Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Phương pháp phân tích và đo lường rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.86 KB, 60 trang )

Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH VÀ ĐO LƯỜNG RỦI RO TRÊN
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH VÀ ĐO LƯỜNG RỦI RO TRÊN


THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN VIỆT NAM
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN VIỆT NAM
PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN
PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái quát về thị trường chứng khốn Việt Nam:
1.1. Quá trình ra đời:
Đối với một nền kinh tế thị trường thì sự tồn tại của một thị trường chứng
khốn (TTCK) là không thể thiếu được bởi nó không chỉ là một kênh huy động vốn
trung và dài hạn mà còn là một công cụ đắc lực cho chính sách điều hành nền kinh
tế của nhà nước. Hơn nữa, Việt Nam còn trong những bước đi đầu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kế hoạch hội nhập vào khu vực và thế giới nên
việc thành lập một TTCK là không thể thiếu. Do đó vào những năm đầu của thập
niên 90 của thế kỷ XX, các mục tiêu xây dựng và phát triển TTCK đã được Đảng
và Chính phủ đề ra với sự phối hợp của nhiều cơ quan Nhà nước, các cơ quan
nghiên cứu… Ngày 06/11/1993, Ban nghiên cứu xây dựng thị trường vốn thuộc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời theo quyết định số 207/QĐ-TCCB của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nhằm xây dựng các đề án, mô hình, đào tạo cán
bộ, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước phát triển để tiến tới hình thành TTCK
Việt Nam (TTCKVN). Tháng 09/1994, Chính phủ quyết định thành lập Ban soạn
thảo pháp lệnh về chứng khốn và thị trường chứng khốn nhằm tiếp tục phối hợp
nghiên cứu với Ban nghiên cứu xây dựng thị trường vốn. Ngày 29/06/1995, theo
quyết định số 361/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK
ra đời nhằm chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự hoạt động của TTCKVN như
các văn bản pháp luật về chứng khốn, thành lập Ủy ban chứng khốn nhà nước,
chuẩn bị đội ngũ cán bộ, nghiên cứu hợp tác với các nước đi trước để học tập kinh
nghiệm. Với một sự chuẩn bị kỹ càng của Nhà nước cũng như các tổ chức, ngày


20/07/2000, Thị trường Chứng khốn Việt Nam chính thức ra đời với phiên giao
dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000.

1.2. Các chủ thể trên TTCKVN:
1.2.1. Chủ thể phát hành:
• Chính phủ: phát hành các loại tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, công trái xây
dựng tổ quốc và trái phiếu đầu tư do Quỹ hỗ trợ đầu tư phát hành nhằm huy động
nguồn vốn trung hoặc dài hạn nhằm phục vụ cho các dự án đầu tư lớn mang tính
chất quốc gia như trái phiếu giáo dục… Từ năm 2001-2002, vay bằng trái phiếu
chiếm 53% tổng nguồn bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước, đặc biệt cuối năm
2002 trái phiếu kỳ hạn trên 5 năm chiếm 40% tổng dư nợ. Đến ngày 31/12/2003,
thị trường có 11464.338 tỷ đồng trái phiếu được niêm yết trên TTGDCK TP.HCM,
trong đó có 11306.633 tỷ đồng trái phiếu chính phủ và 157.705 tỷ đồng trái phiếu
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển.
• Công ty cổ phần: phát hành các loại cổ phiếu hay trái phiếu công ty nhằm huy động
nguồn vốn dài hạn nhằm cung cấp nguồn vốn cho các dự án đầu tư, xây dựng nhà
xưởng, mua sắm máy móc thiết bị nâng cao năng lực sản xuất trong phạm vi của
công ty cổ phần.
1.2.2. Nhà đầu tư:
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 1
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Bất cứ một cá nhân có tư cách pháp lý hay tổ chức có đủ tư cách pháp nhân
theo quy định của pháp luật và tham gia trao đổi mua bán, giao dịch trên
TTCKVN đều là những nhà đầu tư-chủ thể của TTCKVN.
1.2.3. Ủy ban chứng khốn Nhà nước:
Ủy ban chứng khốn Nhà nước (UBCKNN) được thành lập vào ngày
28/11/1996 có chức năng tổ chức và quản lý nhà nước về chứng khốn và TTCK. Sự
ra đời của UBCKNN có ý nghĩa quan trọng cho sự ra đời của TTCK ở Việt Nam
vào ngày 20/07/2000. Với vị thế này thì UBCKNN giữ vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ chức, an tồn, công khai, hiệu quả.

