thuộc nếu không sẽ trở nên khó hiểu.

Câu thơ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
(Viễn Phơng)
Mặt trời ở dòng thơ thứ hai chính là ẩn dụ.

Hoặc
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lng
(Nguyễn Khoa Điềm)
Ca dao có câu:
Thuyền về có nhớ bến chăng ?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Bến đợc lấy làm ẩn dụ để lâm thời biểu thị ngời có tấm lòng thuỷ chung chờ đợi, bởi
những hình ảnh cây đa, bến nớc thờng gắn với những gì không thay đổi là đặc điểm quen
thuộc ở những có ngời có tấm lòng thuỷ chung.

ẩn dụ chính là một phép chuyển nghĩa lâm thời khác với phép chuyển nghĩa thờng xuyên
trong từ vựng. Trong phép ẩn dụ, từ chỉ đợc chuyển nghĩa lâm thời mà thôi.
2. Các kiểu ẩn dụ
Dựa vào bản chất sự vật hiện tợng đợc đa ra so sánh ngầm, ta chia ẩn dụ thành các loại
sau:
+ ẩn dụ hình tợng là cách gọi sự vật A bằng sự vật B.
VD:Ngời Cha mái tóc bạc (Minh Huệ)
Lấy hình tợng Ngời Cha để gọi tên Bác Hồ.
+ ẩn dụ cách thức là cách gọi hiện tợng A bằng hiện tợng B.
VD:
Về thăm quê Bác làng Sen
Có hàng râm bụt thứp lên lửa hồng.
(Nguyễn Đức Mậu)
Nhìn hàng râm bụt với những bông hoa đỏ rực tác giả tởng nh những ngọn đèn thắp
lên lửa hồng .
+ ẩn dụ phẩm chất là cách lấy phẩm chất của sự vật A để chỉ phẩm chất của sự vật B.
VD:
ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.
Tròn và dài đợc lâm thời chỉ những phẩm chất của sự vật B.
+ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác là những ẩn dụ trong đó B là một cảm giác vốn thuộc một
loại giác quan dùng để chỉ những cảm giác A vốn thuộc các loại giác quan khác hoặc cảm
xúc nội tâm. Nói gọn là lấy cảm giác A để chỉ cảm giác B.
VD:
Mới đợc nghe giọng hờn dịu ngọt
11
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
Huế giải phóng nhanh mà anh lại muộn về.
(Tố Hữu)

Hay:

Đã nghe rét mớt luồn trong gió
Đã vắng ngời sang những chuyến đò
(Xuân Diệu)
3.Tác dụng của ẩn dụ
ẩn dụ làm cho câu văn thêm giàu hình ảnh và mang tính hàm súc. Sức mạnh của ẩn dụ chính
là mặt biểu cảm. Cùng một đối tợng nhng ta có nhiều cách thức diễn đạt khác nhau. (thuyền
biển, mận - đào, thuyền bến, biển bờ) cho nên một ẩn dụ có thể dùng cho nhiều đối tợng
khác nhau. ẩn dụ luôn biểu hiện những hàm ý mà phải suy ra mới hiểu. Chính vì thế mà ẩn dụ
làm cho câu văn giàu hình ảnh và hàm súc, lôi cuốn ngời đọc ngời nghe.
VD :
Trong câu : Ngời Cha mái tóc bạc nếu thay Bác Hồ mái tóc bạc thì tính biểu cảm sẽ mất
đi.
Chuyên đề 3:
Truyện trung đại
( dạy tuần 5+6)
Văn bản 1: chuyện ngời con gái nam xơng
(Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)
I- Gợi ý
1. Tác giả:
Nguyễn Dữ (cha rõ năm sinh, năm mất), ngời huyện Trờng Tân, nay là huyện Thanh
Miện, tỉnh Hải Dơng. Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, là thời kì triều đình nhà Lê đã bắt đầu
khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền bính, gây ra
những cuộc nội chiến kéo dài. Ông học rộng, tài cao, nhng chỉ làm quan có một năm rồi xin
nghỉ.
2. Tác phẩm:
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ là Truyền kì mạn lục, gồm 20 truyện viết bằng
tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thờng có lời bình của tác giả, hoặc của
một ngời cùng quan điểm với tác giả.
Chuyện ngời con gái Nam Xơng thể hiện niềm cảm thơng của tác giả đối với số phận
oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của của ngời phụ nữ Việt Nam dới chế

độ phong kiến.
Về mặt nội dung, Truyền kì mạn lục chứa đựng nội dung phản ánh hiện thực và giá trị
nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm cũng đồng thời cho thấy những phức tạp trong t tởng nhà văn.
Nguyễn Dữ phản ánh hiện thực xã hội thời đại mình qua thể truyền kì nên tác giả thờng
12
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
lấy xa để nói nay, lấy cái kì để nói cái thực. Đọc Truyền kì mạn lục nếu biết bóc tách ra cái
vỏ kì ảo sẽ thấy cái cốt lõi hiện thực, phủi đi lớp sơng khói thời gian xa cũ, sẽ thấy bộ mặt
xã hội đơng thời. Đời sống xã hội dới ngòi bút truyền kì của nhà văn hiện lên khá toàn diện
cuộc sống ngời dân từ bộ máy nhà nớc với quan tham lại nhũng đến những quan hệ với nền
đạo đức đồi phong bại tục.
Nếu khi phê phán, tố cáo hiện thực xã hội, Nguyễn Dữ chủ yếu đứng trên lập trờng đạo
đức thì khi phản ánh số phận con ngời, ông lại xuất phát tự lập trờng nhân văn. Chính vì
vậy, Truyền kì mạn lục chứa đựng một nội dung nhân đạo sâu sắc. Về phơng diện này,
Nguyễn Dữ là một trong những nhà văn mở đầu cho chủ nghĩa nhân văn trong văn học
trung đại Việt Nam. Truyền kì mạn lục phản ánh số phận con ngời chủ yếu qua số phận của
ngời phụ nữ, đồng thời hớng tới những giải pháp xã hội, nhng vẫn bế tắc trên đờng đi tìm
hạnh phúc cho con ngời". (Từ điển văn học - NXB Thế giới, 2005).
3. Thể loại:
Truyện truyền kì là những truyện kì lạ đợc lu truyền. Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ
là sự ghi chép tản mạn về những truyện ấy. Tác phẩm đợc viết bằng chữ Hán, khai thác các
truyện cổ dân gian, các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam. Nhân vật chính trong
Truyền kì mạn lục phần lớn là những ngời phụ nữ đức hạnh nhng lại bị các thế lực phong
kiến, lễ giáo khắc nghiệt xô đẩy vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất. Bên cạnh đó còn có
kiểu nhân vật là những ngời trí thức có tâm huyết nhng bất mãn với thời cuộc, không chịu
trói mình vào vòng danh lợi chật hẹp.
4. Tóm tắt:
Câu chuyện kể về Vũ Thị Thiết - ngời con gái quê ở Nam Xơng, tính tình nết na thuỳ
mị. Lấy chồng là Trơng Sinh cha đợc bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dỡng
mẹ già và nuôi con nhỏ. Để dỗ con, nàng thờng chỉ bóng mình trên tờng và bảo đó là cha