1.2.4. Hiệp hội kinh doanh chứng khốn:
Hiệp hội kinh doanh chứng khốn (HHKDCK) là một tổ chức xã hội bao
gồm các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và cung cấp các dịch vụ trong lĩnh
vực chứng khốn và TTCK, chủ yếu mang tính chất liên kết và hỗ trợ về mặt nghiệp
vụ kinh doanh chứng khốn. Việc ra đời của Hiệp hội sẽ tạo ra cơ hội thuận lợi cho
các công ty chứng khốn, các nhà đầu tư trong và ngồi nước cập nhật, bồi dưỡng
kiến thức, chuyển giao công nghệ mới, góp phần định hướng thị trường và quản lý,
vận hành các định chế trung gian trên TTCK. Thấy được sự cần thiết này, ngày
11/06/2003, HHKDCK Việt Nam chính thức được phép thành lập theo quyết định
số 29/2003/QĐBNV của Bộ trưởng Bộ nội vụ. HHKDCK Việt Nam tổ chức hoạt
động theo Điều lệ Hiệp hội được Bộ trưởng Bộ nội vụ phê duyệt và chịu sự quản lý
của Nhà nước trong hoạt động chứng khốn.
1.2.5. Sở giao dịch chứng khốn và Trung tâm giao dịch chứng khốn:
Sở giao dịch chứng khốn (SGDCK) là một thị trường giao dịch tập trung,
mọi lệnh mua bán được phát ra bất cứ ở đâu đều tập trung về một địa điểm giao
dịch cụ thể, thông qua người môi giới. Theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày
28/11/2003 quy định: “Thị trường giao dịch tập trung được tổ chức dưới hình thức
Trung tâm giao dịch Chứng khốn hoặc SGDCK do Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập” (Điều 60). Nhiệm vụ chính của TTGDCK và SGDCK có chức năng
duy trì sự hoạt động của TTCK một cách liên tục, công bằng, công khai và dự báo
nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.

2. Tổng quan về Lý thuyết CAPM và APT:
2.1. Lý thuyết CAPM:
2.1.1. Sơ lược về quá trình ra đời:
• Mô hình định giá tài sản vốn_CAPM (Capital Asset Pricing Model) được
coi là được coi là nguồn gốc của tất cả lý thuyết tài chính kinh tế hiện đại. Những
lý luận cơ bản của lý thuyết CAPM lần đầu ra đời vào năm 1952 thông qua một
bài tham luận “Chọn lựa danh mục đầu tư” về phương pháp tạo ra đường biên
hiệu quả cho một danh mục đầu tư, đó là những lý luận cơ bản và được mọi

người biết dưới cái tên Lý thuyết danh mục thị trường. Sự ra đời của những lý
thuyết này đã làm thay đổi hồn tồn các đánh giá trước đây của các nhà đầu tư về
chứng khốn. Từ năm 1963 -1964, lý thuyết tiếp tục được phát triển bởi William
Sharpe sau khi ông đã đồng ý đề nghị nghiên cứu Lý thuyết danh mục thị trường
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 2
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
như là một luận đề của Harry Markowitz. Bằng cách thiết lập mối quan hệ giữa
một danh mục đầu tư với những rủi ro riêng của từng chứng khốn, Sharpe đã
thành công trong việc đơn giản hố những nghiên cứu của Markowitz, do đó bất
cứ một nhà đầu tư chuyên nghiệp hay không chuyên nào đều có thể áp dụng được
Lý thuyết danh mục đầu tư. Từ những nghiên cứu này, Sharpe đã tiếp tục hồn
thiện lý luận trên và hình thành nên lý thuyết CAPM. Hiện nay, lý thuyết này
được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống để đo lường hiệu quả của danh mục đầu
tư, đánh giá từng loại chứng khốn, thực hiện các quyết định đầu tư…
• Năm 1990, Sharpe, Markowitz và Merton Miller đã nhận được giải Nobel
kinh tế của hội đồng giải Nobel khoa học do những đóng góp tích cực trong việc
phát triển Lý thuyết CAPM và cho việc phát triển nền kinh tế hiện đại.
2.1.2. Các giả định của mô hình CAPM:
• Các nhà đầu tư là những cá nhân không ưa thích rủi ro nhưng luôn muốn tối
đa hố lợi ích mong đợi. Tức là các nhà đầu tư thích lựa chọn chứng khốn có tỷ
suất sinh lợi cao tương ứng với rủi ro cho trước hoặc rủi ro thấp nhất với tỷ suất
sinh lợi cho trước.
• Nhà đầu tư luôn có cùng suy nghĩ về tỷ suất sinh lợi kỳ vọng, phương sai,
hiệp phương sai. Nghĩa là tất cả các nhà đầu tư đều có kỳ vọng thuần nhất trong
một tập hợp các cơ hội và có cùng thông tin về thị trường vào cùng thời điểm.
• Lợi nhuận đạt được phân phối theo phương thức phân phối thông thường.
• Luôn luôn có một sự tồn tại các tài sản phi rủi ro và các nhà đầu tư có thể
cho vay hay vay một số lượng không giới hạn các tài sản trên với một tỷ lệ cố
định không đổi theo thời gian (lãi suất phi rủi ro).
• Luôn có một sự cố định những loại tài sản và số lượng của chúng trong một