nó. Khi Trơng Sinh về thì con đã biết nói. Đứa bé ngây thơ kể với Trơng Sinh về ngời đêm
đêm vẫn đến nhà. Trơng Sinh sẵn có tính ghen, mắng nhiếc và đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Thị
Thiết chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn, Trơng Sinh
lập đàn giải oan cho nàng.
Cũng có thể tạm chia truyện thành hai phần, lấy mốc là việc Vũ Nơng nhảy xuống sông
tự tử:
- Đoạn 1 (từ đầu đến "và xin chịu khắp mọi ngời phỉ nhổ"): bị chồng nghi oan. Vũ N-
ơng tự vẫn.
- Đoạn 2 (còn lại): nỗi oan đợc giải, Vũ Nơng đợc cứu sống nhng vẫn không trở về đoàn
tụ cùng gia đình.
II- Giá trị tác phẩm
Có lẽ ngời Việt Nam chúng ta ai cũng hiểu và biết cách sử dụng cụm từ "oan Thị Kính"
một nỗi oan khuất mà ngời bị oan không có cách gì để thanh minh. Thị Kính chỉ đợc giải
oan nhờ Đức Phật hay nói đúng hơn là nhờ tấm lòng bao dung độ lợng, luôn hiểu thấu và
sẵn sàng bênh vực cho những con ngời bé nhỏ, thua thiệt, oan ức trong xã hội của những
nghệ sĩ dân gian.
Ngời phụ nữ trong Chuyện ngời con gái Nam Xơng không có đợc cái may mắn nh Thị
Kính mặc dù nỗi oan của nàng cũng không kém gì, thậm chí kết cục còn bi thảm hơn. Thị
Kính đợc lên toà sen trong khi ngời phụ nữ này phải tìm đến cái chết để chứng tỏ sự trong
sạch của mình. Mặc dù vậy, nhân vật này vẫn không đợc nhiều ngời biết đến, có lẽ bởi ph-
ơng thức kể. Ai cũng biết đến Thị Kính vì câu chuyện về nàng đợc thể hiện qua một vở
chèo một loại hình nghệ thuật dân gian quen thuộc, đợc nhân dân a thích từ xa xa, trong
khi Ngời con gái Nam Xơng là một tác phẩm văn học viết thời trung đại (trong điều kiện xã
hội phong kiến, nhân dân lao động hầu hết đều không biết chữ). Ngày nay đọc lại tác phẩm
này, chúng ta có thể hiểu thêm rất nhiều điều về thân phận những ngời phụ nữ trong xã hội
phong kiến qua nghệ thuật dựng truyện, dẫn dắt mạch truyện cũng nh nghệ thuật xây dựng
nhân vật, cách thức kết hợp các phơng thức tự sự, trữ tình và kịch của tác giả.
Trong phần đầu của truyện, trớc khi biến cố lớn xảy ra, tác giả đã dành khá nhiều lời để
ca ngợi vẻ đẹp của ngời phụ nữ, từ nhan sắc cho đến đức hạnh. Hầu nh không có sự kiện
13

Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
nào thật đặc biệt ngoài những chi tiết (tiễn chồng đi lính, đối xử với mẹ chồng ) chứng tỏ
nàng là một ngời con gái đẹp ngời đẹp nết, một ngời vợ hiền, một ngời con dâu hiếu thảo.
Chỉ có một chi tiết ở đoạn mở đầu: "Song Trơng có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá
sức". Bạn đọc có thể dễ bỏ qua chi tiết này vì với phẩm hạnh của nàng, dẫu Trơng Sinh có
đa nghi đến đâu cũng khó có thể xảy ra chuyện gì đợc.
Nhng đó lại là một chi tiết rất quan trọng, thể hiện tài kể chuyện của tác giả. Chi tiết
nhỏ đợc cài rất khéo đó chính là sợi dây nối giữa phần trớc và phần sau, xâu chuỗi các yếu
tố trong truyện, đồng thời giúp bạn đọc hiểu đợc nội dung t tởng của tác phẩm.
Mạch truyện đợc dẫn rất tự nhiên. Sau khi giặc tan, Trơng Sinh trở về nhà, bế đứa con
nhỏ ra thăm mộ mẹ. Thằng bé quấy khóc, khi Sinh dỗ dành thì nó nói:
"Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ? Ông lại biết nói, chứ không nh cha tôi trớc kia
chỉ nín thin thít".
Thật chẳng khác gì một tiếng sét bất chợt. Lời con trẻ vô tình đã thổi bùng lên ngọn lửa
ghen tuông trong lòng ngời đàn ông đa nghi (tác giả đã nói đến từ đầu). Nếu coi đây là một
vở kịch thì lời nói của đứa con chính là nút thắt, mở ra mâu thuẫn đồng thời ngay lập tức
đẩy mâu thuẫn lên cao. Sau khi gạn hỏi con, nghe thằng bé nói có một ngời đàn ông "đêm
nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi ", mối nghi ngờ của Sinh đối
với vợ đã đến mức không thể nào gỡ ra đợc.
Một lần nữa, chi tiết về tính hay ghen của Sinh phát huy tác dụng triệt để. Nó lí giải
diễn biến câu chuyện, đồng thời giải đáp những thắc mắc của bạn đọc một cách hợp lí. Tại
sao Sinh không chịu nghe lời ngời vợ thanh minh? Tại sao Sinh không nói cho vợ biết lí do
mình tức giận nh thế? (Nếu Sinh nói ra thì ngay lập tức câu chuyện sẽ sáng tỏ). Đó chính là
hệ quả của tính đa nghi. Vì đa nghi nên Sinh không thể tỉnh táo suy xét mọi việc. Cũng vì
đa nghi nên lời nói (dù rất mơ hồ) của một đứa bé cũng trở thành một bằng chứng "không
thể chối cãi" rằng vợ chàng đã ngoại tình khi chồng đi vắng. Sự vô lí đã trở nên hợp lí bởi
sự kết hợp giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.
Không biết vì sao Sinh lại nghi oan nên ngời vợ không thể thanh minh. Để chứng tỏ sự
trong sạch của mình, nàng chỉ có mỗi cách duy nhất là tự vẫn. Vợ Sinh chết mà mâu thuẫn
kịch vẫn không đợc tháo gỡ, mối nghi ngờ trong lòng Sinh vẫn còn nguyên đó.

Theo dõi mạch truyện từ đầu, bạn đọc tuy không một chút nghi ngờ phẩm hạnh của ng-
ời phụ nữ nhng cũng không lí giải nổi chuyện gì đã xảy ra và vì sao đứa bé lại nói nh vậy.
Đây cũng là một yếu tố chứng tỏ nghệ thuật kể chuyện của tác giả. Thủ pháp "đầu cuối t-
ơng ứng" đợc vận dụng. Đứa trẻ ngây thơ là nguyên nhân dẫn đến bi kịch thì cũng chính nó
trở thành nhân tố tháo gỡ mâu thuẫn một cách tình cờ. Sau khi vợ mất, một đêm kia, đứa trẻ
lại nói:

Cha Đản lại đến kia kìa!
Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách:

Đây này!
Mâu thuẫn đợc tháo gỡ cũng bất ngờ nh khi nó phát sinh. Đứa trẻ có biết đâu rằng, nó
đã gây ra một sự hiểu lầm khủng khiếp để rồi khi ngời chồng hiểu ra, hối hận thì đã quá
muộn. Ngay cả bạn đọc cũng phải sững sờ: sự thật giản đơn đến thế mà cũng đủ đẩy một
con ngời vào cảnh tuyệt vọng.
Ai là ngời có lỗi? Đứa trẻ đơng nhiên là không vì nó vẫn còn quá nhỏ, chỉ biết thắc mắc
vì những lời nói đùa của mẹ. Vợ Sinh cũng không có lỗi vì nàng biết đâu rằng những lời nói
đùa với con để vợi nỗi nhớ chồng lại gây ra hậu quả đến thế! Có trách chăng là trách Trơng
Sinh vì sự ghen tuông đến mất cả lí trí. Chi tiết này gợi lên nhiều suy nghĩ: giá nh không
phải ở trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, giá nh ngời vợ có thể tự bảo vệ cho lẽ
phải của mình thì nàng đã không phải chọn cái chết thảm thơng nh vậy. Tính đa nghi của
Sinh đã không gây nên hậu quả xấu nếu nh nó không đợc nuôi dỡng trong một môi trờng
mà ngời phụ nữ luôn luôn phải nhận phần thua thiệt về mình. ý nghĩa này của tác phẩm hầu
nh không đợc tác giả trình bày trực tiếp nhng qua hệ thống các biến cố, sự kiện đợc sắp xếp
hợp lí, đa bạn đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, tác giả đã thể hiện một cách tinh tế sự
cảm thông sâu sắc của mình đối với những số phận bất hạnh, đặc biệt là của ngời phụ nữ
14
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
trong xã hội phong kiến.
Nếu câu chuyện dừng lại ở đây thì có thể cho rằng nó đã đợc sáng tạo theo một lỗi viết