kỳ nghiên cứu đủ lớn.
• Tất cả tài sản đều có thể phân chia hoặc đo lường một cách chính xác trong
một thời điểm so sánh tốt nhất.
• Tỷ lệ vay trong thị trường cũng giống như tỷ lệ cho vay nghĩa là mọi nhà
đầu tư đều có cơ hội lãi suất như nhau trong việc vay hay cho vay.
• Các nhân tố làm thị trường trở nên bất hồn hảo không tồn tại như thuế, luật
chi phí môi giới hay bất cứ một sự ngăn cấm nào.
2.1.3. Đánh giá tỷ suất sinh lợi, phương sai và độ lệch chuẩn của các
Công ty Chứng khốn
Nguồn gốc của lý thuyết CAPM bắt nguồn từ sự tổng hợp mà trong đó tất cả
các tài sản tuân theo quy luật phân phối giản đơn. Sự phân phối được miêu tả bởi 2
thước đo là tỷ suất sinh lợi (µ) và phương sai (σ
2
) hay độ lệch chuẩn (σ).
Tỷ suất sinh lợi của một danh mục đầu tư là bình quân gia quyền của tỷ suất
sinh lợi mỗi tài sản trong danh mục đầu tư. Điều này có nghĩa là tỷ suất sinh lợi
mong đợi của danh mục đầu tư là bình quân gia quyền từ mỗi tài sản trong danh
mục. Tỷ suất sinh lợi mong đợi của tài sản X được định nghĩa trong công thức (1)
như sau:


(1)
Với : p
i
là xác xuất xảy ra của tỷ suất sinh lợi X
i
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 3
[ ]

==

N
i=
iiX
XpXEμ
1
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Đối với thị trường chứng khốn Việt Nam thì tỷ suất sinh lợi chứng khốn X
qua mỗi phiên giao dịch được tính theo công thức sau:

1
1


+−
=
i
tii
i
P
CPP
X
(2)
Trong đó:
P
i
: Giá của chứng khốn tại phiên giao dịch i
P
i-1
: Giá của chứng khốn tại phiên giao dịch i-1
C

t
: Lưu lượng tiền mặt nhận được của chứng khốn từ phiên giao
dịch (i-1) đến phiên giao dịch i. Tuy nhiên ở TTCKVN mỗi phiên giao dịch chỉ
cách nhau từ 1-2 ngày nên lưu lượng tiền mặt nhận được qua mỗi phiên giao dịch
là rất nhỏ nên hầu như không ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của phiên giao dịch
sau so với phiên giao dịch trước.
Tương tự phương sai (σ
2
) hoặc độ lệch chuẩn (σ) còn gọi là rủi ro tổng thể
của danh mục đầu tư là một tiêu chuẩn nhằm đo lường sự phân tán tỷ suất sinh lợi
của các tài sản. Phương sai của tài sản X được định nghĩa như sau:

∑∑
==


=−=
−===
N
i
i
N
i
ii
iX
XEX
N
XEXp
XEXEXXCOVXVAR
1

22
1
22
])[(
1
1
])[(
]])[[(],[][
σ


Và độ lệch chuẩn của tài sản X được định nghĩa như sau:
∑∑
==


=−==
N
i
i
N
i
iiXX
XEX
N
XEXp
1
22
1
2

])[(
1
1
)][(
σσ
Trong tất cả những công thức của lý thuyết CAPM thì tất cả những gì mà
nhà đầu tư than phiền là những giá trị của phương pháp phân phối thông thường.
Trong thực tế, lợi nhuận không được phân phối một cách thông thường, do đó các
nhà đầu tư có thể tìm một tiêu chuẩn khác để xác định tỷ suất sinh lợi và phương
sai nhằm đơn giản hố trong việc tính tốn.
Bây giờ ta giả sử danh mục thị trường gồm 2 chứng khốn X và Y thì hiệp
phương sai và hệ số tương quan của 2 tài sản X và Y là như sau:
(3)

YX
XY
YXCOV
YVARXVAR
YXCOV
r
σσ
*
],[
][*][
],[
==

Trong đó N là tổng số các sự kiện hoặc là tổng số kỳ tính tốn
Để có thể tính tốn được độ biến thiên của danh mục gồm 2 tài sản X, Y ta
cần phải xác định ma trận tương quan biến thiên giữa 2 loại tài sản như sau:

Tài sản X Y
X σ
2
X
COV(Y,X)
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 4
])][])([[(],[ YEYXEXEYXCOV
−−=