khá mới mẻ và hiện đại. Nhng Nguyễn Dữ lại là ngời nổi tiếng với những câu chuyện
truyền kỳ. Hoang đờng, kì ảo là những yếu tố không thể thiếu trong những sáng tác thuộc
loại này. Mặt khác, tuy là một tác giả của văn học viết trung đại nhng hẳn Nguyễn Dữ cũng
chịu ảnh hởng ít nhiều từ t tởng "ở hiền gặp lành" của nhân dân lao động. Bản thân ông
cũng luôn đứng về phía nhân dân, đặc biệt là những ngời phụ nữ có hoàn cảnh éo le, số
phận oan nghiệt trong xã hội cũ. Bởi vậy, tác giả đã tạo cho câu chuyện một lối kết thúc có
hậu. Tuy không đợc hoá Phật để rồi sống ở miền cực lạc nh Thị Kính nhng ngời phụ nữ
trong truyện cũng đợc thần rùa cứu thoát, tránh khỏi một cái chết thảm thơng.
Phần cuối truyện còn đợc cài thêm nhiều yếu tố kì ảo khác nữa. Ví dụ nh chi tiết chàng
Phan Lang trở thành ân nhân của rùa, sau lại đợc rùa đền ơn. Trên đờng chạy giặc, bị đắm
thuyền, dạt lên đảo và đợc chính con rùa năm xa cứu thoát. Đó có thể coi là sự "đền ơn trả
nghĩa" những hành động rất phù hợp với lí tởng thẩm mĩ của nhân dân. Việc ngời phụ nữ
trở về gặp chồng nhng không đồng ý trở lại chốn nhân gian có lẽ cũng nhằm khẳng định t t-
ởng nhân nghĩa ấy. Mặc dù đã đợc cứu thoát, đợc giải oan nhng vì lời thề với vợ vua biển
Nam Hải, nàng quyết không vì hạnh phúc riêng mà bỏ qua tất cả. Những chi tiết đó càng
chứng tỏ vẻ đẹp trong tính cách của ngời phụ nữ, đồng thời cũng cho thấy thái độ ngỡng
mộ, ngợi ca của tác giả đối với ngời phụ nữ trong câu chuyện này nói riêng và ngời phụ nữ
Việt Nam nói chung.
Văn bản 2: chuyện cũ trong phủ chúa trịnh
(Trích Vũ trung tuỳ bút - Phạm Đình Hổ)
I- Gợi ý
1. Tác giả:
Tác giả của Vũ trung tuỳ bút là Phạm Đình Hổ (1768-1839), quê huyện Cẩm Bình, tỉnh
Hải Dơng. Ông sinh trong một gia đình khoa bảng, từng dạy học ở nhiều nơi.
Những tác phẩm mà Phạm Đình Hổ để lại gồm nhiều loại, nhiều lĩnh vực, từ biên soạn
cho đến khảo cứu (triết học, lịch sử, địa lí ), sáng tác văn học. Riêng sáng tác văn học có:
Vũ trung tuỳ bút, Tang thơng ngẫu lục (viết chung với Nguyễn án), Đông dã học ngôn thi
tập, Tùng cúc liên mai tứ hữu, tất cả đều đợc viết bằng chữ Hán.
2. Tác phẩm:
Tuy chỉ là một tác phẩm tuỳ bút với ý nghĩa là những ghi chép tản mạn nhng Vũ trung

tuỳ bút lại có giá trị văn học lớn. Một mặt, tác phẩm phơi bày hiện thực xã hội đen tối lúc
bấy giờ đồng thời với nỗi thống khổ của nhân dân, mặt khác, tác phẩm thể hiện tài năng của
tác giả. Dù tác giả không chủ ý xoáy sâu vào một vấn đề nào nhng qua những từ ngữ gợi tả,
qua những lời bình luận tởng nh rất bâng quơ, hiện thực cuộc sống cứ hiển hiện chân thực,
sống động trớc mắt độc giả.
Trong bài văn này, phần đầu tác giả miêu tả cung cách ăn chơi xa hoa của đám quan
quân trong phủ chúa Trịnh, phần sau tác giả đề cập đến nỗi khổ sở của dân chúng trớc sự
nhũng nhiễu của đám quan quân. Phần cuối, tác giả điểm qua một vài ý về gia đình mình.
Mọi chi tiết đều có tác dụng phơi bày sự mục rỗng của chính quyền phong kiến Lê Trịnh
ở vào thời kì sắp suy tàn.
3. Thể loại:
Nói tuỳ bút là thể văn ghi chép sự việc một cách cụ thể, sinh động nhng tuỳ hứng
không có nghĩa là bài văn đợc sắp xếp lộn xộn, không theo trật tự nào. Thực ra, điều đó chỉ
có nghĩa rằng văn tuỳ bút không phụ thuộc vào một khuôn mẫu cố định nào đó (ví dụ nh
thơ Đờng luật). Tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể, tác giả lựa chọn, sắp xếp các chi tiết, sự
kiện theo những trật tự nhất định nhằm làm nổi bật vấn đề.
4. Tóm tắt:
Đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh miêu tả cuộc sống xa hoa ăn chơi xa xỉ,
không màng đến quốc gia đại sự, áp bức, bóc lột nhân dân, của vua chúa, quan lại phong
15
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
kiến thời Thịnh Vơng Trịnh Sâm.
II- Giá trị tác phẩm
Khoảng cuối thế kỉ XVIII, tuy ngoài biên giới không có giặc ngoại xâm nhng trong nớc
lại vô cùng rối ren. Các thế lực phong kiến chia bè kéo cánh thao túng quyền hành, vừa sát
hại lẫn nhau vừa ra sức bóc lột của cải khiến đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Ngoài
Bắc, vua Lê chỉ là bù nhìn, quyền hành thực tế nằm cả trong tay chúa Trịnh. Trịnh Sâm là
ngời nổi tiếng hoang dâm vô độ. Cậy thế lấn át vua, ông ta thả sức cho xây hàng loạt cung
điện, đền đài nhằm phục vụ cho nhu cầu ăn chơi hoang phí. Trong bài văn này, tuy tác giả
không bộc lộ trực tiếp cảm xúc, thái độ của mình nhng qua hàng loạt chi tiết, qua những

cảnh, những việc tởng nh đợc trình bày hết sức ngẫu hứng của tác giả, bạn đọc có thể hiểu
đợc phần nào cuộc sống xa hoa, lãng phí của đám quan quân phong kiến thời bấy giờ, đồng
thời cũng có thể cảm nhận đợc ít nhiều sự phẫn nộ của tác giả trong hoàn cảnh ấy.
Một điểm rất đáng lu ý khi đọc bài văn này chính là giọng điệu của tác giả một giọng
điệu hầu nh khách quan, không thể hiện một chút cảm xúc, thái độ nào. Khi cần gọi tên
đám quan quân trong phủ chúa, từ chúa Trịnh Sâm, các quan đại thần cho đến bọn hoạn
quan trong cung giám, tác giả luôn tỏ thái độ cung kính. Thủ pháp quen thuộc thờng đợc sử
dụng là liệt kê, hết chúa đến quan, từ quan lớn đến quan bé, từ sự việc này sang sự việc
khác. Nếu không tinh ý, thật khó có thể xác định đợc mục đích của tác giả khi viết đoạn
này là gì.
Tuy nhiên, qua hàng loạt sự kiện tởng chừng đợc liệt kê một cách tuỳ hứng, có thể phát
hiện ra những chi tiết giúp chúng ta hiểu đợc nội dung t tởng của bài.
Phần đầu viết về các cuộc dạo chơi của chúa Trịnh. Tác giả không tả cụ thể, cũng không
đa ra một lời bình luận nào, nhng các chi tiết, các sự kiện cứ nh tự biết nói. Chúng phô bày
một cuộc sống phù phiếm, xa hoa với những cuộc dạo chơi liên miên, rồi thì đình đài xây
dựng hết cái này đến cái khác. Theo những cuộc du ngoạn của chúa là đầy đủ các quan đại
thần, binh lính, ngời phục dịch Nh thế đủ thấy những sinh hoạt đó tốn kém đến mức nào.
Cớp bóc của cải là việc làm quen thuộc của quan quân thời bấy giờ. Nhân dân ta từng
có câu:
Con ơi nhớ lấy câu này
Cớp đêm là giặc, cớp ngày là quan.
Tác giả viết rất rõ: "Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch
chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì". Thật là
sự cớp bóc trắng trợn của một vị chúa. Bất cứ thứ gì chúa muốn, kể cả cây đa to đến hàng
mấy trăm ngời khiêng cũng đợc đa về phủ Thật trớ trêu khi ngời đứng đầu triều đình lại
không hề biết tiếc sức ngời sức của, không biết chăm lo cho nớc, cho dân, chỉ biết cớp bóc,
vơ vét để thoả lòng tham không đáy.
Liệt kê ra nh vậy nhng tác giả vẫn không đa ra bất cứ một lời bình luận nào. Thậm chí
ông còn viết cả một đoạn văn dài nh là ca ngợi vẻ đẹp của phủ chúa. Mặc dù vậy, cách miêu
tả của tác giả thật đặc biệt: vừa mới viết "hình núi non bộ trông nh bến bể đầu non", tác giả