=
=
−−

=
−−=
N
i
ii
i
N
i
ii
YEYXEX
N
YEYXEXp
1
1

])[])([(
1
1
])[(])[(
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Y COV(X,Y) σ
2
Y
Mỗi yếu tố trong ma trận cho chúng ta tương quan giữa lợi nhuận của cổ
phiếu ở cột và lợi nhuận của cổ phiếu ở trên dòng.
Trên thị trường chứng khốn không ai lại đi đầu tư hết số vốn của mình vào
một cổ phiếu mà thường phân tán rủi ro bằng cách đầu tư vào nhiều loại cổ phiếu
khác nhau vào trong một danh mục đầu tư nhằm phân tán rủi ro. Phần dưới đây sẽ
chứng minh tại sao phải thiết lập một danh mục đầu tư.
• Đa dạng hóa danh mục làm giảm thiểu rủi ro:
Tỷ suất sinh lợi và phương sai có các tính chất sau:
+ Tính chất 1: E[X + c] = E[X] + c
+ Tính chất 2: E[cX] = cE[X]
+ Tính chất 3: VAR[X + c] = VAR[X]
+ Tính chất 4: VAR[cX] = c
2
VAR[X]
Trong đó c là hằng số.
Chúng ta giả định trong danh mục chỉ có 2 tài sản rủi ro X và Y với α% tài
sản X và (1-α)% trong tài sản Y. Cả 2 đều được phân phối chuẩn. Giá trị tỷ suất
sinh lợi của danh mục này (sử dụng tính chất 1 và 2) là:
µ
p
= E[R
p

]
= E[αX + (1- α)Y]
= E[αX] + E[(1- α)Y]
= αE[X] + (1- α)E[Y]
và phương sai của danh mục này là :
σ
2
p
= VAR[R
p
]
= E[(k
p
- E[k
p
])
2
]
= E[({αX + (1- α)Y} - E[αX + (1- α)Y])
2
] (Sử dụng tính chất 2)
= E[({αX + (1- α)Y} - {αE[X] + (1- α)E[Y]})
2
]
= E[({αX - αE[X]} + {(1- α)Y - (1- α)E[Y]})
2
]
= E[(α{X - E[X]} + (1- α){Y - E[Y]})
2
]

= E[α
2
(X - E[X])
2
+ (1- α)
2
(Y - E[Y])
2
+ 2α(1- α)(X - E[X])(Y - E[Y])]
(Sử dụng tính chất 2)
= α
2
E[(X - E[X])
2
] + (1- α)
2
E[(Y - E[Y])
2
]
+ 2α(1- α)E[(X - E[X])(Y - E[Y])]
(Sử dụng tính chất 4)
= α
2
VAR[X] + (1- α)
2
VAR[Y] + 2α(1- α)COV[X,Y]
= α
2
VAR[X] + (1- α)
2

VAR[Y] + 2α(1- α) r
xy
σ
x
σ
y
(4)
Công thức trên đã thể hiện được một nguyên tắc quan trọng trong đầu tư là
đa dạng hố đầu tư sẽ làm giảm thiểu rủi ro.
 Nếu -1< r
xy
< 1 nghĩa là hai tài sản X, Y không tương quan hồn tồn
với nhau thì VAR[R
p
] < αVAR[X] + (1- α)VAR[Y]. Từ sự so sánh
trên ta thấy phương sai của một danh mục luôn nhỏ hơn phương sai
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 5
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
của từng tài sản trong một danh mục. Điều này chưa hẳn là đúng
trong tất cả các trường hợp nhưng nếu
 Nếu r
xy
= 0, α = 0.5, VAR[X]=VAR[Y] thì VAR[R
p
] < 0.5VAR[X].
 Nếu r
xy
= -1 thì VAR(R
P
)<0.5VAR(Y)+0.5*VAR(Y)

=VAR(Y)=VAR(X)
 Tất cả các trường hợp trên đều cho ta một kết quả là đa dạng hố danh mục
đầu tư sẽ giảm thiểu rủi ro, đặc biệt trong trường hợp nếu r
xy
= 0 thì việc đa dạng
hố sẽ làm rủi ro riêng (rủi ro không hệ thống) không tồn tại và lúc này danh mục
đầu tư chỉ chịu ảnh hưởng của rủi ro chung (rủi ro hệ thống). Việc đa dạng hố đầu
tư sẽ là một lá chắn hữu hiệu nhằm phòng ngừa rủi ro trong đầu tư trên thị trường
chứng khốn. Từ những ý tưởng trên, ta đưa ra một kết luận vô cùng quan trọng:
”Rủi ro của một danh mục đa dạng hố tốt phụ thuộc vào rủi ro thị trường
của các chứng khốn trong danh mục.”
2.1.4. Tìm kiếm danh mục đầu tư tối ưu:
2.1.4.1. Lựa chọn một danh mục tối ưu trong thị trường với những tài
sản có rủi ro:
Chúng ta cũng biết rằng tất cả các chứng khốn đang được giao dịch trên
TTCK đều tồn tại hai loại rủi ro là rủi ro riêng từ bản thân của công ty phát hành
chứng khốn và rủi ro còn lại là từ thị trường. Bất cứ một nhà đầu tư nào khi tham
gia vào thị trường sẽ phải chịu cả hai loại rủi ro trên. Tuy nhiên nếu một nhà đầu tư
nếu biết đa dạng hố tốt thì rủi ro riêng từ bản thân của chứng khốn sẽ không tồn tại,
danh mục chỉ còn chịu ảnh hưởng vào rủi ro thị trường. Khi đó, rủi ro của danh
mục sẽ là nhỏ nhất. Tập hợp các khả năng rủi ro khi đầu tư vào TTCK của các nhà
đầu tư tạo nên hình quả trứng trong hình sau:
Đường cong bàng quang
Đ
Đường cong bàng quangmức đồng hữu dụgn
Hình I: Lựa chọn một danh mục tối ưu trong thị trường với những
tài sản rủi ro.
Vùng tiềm năng danh mục thị trường
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 6
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang

A
Hình quả trứng màu vàng ở đồ thị trên thể hiện tất cả các khả năng trong
việc kết hợp các chứng khốn trên thị trường với các tỷ lệ phù hợp với mức độ chịu
đựng rủi ro của từng nhà đầu tư. Đường cong màu xanh là tập hợp hiệu quả các
chứng khốn có rủi ro và Markowitz gọi chúng là danh mục đầu tư hiệu quả. Chính
vì thế các nhà đầu tư chỉ đầu tư vào đường màu xanh trên do họ luôn muốn tăng tỷ
suất sinh lợi và giảm độ lệch chuẩn. Trên thực tế, các kết hợp chứng khốn chỉ có
thể nằm trong hình màu vàng trên nghĩa là không ai có khả năng tạo được một danh
mục có thể có tỷ suất sinh lợi cao hơn tỷ suất sinh lợi của các danh mục trong vùng
trên cũng như không ai có thể ”tự hủy” bằng cách tìm kiếm một danh mục mà rủi
ro là cao hơn rủi ro trong hình. Đây có lẽ chính là ưu điểm của việc đa dạng hóa
trong đầu tư. Trong trường hợp này thì danh mục đầu tối ưu là điểm A - tiếp điểm
giữa đường cong bàng quang với tập hợp hiệu quả các chứng khốn có rủi ro. Tại
điểm A tỷ suất sinh lợi (
*
p
µ
) sẽ là cao nhất tương ứng với mức độ chịu đựng rủi ro (
*
p
σ
) của nhà đầu tư.
Nhìn vào đồ thị trên ta thấy danh mục đầu tư tại điểm A là danh mục đầu tư
thoả mãn được tiêu chuẩn là tập hợp hiệu quả với độ lệch chuẩn thấp nhất nếu xét
trong mối tương quan với tỷ suất sinh lợi. Ngược lại danh mục đầu tư tại điểm C có
lợi nhuận ước tính thấp nhất so với độ lệch chuẩn bằng với độ lệch chuẩn của danh
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 7
p
µ
*

p
µ
*
p
σ
p
σ
C
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
mục tại điểm A. Như vậy ta có thể kết luận rằng không phải bất cứ điểm nào nằm
trên đường cong xanh cũng là điểm danh mục đầu tư hiệu quả.
2.1.4.2. Lựa chọn một danh mục tối ưu bằng việc kết hợp những
chứng khốn có rủi ro và một tài sản không rủi ro:
Giả sử bây giờ ngồi tài sản rủi ro còn có sự tồn tại của tài sản phi rủi ro và
nhà đầu tư có thể vay hay cho vay không giới hạn những tài sản này với cùng một
tỷ lệ: lãi suất phi rủi ro (k
f
).Tài sản phi rủi ro này có thể là một loại trái phiếu sẽ
đến hạn vào cuối kỳ hoạch định và các khoản thanh tốn của nó được Nhà nước bảo
đảm. Bất cứ nhà đầu tư nào cũng có thể mua hay bán trái phiếu trên một cách tự do.
Lúc này tập hợp hiệu quả các chứng khốn có rủi ro sẽ bị thay đổi như sau:
Mức ngại rủi ro thấp
Hình II: Lựa chọn danh mục tối ưu khi có sự tồn tại của tài sản không rủi ro.
Vùng tiềm năng danh mục thị trường
M
Mức ngại rủi ro trung bình
Mức ngại rủi ro cao
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 8
p
µ

m
µ
m
σ
p
σ
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
R
f
Nếu không có sự tồn tại tài sản không rủi ro thì các nhà đầu tư sẽ lựa chọn
danh mục nằm trong vùng tiềm năng và mỗi một nhà đầu tư sẽ có một danh mục
khác nhau. Tuy nhiên nếu tồn tại tài sản phi rủi ro thì nhà đầu tư sẽ có một danh
mục với sự kết hợp giữa các chứng khốn rủi ro và loại trái phiếu không rủi ro trên.
Lúc này danh mục tối ưu sẽ là danh mục M mà tại đó bất cứ một nhà đầu tư nào
cho dù có thái độ đối với rủi ro ra sao cũng đều muốn nắm giữ nó. Nguyên nhân
của sự thay đổi trên rất đơn giản. Với sự tồn tại của những tài sản không rủi ro thì
tỷ suất sinh lợi và độ lệch chuẩn cho một danh mục gồm có tài sản phi rủi ro của
danh mục M (Xin xem hình II) sẽ như sau:
o µ
p
= αE[k
m
] + (1 - α)k
f
(5)
o σ
p
2
= α
2