lại bổ sung: "Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vợn hót vang khắp bốn bề, hoặc
nửa đêm ồn ào nh trận ma sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tờng".
Câu văn tuy đẹp, lời văn tởng nh mạnh mẽ nhng lại nhuốm màu u ám, nh báo trớc những
điều chẳng lành.
Vua chúa đã vậy, bọn quan lại cũng tha hồ "đục nớc béo cò". Vừa ăn cắp vừa la làng,
chúng không những lấy đi những thứ quý mà còn lập mu vu vạ nhằm doạ nạt để lấy tiền.
Tác giả gọi chúng là "các cậu" ra vẻ trân trọng nhng những hành vi của chúng thì thật bỉ ổi,
táng tận lơng tâm. Tác giả không nói gì thì bạn đọc cũng biết: một xã hội mà từ vua chúa
đến quan lại đều không chăm lo gì đến việc nớc, chỉ biết tìm cách cớp đoạt của cải của
nhân dân thì xã hội ấy hỗn loạn, bất an đến thế nào.
Trong phần cuối, tác giả đa ra những chi tiết về nỗi khổ của nhân dân cũng nh của
chính gia đình mình: "Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thờng phải bỏ của
ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai
vạ, Đó là cảnh chung, còn trong ngôi nhà của tác giả, những cây cảnh đẹp cũng đợc sai
chặt đi.
16
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
Đó là những chi tiết rất đắt giá. Tác giả không tả đám quan quân cớp bóc của cải mà chỉ
nói về cây cảnh. Việc nhân dân tự chặt cây cảnh, đập bỏ hòn non bộ đã cho thấy một xã hội
đầy những bất trắc, ngời dân phải phá bỏ chính tài sản của mình để khỏi bị liên luỵ, phiền
hà với đám quan lại xấu xa, tàn ác. Hệ quả đợc rút ra ở đây là: đến những thứ phù phiếm
nh hòn non bộ hay cây cảnh mà chúng còn ngang nhiên cớp đoạt nh vậy thì những thứ quý,
hẳn chúng cũng không bỏ qua một cơ hội nào.
Bài tuỳ bút đợc trích tơng đối ngắn, nhng qua những chi tiết, những sự việc đợc chọn
lọc, đợc sắp xếp hợp lí, qua cách hành văn, sử dụng những câu văn đa nghĩa của tác giả,
bạn đọc hiểu đợc rất nhiều điều về thực trạng xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
Văn bản 3: hoàng lê nhất thống chí
(Trích Hồi thứ mời bốn - Ngô gia Văn Phái)
I- Gợi ý
1. Tác giả:

Tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí là Ngô gia văn phái, một tập thể tác giả thuộc
dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Hai tác
giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du.
- Ngô Thì Chí (1753-1788) là em ruột Ngô Thì Nhậm, từng làm quan dới thời Lê Chiêu
Thống. Ông tuyệt đối trung thành với nhà Lê, từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyễn
Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, dâng Trung hng sách bàn kế khôi
phục nhà Lê. Sau đó ông đợc Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lu vong,
lập nghĩa binh chống Tây Sơn, nhng trên đờng đi ông bị bệnh, mất tại huyện Gia Bình (Bắc
Ninh). Nhiều tài liệu nói ông viết bảy hồi đầu của tác phẩm.
- Ngô Thì Du (1772-1840) là anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí, học giỏi nhng không
đỗ đạt gì. Dới triều Tây Sơn, ông ẩn mình ở vùng Kim Bảng (Hà Nam). Thời nhà Nguyễn,
ông ra làm quan, đợc bổ Đốc học Hải Dơng, đến năm 1827 thì về nghỉ. Ông là tác giả bảy
hồi tiếp theo của Hoàng Lê nhất thống chí.
2. Tác phẩm:
Văn bản bài học đợc trích từ Hồi 14 tiểu thuyết chơng hồi của Ngô gia văn phái tái
hiện lại những diễn biến quan trọng trong cuộc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung
Nguyễn Huệ. Mặc dù là một tiểu thuyết lịch sử nhng Hoàng Lê nhất thống chí (biểu hiện
cụ thể ở đoạn trích này) không chỉ ghi chép lại các sự việc, sự kiện mà đã tái hiện khá sinh
động hình ảnh của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, sự thảm bại của quân xâm lợc cùng
với số phận bi đát của đám vua tôi nhà Lê phản dân, hại nớc.
3. Thể loại:
- Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn sách viết theo thể chí (một thể văn vừa có tính chất
văn học vừa có tính chất lịch sử), ghi chép về sự thống nhất của vơng triều nhà Lê, vào thời
điểm anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ lãnh đạo nông dân Tây Sơn nổi dậy khởi nghĩa,
tiêu diệt nhà Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. ý nghĩa tiêu đề của tác phẩm là nh thế nhng
sau khi vua Lê dành lại đợc quyền thế từ tay chúa Trịnh, rất nhiều biến cố lịch sử đã diễn
ra, trong đó có cuộc tấn công thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn, dới sự thống lĩnh của vua
Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) đánh tan hai mơi vạn quân Thanh xâm lợc. Tất cả đã đợc
ghi chép lại một cách khá đầy đủ và khách quan trong tác phẩm.
4. Tóm tắt:

Đợc tin báo quân Thanh vào Thăng Long, Bắc Bình Vơng rất giận, liền họp các tớng sĩ
rồi tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, hạ lệnh xuất quân ra Bắc, thân hành cầm quân, vừa đi
vừa tuyển quân lính. Ngày ba mơi tháng chạp, đến núi Tam Điệp, vua mở tiệc khao quân, hẹn
mùng bảy năm mới vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Bằng tài chỉ huy thao lợc của
Quang Trung, đạo quân của Tây Sơn tiến lên nh vũ bão, quân giặc thua chạy tán loạn. Tôn Sĩ
Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, ngời không kịp mặc áo giáp, chuồn thẳng về
biên giới phía Bắc, khiến tên vua bù nhìn Lê Chiêu Thống cũng phải chạy tháo thân.
17
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
II - Giá trị tác phẩm
Một nhân tố quan trọng cần phải xem xét trớc hết trong văn bản này là tác giả. Khi sáng
tạo tác phẩm, tác giả không chỉ tái hiện hiện thực khách quan mà còn thể hiện những t tởng,
tình cảm, quan điểm chính trị, xã hội của mình. Tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí là
Ngô gia văn phái một nhóm tác giả rất trung thành với nhà Lê. Nếu xét theo quan điểm
phong kiến thì trong con mắt của Ngô gia, vua Quang Trung là kẻ nghịch tặc. Thế nhng
trong tác phẩm, hình ảnh Quang Trung Nguyễn Huệ lại đợc miêu tả khá sắc nét với tài
cầm quân "bách chiến bách thắng", tính quyết đoán cùng nhiều phẩm chất tốt đẹp khác.
Điều đó một phần bởi triều đại nhà Lê khi đó đã quá suy yếu, mục nát, dù có là bề tôi trung
thành đến mấy thì các tác giả trong Ngô gia văn phái cũng khó có thể phủ nhận. Mặt khác,
có thể chính tài năng và đức độ của vua Quang Trung đã khiến cho các tác giả này thay đổi
quan điểm của mình, từ đó đã tái hiện lại các sự kiện, nhân vật, một cách chân thực.
Các chi tiết, sự kiện trong phần đầu đoạn trích này cho thấy vua Quang Trung là ngời
rất mạnh mẽ, quyết đoán nhng không hề độc đoán, chuyên quyền. Ông sẵn sàng lắng nghe
và làm theo ý kiến của thuộc hạ, lên ngôi vua để giữ lòng ngời rồi mới xuất quân ra Bắc.
Ngay khi đến Nghệ An, ông lại cho vời một ngời Cống sĩ đến để hỏi về việc đánh quân
Thanh nh thế nào. Chi tiết này cho thấy Quang Trung luôn quan tâm đến ý dân, lòng dân.
Khi vị Cống sĩ nói: "Chúa công đi ra chuyến này, không quá mời ngày, quân Thanh sẽ bị
dẹp tan", ông "mừng lắm", không chỉ vì ngời Cống sĩ nói đúng ý mình mà chủ yếu là vì chủ
trơng của ông, quyết tâm của ông đã đợc nhân dân đồng tình ủng hộ. Bằng chứng là ngay
sau đó ông cho tuyển quân, "cha mấy lúc, đã đợc hơn một vạn quân tinh nhuệ".