VAR[k
m
] + (1- α)
2
VAR[k
f
] + 2α(1- α)COV[k
m
,k
f
]
= α
2
VAR[k
m
] + (1- α)
2*
0 + 2α(1- α)*0
= α
2
VAR[k
m
]
<=> σ
p
= ασ
m
(6)
Khi đầu tư α% vào các chứng khốn có rủi ro và (1- α)% vào một tài sản phi
rủi ro thì phương trình cho tập hợp hiệu quả các chứng khốn có rủi ro sẽ thay đổi

như sau:
Từ (5) và (6) ta có:
[ ]
fm
p
kkE
−=


α
µ

m
p
σ
α
σ
=


Do đó độ dốc của đường thẳng là:
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 9
Tập hợp hiệu quả các chứng khoán có rủi ro
(Đường danh mục thị trường-CML)
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang

[ ]
m
fm
p

p
kkE
σ
α
σ
α
µ

=




(7)
Phương trình cho danh mục có rủi ro thấp nhất là:

[ ] [ ]
( )
m
fm
f
m
fm
fp
kkE
R
kkE
k
σ
σ

σ
σ
µ

+=

+=
(8)
Phương trình trên đã được biết dưới cái tên Đường thị trường vốn
(CML_Captital Market Line). Công thức trên đã được nhắc đến như là Mô hình
định giá danh mục vốn (CPPM_Capital Porfolio Pricing Model) bởi vì nó có giá
trị là một danh mục đầu tư hiệu quả.
Giả định tất cả các nhà đầu tư đều có kỳ vọng thuần nhất về sự phân phối
mong đợi của lợi nhuận xuất phát từ tất cả tài sản. Giả sử thị trường vốn là hồn hảo
và thông tin luôn luôn có hiệu lực đồng nhất đối với các nhà đầu tư. Tập hợp tất cả
các điều trên ta thấy rằng các nhà đầu tư đều sử dụng cùng một công thức cho
đường thị trường vốn và do đó lãi suất cho vay bằng với lãi suất vay.
Trong cùng một mức độ ngại rủi ro chung, mỗi nhà đầu tư sẽ tối đa hóa lợi
ích của họ bằng cách nắm giữ một tập hợp bao gồm cả những tài sản phi rủi ro và
danh mục đầu tư M. Phương pháp này được gọi dưới cái tên Nguyên tắc phân chia
hai nguồn (Two-fund Separation Principle). Nó được minh hoạ trong hình II bởi
sự tiếp xúc của đường cong bàng quang với đường CML cho những mức độ khác
nhau của rủi ro.
Giả định thêm rằng tất cả các tài sản là hồn tồn có thể phân chia và định giá
được hồn tồn trong một thị trường cạnh tranh hồn hảo. Hơn nữa, ta có thể xác định
được các loại tài sản cũng như số lượng của chúng được cố định trong một kỳ đủ
lớn. Khi đó danh mục M chỉ còn sự tồn tại của các tài sản phi rủi ro. Nguyên nhân
là sự cân bằng đòi hỏi tất cả các giá cả (trong danh mục đầu tư) phải được điều
chỉnh để cho những yêu cầu vượt quá giới hạn của bất cứ tài sản nào đều không thể
làm thay đổi rủi ro của danh mục. Điều đó có nghĩa là mỗi tài sản đều có mức độ

thu hút như nhau đối với nhà đầu tư. Theo lý thuyết thì sự giảm dần độ chênh lệch
từ việc đa dạng hố tăng lên khi số lượng của các tài sản trong danh mục M tăng lên.
Vì vậy, tất cả các tài sản sẽ giữ trong danh mục M sẽ phù hợp với giá trị thị trường
của chúng:

=
i
i
i
V
V
w
Trong đó, V
i
là giá trị thị trường của tài sản i và ΣV
i
là giá trị thị trường của
tất cả các loại tài sản.
Từ đó chúng ta đi đến kết luận: Đường thị trường vốn (CML) chỉ ra mối
liên hệ giữa giá trị trung bình và độ lệch của danh mục (bao gồm cả những tài
sản phi rủi ro và danh mục đầu tư thị trường) mà trong đó đã được định giá
và đa dạng hố hồn tồn.
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 10
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Công thức đường thị trường vốn cũng có thể được gọi là Phương pháp định
giá danh mục vốn (CPPM_Capital Portfolio Pricing Model) từ khi nó được đánh
giá như một danh mục đầu tư hiệu quả. Do đó sẽ thật là thú vị khi sử dụng công
thức này để định giá những tài sản riêng biệt. Điều đó chính xác là những gì mà mô
hình định giá tài sản vốn thực hiện. Mô hình CAPM công yêu cầu thêm bất cứ một
giả định nào mà chỉ kế thừa mô hình CPPM.