Cách ăn nói của vua Quang Trung cũng rất có sức thuyết phục, vừa khéo léo, mềm
mỏng vừa rất kiên quyết, hợp tình hợp lí. Khi nói với binh sĩ, ông đã cho họ ngồi (một cử
chỉ biểu lộ sự gần gũi mặc dù ông đã xng vơng), từng lời nói đều giản dị, dễ hiểu. Sau khi
lấy lịch sử từ các triều đại trớc ra để cho binh sĩ thấy nỗi khổ của nhân dân dới ách thống trị
ngoại bang, ông không quên tuyên bố sẽ trừng phạt những kẻ phản bội, ăn ở hai lòng. Điều
đó khiến cho binh sĩ thêm đồng lòng, quyết tâm chống giặc.
Đó cũng là cách ứng xử của ông đối với các tớng lĩnh. Khi quân đến Tam Điệp, hai tớng
Sở và Lân mang gơm trên lng đến xin chịu tội, ông thẳng thắn chỉ ra tội của họ nhng lại cho
mọi ngời hiểu họ cũng là ngời đã có công lớn trong việc bảo toàn đợc lực lợng, chờ đợi thời
cơ điều đó không những khiến cho quân ta tránh đợc những thơng vong vô ích mà còn
làm cho giặc trở nên kiêu ngạo, chủ quan, tạo điều kiện thuận lợi để ta đánh chúng sau này.
Những lời nói, việc làm của vua Quang Trung thật hợp tình, hợp lí và trên hết là hợp với
lòng ngời. Vừa mềm dẻo vừa kiên quyết, xét đúng công, đúng tội, đặt lợi ích của quốc gia
và của dân chúng lên trên hết, ông đã khiến cho binh sĩ thêm cảm phục, càng quyết tâm
chống giặc. Đó là một yếu tố rất quan trọng tạo nên những chiến thắng liên tiếp của quân
Tây Sơn dới sự thống lĩnh của vua Quang Trung.
Cuộc tiến quân ra Bắc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung thực sự chỉ có thể
diễn tả bằng từ "thần tốc". ở phần tiếp theo của đoạn trích, để diễn tả không khí chiến trận
rất khẩn trơng, quyết liệt, các tác giả đã chú trọng nhiều hơn đến các sự kiện nhng không vì
thế mà làm mờ nhạt hình ảnh tài năng của vị thống lĩnh. Lời hứa chắc chắn trớc lúc xuất
quân của ông đã đợc đảm bảo bằng tài thao lợc, xử trí hết sức nhạy bén, mu trí trong những
tình huống cụ thể: đảm bảo bí mật hành quân, nghi binh tấn công làng Hà Hồi, dùng ván
phủ rơm ớt để tấn công đồn Ngọc Hồi, Tài dùng binh khôn khéo đó khiến cho quân
Thanh hoàn toàn bị bất ngờ, khi chúng biết đợc tin tức thì đã không thể chống cự lại đợc
nữa, chỉ còn cách dẫm đạp lên nhau mà chạy.
Phần cuối của đoạn trích chủ yếu diễn tả cuộc tháo chạy hỗn loạn, nhục nhã của đám
quan quân nhà Thanh. Ra đi "binh hùng tớng mạnh", vậy mà cha đánh đợc trận nào đã phải
tan tác về nớc. Rất có thể sau khi bại trận, quân số của Tôn Sĩ Nghị (trớc đó là hai mơi vạn)
vẫn còn đông hơn quân của vua Quang Trung nhng trớc sức tấn công nh vũ bão của quân
Tây Sơn, dới sự chỉ huy của một vị tớng tài ba và quyết đoán, chúng đã không còn hồn vía

nào để nghĩ đến chuyện chống trả.
Trong đoạn này, giọng điệu của các tác giả tỏ ra vô cùng hả hê, vui sớng. Khi miêu tả
tài "xuất quỷ nhập thần" của quân Tây Sơn, các tác giả viết: "Thật là: "Tớng ở trên trời
18
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
xuống, quân chui dới đất lên" Ngợc lại, khi viết về Tôn Sĩ Nghị thì: "Tôn Sĩ Nghị sợ mất
mật, ngựa không kịp đóng yên, ngời không kịp mặc áo giáp ". Đó không còn là giọng của
một ngời ghi chép lại các sự kiện một cách khách quan mà là giọng điệu sảng khoái của
nhân dân, của dân tộc sau khi đã khiến cho bọn xâm lợc ngoại bang, vốn trớc ngạo nghễ là
thế, giờ đây phải rút chạy nhục nhã.
Đoạn nói về vua tôi nhà Lê càng khẳng định thái độ của các tác giả khi viết tác phẩm
này. Mặc dù luôn đề cao t tởng trung nghĩa nhng trớc sự nhu nhợc, hèn hạ của đám vua tôi
nhà Lê, các tác giả vẫn thể hiện ít nhiều thái độ mỉa mai, châm biếm. Số phận những kẻ
phản dân, hại nớc cũng thảm hại chẳng kém gì những kẻ cậy đông, đem quân đi xâm lợc n-
ớc khác. Đó là số phận chung mà lịch sử giành cho lũ bán nớc và lúc cớp nớc.
Cuộc đại phá quân Thanh xâm lợc là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh bảo
vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Ngời làm nên kì tích ấy là Quang Trung Nguyễn Huệ, vị "anh
hùng áo vải" vừa có tài thao lợc vừa luôn hết lòng vì dân, vì nớc.
Trang sử hào hùng ấy đã đợc ghi lại bởi Ngô gia văn phái nhóm tác giả đã vợt qua
những t tởng phong kiến cố hữu để tái hiện lại lịch sử một cách chân thực.
Bài tập:
Câu 1:
Cm ngh v thõn phn ngi ph n qua bi th Bỏnh trụi nc ca H Xuõn Hng v
tỏc phm Chuyn ngi con gỏi Nam Xng ca Nguyn D.
TL:
Vn dng cỏc k nng ngh lun vn hc nờu nhng suy ngh v s phn ca ngi ph
n qua 2 tỏc phm : Bỏnh trụi nc ca H Xuõn Hng v Chuyn ngi con gỏi Nam
Xng ca Nguyn D, yờu cu t c cỏc ý sau :
a. Nờu khỏi quỏt nhn xột v ti ngi ph n trong vn hc, s phn cuc i ca h
c phn ỏnh trong cỏc tỏc phm vn hc trung i ; nhng bt hnh oan khut c by

t, ting núi cm thụng bờnh vc th hin tm lũng nhõn o ca cỏc tỏc gi, tiờu biu th
hin qua : Bỏnh trụi nc v Chuyn ngi con gỏi Nam Xng.
b. Cm nhn v ngi ph n qua 2 tỏc phm :
* H l nhng ngi ph n p cú phm cht trong sỏng, giu c hnh :
- Cụ gỏi trong Bỏnh trụi nc : c miờu t vi nhng nột p hỡnh hi tht chõn thc,
trong sỏng : Thõn em va trng li va trũn. Miờu t bỏnh trụi nc nhng li dựng t
thõn em - cỏch núi tõm s ca ngi ph n quen thuc kiu ca dao : thõn em nh tm la
o khin ngi ta liờn tng n hỡnh nh nc da trng v tm thõn trũn y n, kho
mnh ca ngi thiu n ang tui dy thỡ mn mn sc sng. Cụ gỏi y dự tri qua bao
thng trm by ni ba chỡm vn gi tm lũng son. S son st hay tm lũng trong sỏng
khụng b vn c cuc i ó khin cụ gỏi khụng ch p v bờn ngoi m cũn quyn r
hn nh phm cht ca tm lũng son luụn to rng.
- Nhõn vt V Nng trong Chuyn ngỡ con gỏi nam Xng : mang nhng nột p
truyn thng ca ngi ph n Vit Nam.
+ Trong cuc sng v chng nng luụn gi gỡn khuụn phộp, khụng tng lỳc no v
chng phi n tht ho". Nng luụn l ngi v thu chung yờu chng tha thit, nhng
ngy xa chng ni nh c di theo nm thỏng : "mi khi thy bm ln y vn, mõy
che kớn nỳi" nng li õm thm nh chng.
19
Trêng THCS LËp Th¹ch GV: Lª ThÞ Ph¬ng HuÖ
+ Lòng hiếu thảo của Vũ Nương khiến mẹ chồng cảm động, những ngày bà ốm đau, nàng
hết lòng thuốc thang chăm sóc nên khi trăng trối mẹ chồng nàng đã nói : "Sau này, trời xét
lòng lành, […], xanh kia quyết chẳng phụ con". Khi mẹ chồng khuất núi, nàng lo ma chay
chu tất, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình.
+ Nàng là người trọng danh dự, nhân phẩm : khi bị chồng vu oan, nàng một mực tìm lời lẽ
phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Khi không làm dịu được lòng ghen tuông mù
quáng của chồng, nàng chỉ còn biết thất vọng đau đớn, đành tìm đến cái chết với lời
nguyền thể hiện sự thuỷ chung trong trắng. Đến khi sống dưới thuỷ cung nàng vẫn luôn
nhớ về chồng con, muốn được rửa mối oan nhục của mình.
* Họ là những người chịu nhiều oan khuất và bất hạnh, không được xã hội coi trọng :

- Người phụ nữ trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương đã bị xã hội xô đẩy,
sống cuộc sống không được tôn trọng và bản thân mình không được tự quyết định hạnh
phúc :
"Bảy nổi ba chìm với nước non,
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn"
- Vũ Nương bị chồng nghi oan, cuộc sống của nàng ngay từ khi mới kết hôn đã không
được bình đẳng vì nàng là con nhà nghèo, lấy chồng giầu có. Sự cách biệt ấy đã cộng thêm
một cái thế cho Trương Sinh, bên cạnh cái thế của người chồng, người đàn ông trong chế
độ gia trưởng phong kiến. Hơn nữa Trương Sinh là người có tính đa nghi, đối với vợ phòng
ngừa quá sức, lại thêm tâm trạng của chàng khi trở về không vui vì mẹ mất. Lời nói của
đứa trẻ ngây thơ như đổ thêm dầu vào lửa làm thổi bùng ngọn lửa ghen tuông trong con
người vốn đa nghi đó, chàng "đinh ninh là vợ hư". Cách xử sự hồ đồ độc đoán của Trương
Sinh đã dẫn đến cái chết thảm khốc của Vũ Nương, một sự bức tử mà kẻ bức tử lại hoàn
toàn vô can.
Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến chỉ xem trọng quyền uy của kẻ
giàu và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả
đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ đức hạnh ở đây không được
bênh vực, che chở mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lí ; chỉ vì lời nói ngây thơ
của đứa trẻ miệng còn hơi sữa và vì sự hồ đồ vũ phu của anh chồng ghen tuông mà đến nỗi
phải kết liễu cuộc đời mình.
c. Đánh giá chung : Số phận người phụ nữ trong xã hội xưa bị khinh rẻ và không được
quyền định đoạt hạnh phúc của mình, các tác giả lên tiếng phản đối, tố cáo xã hội nhằm
bênh vực cho người phụ nữ. Đó là một chủ đề manh tính nhân văn cao cả của văn học
đương thời.
……………………………………………………………………………………………………………………………….
20
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
Chuyên đề 4: luyện tập viết văn thuyết minh
( Dạy tuần 7)
1. Các vấn đề lí thuyết:

- Khái niệm: Văn thuyết minh là kiểu bài viết nhằm cung câp những tri thức chính
xác, khoa học, đâyd đủ về một đối tọng nào đó.
- Các phơng pháp thuyết minh: Nêu định nghĩa, sử dụng con số, so sánh đối chiếu,
phân tích phân loại
- Bố cục của bài: 3 phần:
+ Mở bài: Nêu đối tợng thuyết minh
+ Thân bài: Lần lợt thuyết minh về những đặc điểm của đối tợng.
+ Kết bài: Nêu suy nghĩ về đối tợng hoặc cảm xúc của ngời viết về đối tợng.
- Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh:
Muốn cho văn bản thuyế minh đợc sinh động, hấp dẫn ngời đọc, ta có thể vân dụng một
số biện pháp nghệ thuật nh kể chuyện, tự thuật, đối thoại theo lối ẩn dun, nhân hoá hoặc
các hình thức hò, vè
Các biện pháp nghệ thuật cần đợc sử dụng phù hợp, góp phând làm nổi bật đợc đặc
điểm của đối tợng thuyết minh và gây hứng thú cho ngời đọc.
- Sử dụng yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh:
Để thuyết minh cho cụ thể, sinh động, hấp dẫn, bài thuyết minh có thể kết hợp sử dụng
yếu tố miêu tả. Yếu tố miêu tả có tác dụng làm cho bài thuyết minh đợc nổi bật, gây ấn
tợng.
2. Luyện tập:
Đề số 1:
Giới thiệu về khu di tích lịch sử của dân tộc.
Hớng dẫn:
VD: Khu di tích Đền Hùng:
- Khu di tích Đền Hùng thuộc núi Nghĩa Lĩnh nay thuộc xã Hi cơng, huện Lâm Thao ,
tỉnh Phú Thọ., cách Hà Nội 94 km về phía Bắc.
- Nơi đay xa lad Quốc đo của nhà nứoc Văn Lang, dới quyền trị vì của 18 đời vua
Hùng.
- Khu di tích gồm: đền Thợng, đeenf Trung, đền Hạ, lăng vua hùng thứ 6, đền Giếng.
- Hội Đền Hùng đợc tổ choc vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch. Lễ hội Đền Hùng ngày nay
đợc coi là Quốc giỗ.

( HS căn cứ vào các tri thức để làm bài.)
Đề số 2:
Thuyết minh về một loài hoa mà em yêu thích.
HD:
- HS xác định yêu cầu của đề bài.
- Lập dàn ý.
- Viết bài.
Gợi ý nội dung cần thuyết minh:
- Giới thiệu đặc điểm của loài hoa: a vùng khí hậu nào? đặc điểm cấu tạo của thân, rễ,
cành , lá, hoa
- Giới thiệu về những công dụng của loài hoa: để trang trí, để là thuốc, chế biến những
21
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
món ăn dôn tộc
- Cách chăm sóc, bảo quản.
Đề số 3:
Giới thiệu về Tác giả , Tác phẩm của Chuyện ngời con gái Nam Xơng?
HD:
- Giới thiệu về tác giả: Tên? thời gian sống? Cuộc đồi và sự nghiệp sáng tác?
- Giới thiệu về Tác phẩm: Xuất xứ ? thể loại? Tóm tắt nội dung cơ bản? Đánh giá khái
quát về giá trị nội dung, nghệ thuật?
( HS vận dụng kiến thức đã có để làm bài)