2.1.5. Từ mô hình CPPM đến Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM):
Điều mà chúng ta muốn là làm sao có thể định giá vốn một cách hữu hiệu
cho các tài sản riêng biệt (E(k), mô hình CAPM) chứ không phải chỉ định giá vốn
cho tồn bộ danh mục (µ
p
, mô hình CPPM). Giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của
danh mục này là một câu trả lời:
• E[R
P
]= αE[k] + (1 - α)E[k
m
] (9)
• VAR[R
P
] = α
2
VAR[k]+ (1- α)
2
VAR[k
m
]+ 2α(1- α)COV[k,k
m
]
<=> σ
Rp
= {α
2
VAR[k]+ (1- α)
2
VAR[k

m
]+ 2α(1- α)COV[k,k
m
]}
0,5
<=> σ
Rp
= {α
2
VAR[k] + (1- α)
2
VAR[k
m
] + 2αCOV[k,k
m
] - 2α
2
COV[k,k
m
]}
0,5
(10)
Từ (9) và (10) ta có α như sau:

[ ]
[ ] [ ]
m
p
kEkE
kE

−=


α
(11)

[ ]
( )
[ ] [ ]
[ ] [ ]
( )
[ ]
[ ] [ ]
},4,2
122{*},2
,21{5.0
5.02
2
2
mm
mm
mm
R
kkCOVkkCOV
kVARkVARkkCOV
kkCOVkVARkVAR
p
α
ααα
ααα

α
σ
−+
−−−
+−+=



(12)
Đây là công thức nguồn gốc đã giúp William Sharpe (cha đẻ của Lý thuyết
CAPM, 1963, 1964) đạt giải Nobel kinh tế năm 1990. Ông cho rằng trạng thái cân
bằng của danh mục M trong mô hình CPPM đã tồn tại tài sản rủi ro i. Nếu tài sản
rủi ro i đã được đưa vào danh mục thị trường M với một số lượng thực thì nó sẽ tạo
ra những nhu cầu vượt quá giới hạn cho tài sản i bởi α
i
. Do đó công thức (11) và
(12) phải được tính tốn với α = 0 để có thể diễn tả được danh mục thị trường cân
bằng. Điều đó được thực hiện dưới đây:

[ ]
[ ] [ ]
m
p
kEkE
kE
−=


=
0

α
α
(11)

[ ]
( )
[ ] [ ]
( )
mmm
R
kkCOVkVARkVAR
p
,22*5.0
5.0
0
+−=



=
α
α
σ
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 11
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang

[ ] [ ]
[ ]
( )
5.0

0
,
m
mm
R
kVAR
kVARkkCOV
p

=



=
α
α
σ
(12)

[ ] [ ]
m
mm
R
kVARkkCOV
p
σα
σ
α

=




=
,
0
(13)
Bây giờ độ dốc của Đường danh mục thị trường cân bằng M trở thành:

[ ]
[ ] [ ]
[ ] [ ]
m
mm
m
R
p
kVARkkCOV
kEkE
kE
p
σ
α
σ
α
α


=





=
,
0
(14)
Cuối cùng ta thấy rằng độ dốc này phải bằng với độ dốc trong công thức (7)
trong Mô hình. Vì vậy ta có:

[ ]
[ ] [ ]
[ ] [ ]
m
mm
m
m
fm
kVARkkCOV
kEkE
kkE
σ
σ


=

,

[ ]

[ ]
[ ] [ ]
[ ] [ ]
mm
m
m
fm
kVARkkCOV
kEkE
kVAR
kkE


=


,

[ ]
[ ]
[ ] [ ]
( )
[ ] [ ]
mmm
m
fm
kEkEkVARkkCOV
kVAR
kkE
−=−



,*

[ ] [ ]
[ ]
[ ]
[ ] [ ]
( )
mm
m
fm
m
kVARkkCOV
kVAR
kkE
kEkE


+=⇔
,*

[ ] [ ] [ ]
( )
[ ]
[ ]
[ ]
( )
fm
m

m
fmm
kkE
kVAR
kkCOV
kkEkEkE
−−−+=⇔
,
*

[ ] [ ]
( )
[ ]
[ ]
f
m
m
fm
k
kVAR
kkCOV
kkEkE
+−=⇔
,
*

[ ] [ ]
( )
mfmf
kkEkkE

β
−+=⇔
với
[ ]
[ ]
m
m
m
kVAR
kkCOV ,
=
β
(15)
Ở đây chúng ta có thể gọi
[ ]
mfm
kkE
β
)( −
là phần bù rủi ro thị trường, do đó
công thức trên có thể phát biểu lại như sau:
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 12
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
”Tỷ suất sinh lợi thị trường là tổng của lãi suất phi rủi ro cộng với phần
bù rủi ro tiềm ẩn trong thị trường.”
Phần bù rủi ro thị trường có thể được tính tốn một cách tốt nhất dựa trên các
số liệu quá khứ trong các phiên giao dịch từ khi thị trường chứng khốn Việt Nam
bước vào quá trình hoạt động cho đến thời điểm hiện nay. Công thức (15) là công
thức của mô hình CAPM hay cũng là công thức cho đường thị trường chứng khốn.
Công thức này thể hiện rõ ràng mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi thị trường và beta