Chuyên đề 5: truyện kiều
( Dạy tuần 8+9)
Bài 1: chị em thuý kiều
(Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
I - Gợi ý
1. Tác giả:
- Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ là Tố Nh, hiệu là Thanh Hiên; quê làng Tiên Điền,

huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; sinh trởng trong một gia đình đại quí tộc, nhiều đời làm
quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể t-
ớng, anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dới triều Lê - Trịnh.
Nguyễn Du sống trong một thời đại có nhiều biến động: cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế
kỉ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, bão táp phong trào nông dân
khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập đoàn phong kiến
Lê, Trịnh, Nguyễn, quét sạch hai mơi vạn quân Thanh, rồi phong trào Tây Sơn thất bại, nhà
Nguyễn đợc thiết lập. Những biến cố đó đã in dấu ấn trong sáng tác của Nguyễn Du, nh
chính trong Truyện Kiều ông viết: Trải qua một cuộc bể dâu - Những điều trông thấy mà đau
đớn lòng.
Nguyễn Du từng trải một cuộc đời phiêu bạt: sống nhiều nơi trên đất Bắc, ở ẩn ở Hà
Tĩnh, làm quan dới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc. Vốn hiểu biết sâu rộng, phong phú về
cuộc sống của Nguyễn Du có phần do chính cuộc đời phiêu bạt, trải nghiệm nhiều tạo
thành.
2. Tác phẩm:
- Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn, cả bằng chữ
Hán và chữ Nôm. Thơ chữ Hán có ba tập, gồm 243 bài. Thơ chữ Nôm, xuất sắc nhất là
cuốn truyện Đoạn trờng tân thanh, còn gọi là Truyện Kiều.
- "Có thể tìm thấy một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du từ thơ
chữ Hán đến Truyện Kiều, Văn chiêu hồn. Nguyễn Du vĩ đại chính vì Nguyễn Du là một
nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa. Mặc dù xuất thân từ giai tầng quý tộc, nhng Nguyễn Du lăn
lộn nhiều trong cuộc sống của quần chúng, đã lắng nghe đợc tâm hồn và nguyện vọng của
quần chúng, nhà thơ đã ý thức đợc những vấn đề trọng đại của cuộc đời và, với một nghệ
22
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
thuật tuyệt vời, ông đã làm cho những vấn đề trọng đại ấy trở thành bức thiết hơn, da diết
hơn, ám ảnh hơn trong tác phẩm của mình. Thơ Nguyễn Du dù viết bằng chữ Nôm hay chữ
Hán đều đạt đến trình độ điêu luyện. Riêng những tác phẩm viết bằng chữ Nôm của ông,
đặc biệt là Truyện Kiều là một cống hiến to lớn của nhà thơ đối với sự phát triển của ngôn
ngữ văn học dân tộc. Về phơng pháp sáng tác, qua Truyện Kiều, chúng ta thấy Nguyễn Du

đã phá vỡ rất nhiều nguyên tắc của mĩ học truyền thống, những yếu tố ớc lệ tởng tợng của
nghệ thuật phong kiến phơng Đông để đi đến chủ nghĩa hiện thực. Nhng do những giới hạn
về mặt lịch sử, cho nên mặc dù Nguyễn Du là một thiên tài vẫn không thể phá vỡ đợc triệt
để, vẫn cha thể thực sự đến đợc với chủ nghĩa hiện thực. Cuối cùng, Nguyễn Du vẫn là một
nhà thơ dừng lại trớc ngỡng cửa của chủ nghĩa hiện thực. (Nguyễn Lộc - Từ điển văn học,
NXB Thế giới, 2005).
- Khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mợn cốt truyện từ một cuốn tiểu thuyết (Kim
Vân Kiều truyện) của Thanh Tâm Tài Nhân, một nhà văn Trung Quốc. Khi sáng tác,
Nguyễn Du đã thay đổi, bổ sung nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với hoàn cảnh
xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Tác phẩm đợc viết lại bằng chữ Nôm, gồm 3524 câu, theo thể thơ lục bát truyền thống.
Ngoài các yếu tố nh ngôn ngữ, thể loại (vốn đã là những sáng tạo đặc sắc, đóng góp lớn của
Nguyễn Du vào quá trình phát triển ngôn ngữ dân tộc), tác phẩm còn thể hiện rất rõ hiện
thực cuộc sống đơng thời, đằng sau đó là "con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới
muôn đời" của nhà văn.
Có thể tóm tắt Truyện Kiều theo bố cục ba phần:
- Gặp gỡ và đính ớc: Kiều xuất thân nh thế nào? Có đặc điểm gì về tài sắc? Kiều gặp
Kim Trọng trong hoàn cảnh nào? Mối tình giữa Kiều và Kim Trọng đã nảy nở ra sao? Họ
kiếm lí do gì để gần đợc nhau? Kiều và Kim Trọng đính ớc.
- Gia biến và lu lạc: Gia đình Kiều bị mắc oan ra sao? Kiều phải làm gì để cứu cha?
Làm gì để không phụ tình Kim Trọng? Kiều bị bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa
gạt, đẩy vào cuộc sống lầu xanh; Kiều đợc Thúc Sinh cứu ra khỏi lầu xanh; Kiều trở thành
nạn nhân của sự ghen tuông, bị Hoạn Th đày đoạ; Kiều trốn đến nơng nhờ cửa Phật, Giác
Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà - Kiều rơi vào lầu xanh lần thứ ha i; Thuý Kiều đã gặp
Từ Hải nh thế nào? Tại sao Từ Hải bị giết? Kiều bị Hồ Tôn Hiến làm nhục ra sao? Kiều
trẫm mình xuống sông Tiền Đờng, đợc s Giác Duyên cứu.
-Đoàn tụ: Kim Trọng trở lại tìm Kiều nh thế nào? Tuy kết duyên cùng Thuý Vân nhng
Kim Trọng chẳng thể nguôi đợc mối tình với Kiều; Kim Trọng lặn lội đi tìm Kiều, gặp Giác
Duyên, gặp lại Kiều, gia đình đoàn tụ; Chiều ý mọi ngời, Thuý Kiều nối lại duyên với Kim
Trọng nhng cả hai cùng nguyện ớc điều gì?

Đoạn trích Chị em Thuý Kiều nằm ở phần mở đầu tác phẩm.
Đoạn thơ này miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân. Với ngòi bút tài
hoa, khả năng vận dụng khéo léo ngôn ngữ dân tộc kết hợp với các điển tích, điển cố, có thể
nói Nguyễn Du đã giúp bạn đọc hình dung đợc những chuẩn mực về vẻ đẹp của ngời phụ
nữ trong xã hội xa, đó cũng có thể coi là chuẩn mực của cái đẹp trong của văn học trung
đại.
Không chỉ miêu tả những hình mẫu, chân dung Thuý Kiều và Thuý Vân trong tác phẩm
còn thể hiện những dụng ý nghệ thuật sâu xa của tác giả. Mặc dù "Mỗi ngời một vẻ, mời
phân vẹn mời" nhng với mỗi nhân vật, sự miêu tả của Nguyễn Du dờng nh đã dự báo những
số phận khác nhau của hai chị em. Điều đó vừa thể hiện bút pháp miêu tả nhân vật khá sắc
sảo của Nguyễn Du nhng đồng thời cũng cho thấy quan niệm "tài mệnh tơng đố" của ông.
II- Giá trị tác phẩm
Khi nói đến tác giả của Truyện Kiều, không chỉ nhân dân lao động mà tất cả các nhà văn,
nhà nghiên cứu đều thống nhất tên gọi: "Đại thi hào dân tộc". Với "con mắt trông thấu sáu
cõi và tấm lòng nghĩ tới muôn đời" (Mộng Liên Đờng), Nguyễn Du nổi tiếng trớc hết bởi cái
tâm của một ngời luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực cho những cuộc đời, những số phận
éo le, oan trái, đặc biệt là thân phận ngời phụ nữ trong xã hội cũ. Mặt khác, những câu thơ
của Nguyễn Du sở dĩ có thể khắc sâu trong lòng nhân dân nh vậy còn bởi trong Truyện Kiều,
ông đã bộc lộ sự tài hoa, sắc sảo trong việc miêu tả nhân vật, trong việc khắc hoạ những nét
23
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
tâm lí nhất quán đến từng chi tiết Trong phần mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả hai chị em
Thuý Kiều, Thuý Vân có thể coi là một ví dụ tiêu biểu.
Trong những câu miêu tả khái quát, vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều đã có thể xếp vào
hàng "tuyệt thế giai nhân":
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi ngời một vẻ, mời phân vẹn mời.
Chỉ trong một câu thơ sáu chữ, tác giả đã khẳng định đợc một vẻ đẹp toàn bích, từ nhan
sắc cho đến tính tình của cả hai chị em. Điều kì diệu là cả hai vẻ đẹp đều hoàn thiện ("mời
phân vẹn mời") nhng "Mỗi ngời một vẻ", không ai giống ai.

Đọc những câu thơ tiếp theo, ta càng có thể khẳng định tài năng của Nguyễn Du trong
việc miêu tả nhân vật. Không chỉ phân biệt đợc "Mỗi ngời mỗi vẻ", tác giả còn chỉ ra sự
khác nhau đó đợc biểu hiện cụ thể nh thế nào. Mặt khác, Nguyễn Du tả nhan sắc nhng dờng
nh mục đích của tác giả không dừng lại ở đó. Càng tả càng gợi. Qua những câu thơ của
Nguyễn Du, ngời đọc luôn cảm nhận đợc những suy nghĩ trăn trở của nhà thơ về cuộc đời,
về thân phận ngời phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy dẫy những cạm bẫy:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cời, ngọc thốt, đoan trang
Mây thua nớc tóc, tuyết nhờng màu da.
Trong phần tả khái quát, vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều đã đợc miêu tả rất toàn vẹn, tởng
khó có thể ca ngợi hơn nữa. Trong bốn câu này, ba câu trên là lời khẳng định vẻ đẹp "mời
phận vẹn mời" kia. Thế nhng câu thơ thứ t thật sự khiến bạn đọc bất ngờ bởi khả năng sử
dụng ngôn ngữ của nhà thơ. Tả một ngời con gái đẹp mà "Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở
nang" là đã đạt đến chuẩn mực, thêm "Hoa cời, ngọc thốt, đoan trang" thì nghe chẳng khác
gì những tiếng trầm trồ của một ngời đang đợc chiêm ngỡng một vẻ đẹp cha từng có. Thế
mà vẫn cha hết, ngời con gái ấy còn đẹp đến mức "Mây thua nớc tóc, tuyết nhờng màu da"
thì vẻ đẹp ấy còn vợt lên trên cả vẻ đẹp của thiên nhiên. Đó là một sự khác thờng bởi nếu
chúng ta đọc lại thơ ca trung đại, thậm chí đọc cả ca dao dân ca, vẻ đẹp của con ngời cùng
lắm cũng chỉ sánh ngàng với vẻ đẹp của thiên nhiên mà thôi:
Cổ tay em trắng nh ngà
Đôi mắt em sắc nh là dao cau
Miệng cời nh thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu nh thể hoa sen
Rõ ràng là Thuý Vân rất đẹp, một vẻ đẹp khá sắc nét nhng vẫn hồn hậu, thuỳ mị. Giả sử
đợc ngắm một ngời con gái nh vậy, ngời ta thờng nghĩ đến hạnh phúc, đến một cuộc sống
ấm áp, êm đềm.
Đọc đoạn miêu tả Thuý Vân, ta đã có thể thấy đợc cái tài, cái khéo của Nguyễn Du
trong việc sử dụng từ ngữ. Thế nhng việc miêu tả Thuý Vân mới chỉ là bớc đệm để tác giả
miêu tả Thuý Kiều. Một lần nữa, tác giả lại khiến bạn đọc phải sửng sốt vì năng lực miêu tả

của mình:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Các giá trị thẩm mĩ tởng nh đã đợc đẩy lên đến tận cùng của các giới hạn nhng rồi lại
còn đợc đẩy lên cao thêm nữa:
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Hội hoạ cổ điển phơng Đông có những bút pháp khá độc đáo: "lấy điểm để tả diện",
"vẽ mây nẩy trăng", ý là khi muốn tả một ngời con gái đẹp, không cần tả mọi đờng nét,
chỉ chọn những nét tiêu biểu nhất, hay nh khi muốn tả một vầng trăng sáng có thể không
cần tả vầng trăng, chỉ cần tả đám mây xung quanh mà ngời xem biết ngay đó là trăng rất
sáng. Nguyễn Du đã tả Thuý Kiều qua "Làn thu thuỷ, nét xuân sơn" những yếu tố nghệ
24
Trờng THCS Lập Thạch GV: Lê Thị Phơng Huệ
thuật đầy tính ớc lệ, thật khó hình dung nàng Kiều đẹp nh thế nào nhng ai cũng phải thừa
nhận, tả nh thế là tuyệt khéo. Lại thêm "Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh" không
cần nói nhan sắc của Kiều ra sao, chỉ cần nói hoa còn phải ghen, liễu còn phải hờn với
nhan sắc của Kiều thì tởng nh với nhan sắc ấy, không lời nào có thể diễn tả nổi nữa.
Tuy nhiên, nếu đọc kĩ lại từng câu, từng lời, ta sẽ thấy dờng nh trong vẻ đẹp của Kiều
đã ẩn chứa những mầm tai hoạ. Nếu nh với vẻ đẹp của Thuý Vân, "Mây thua nớc tóc, tuyết
nhờng màu da", sự "thua" và "nhờng" còn rất hiền hoà thì với vẻ đẹp của Thuý Kiều, hoa đã
phải "ghen" (tức), liễu đã phải "hờn" (giận). Có thể nói, vẻ đẹp của Thuý Vân tuy có phần
trội hơn nhng cha tạo ra sự đố kị, trong khi đó vẻ đẹp của Thuý Kiều đã vợt hẳn lên, ngạo
nghễ thách thức với thiên nhiên, vợt ra khỏi vòng kiềm toả của tạo hoá.
Không chỉ nhan sắc, tài năng của Kiều cũng hàm chứa một sự thách thức:
Một hai nghiêng nớc nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
Những từ ngữ đầy tính ớc lệ (làn thu thuỷ, nét xuân sơn, nghiêng nớc nghiêng thành)
xuất hiện với mật độ cao càng chứng tỏ tài năng của Nguyễn Du trong việc sử dụng từ ngữ.
Một lần nữa, vẻ đẹp của nàng Kiều lại đợc khẳng định dù sự khẳng định ấy càng tô đậm

thêm sự "bất an" của nhan sắc. Vậy mà sự thách thức của nhan sắc vẫn cha phải là yếu tố
duy nhất, tài năng của Kiều còn là một sự thách thức khác nữa:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thơng, lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trơng.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ cho rằng nhan sắc là một cái hoạ tiềm ẩn đối
với ngời phụ nữ ("hồng nhan bạc mệnh") mà còn nhiều lần nhấn mạnh: tài năng cũng là
một cái hoạ khác:
- Trăm năm trong cõi ngời ta
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
- Chữ tài liền với chữ tai một vần.

Tài tình chi lắm cho trời đất ghen
Thuý Kiều vừa có tài lại vừa có sắc, hơn nữa, cả hai yếu tố đều nổi bật đến mức cây cỏ
còn phải ghen tức, oán giận Xét trên nhiều yếu tố, có thể nói qua cách miêu tả, Nguyễn
Du đã ngầm báo trớc những điều không may sẽ xảy đến với ngời con gái này. Hãy nghe
tiếng đàn của Kiều, đó không phải là những âm thanh nhàn tản, thảnh thơi:
Khúc nhà tay lựa nên chơng
Một thiên "bạc mệnh" lại càng não nhân.
Có thể cho là Kiều chỉ vô tình, nhng bài nhạc mà nàng đã lựa chọn, đã thể hiện nó trong
tiếng đàn sầu não kia cho thấy rằng, đó là một ngời con gái rất đa sầu đa cảm. Theo quan
niệm từ xa xa, đây cũng là một yếu tố tạo nên số phận đau khổ của con ngời. Những sự biến
sau này của cuộc đời Kiều (gặp Đạm Tiên, phải bán mình chuộc cha, gặp Thúc Sinh, gặp Từ
Hải, ) đều chứng tỏ sự miêu tả của Nguyễn Du về Thuý Kiều là hoàn toàn có ngụ ý.
Đoạn cuối nh lời vĩ thanh, Nguyễn Du để cho lời thơ buông trôi, nhấn mạnh phẩm chất
gia giáo của Thuý Kiều.
Đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du dành đến 24 câu thơ, trong đó
có bốn câu tả khái quát, bốn câu tả Thuý Vân, còn đến 16 câu chỉ để nói về Thuý Kiều. Có
thể chúng ta cha hiểu hết quan niệm về nhân sinh, nhất là về ngời phụ nữ của ông, có thể

còn nhiều vấn đề xung quanh t tởng "tài mệnh tơng đố" cần tiếp tục xem xét nhng qua 24
câu thơ, Nguyễn Du không chỉ chứng tỏ một tài năng bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ mà còn
cho thấy những nét rất đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả con ngời.
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×