(β) của chứng khốn do đó beta của từng chứng khốn riêng lẻ trong danh mục là
thước đo thích hợp nhất của rủi ro trong danh mục. Mối quan hệ giữa tỷ suất sinh
lợi và β của chứng khốn:
Mức ngại rủi ro thấp
Hình III: Lựa chọn chứng khốn cho nhà đầu tư không ưu thích rủi ro trong
sự tồn tại của các chứng khốn rủi ro và môât tài sản phi rủi ro
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 13
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
M
Mức ngại rủi ro trung bình
Mức ngại rủi ro cao
R
f
So sánh với mô hình CAPM (15) bởi công thức trong mô hình CPPM (8)
cho chúng ta thấy cả hai đều tương tự nhau. Chúng đều là một đường thẳng và có
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 14
[ ]
kE
1=
m
β
[ ]
m
kE
[ ]
[ ]
m
m
m
kVAR

kkCOV ,
=
β
Đường thị trường chứng khoán (SML)
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
cùng một cách đo lường giá trị của rủi ro nhưng cách đo lường về số lượng rủi ro
thì khác nhau. Mô hình CAP M đo lường số lượng rủi ro bởi giá trị hiệp phương sai
[ ]
[ ]
)
,
(
m
m
m
kVAR
kkCOV
=
β
còn mô hình CPPM đo lường số lượng rủi ro bằng độ lệch
chuẩn
[ ]
[ ]
mm
kVAR
kVAR

σ
σ
. Nguyên nhân của sự khác biệt này là do nhà đầu tư chỉ

muốn trả
[ ]
)(
fm
kkE −
cho những rủi ro không thể đa dạng hố được. Mô hình
CPPM đo lường những danh mục mà đã được đa dạng hố hồn tồn. Do đó. sự đo
lường thích hợp cho rủi ro là độ lệch của danh mục đó. Ngược lại, CAPM đánh giá
những tài sản riêng lẻ mà có thể đa dạng hố. Tranh luận dưới đây sẽ làm bạn hiểu
rõ hơn. Độ lệch của một danh mục cân bằng của N tài sản rủi ro (với
N
w
i
1
=
, với
[ ]
Ni ,1

) là:

∑∑
= =
=
N
i
N
j
ij
NN

kVAR
1 1
11
][
σ

∑∑
= =






=⇔
N
i
N
j
ij
N
kVAR
1 1
2
1
][
σ

∑ ∑∑
= =


=






+






=⇔
N
i
N
i
ijN
j
ijii
NN
kVAR
1 1
\
1
22
11

][
σσ

Một cách gần đúng chúng ta có thể thay thế các độ lệch riêng lẻ và hiệp
phương sai với những giá trị trung bình của nó, có nghĩa là:

[ ] [ ]
[ ]
∑ ∑∑
= =

=






+






=
N
i
N
i

ijN
j
ijii
E
N
E
N
kVAR
1 1
\
1
22
11
σσ

[ ] [ ]
( )
[ ]
ijii
ENN
N
EN
N
kVAR
σσ
−+=⇔
2
22
*
1

*
1

[ ] [ ]
[ ]
ijii
E
N
E
N
kVAR
σσ






−+=⇔
1
1*
1

[ ]
[ ]
∞→
=
N
EkVAR
ij

σ
lim

Điều này giải thích rằng một danh mục đầu tư sẽ trở nên đa dạng hố bởi việc
cho phép số lượng các tài sản có rủi ro tăng lên, thuật ngữ hiệp phương sai sẽ trở
nên quan càng trọng. Thật vậy, trong một chừng mực nào đó thì nó là thuật ngữ duy
nhất tạo ra vấn đề. Do đó các nhà đầu tư có khả năng tạo ra một danh mục đầu tư
được đa dạng hố hồn tồn sẽ phải sẵn sàng trả một cái giá cho rủi ro
[ ]
)(
fm
kkE −

cho một tại sản rủi ro tương xứng với hiệp phương sai với danh mục M đã được đa
dạng hố hồn tồn. Cũng có thể nói như vậy đối mô hình CPPM. Tuy nhiên, mô hình
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 15
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
là sự đánh giá tài sản (danh mục) mà sẵn sàng đa dạng hố hồn tồn và sự xác định
của chúng cũng có cùng những đặc điểm với danh mục thị trường M. Điều đó có
nghĩa là hiệp phương sai bằng với độ lệch chuẩn
[ ] [ ]
mmm
m
kkCOVkVAR ,
2
==
σ
. Nói một cách khác mô hình CPPM là một trường hợp đặc biệt của mô hình
CAPM.
2.2. Lý thuyết APT:

2.2.1. Sơ lược về APT:
Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá_APT (Arbitrage Pricing Theory) do
Stephen Ross, một giáo sư chuyên về kinh tế học và tài chính đưa ra trong những
năm 1970 của thế kỷ XX. Những ý tưởng của ông về việc đánh giá thế nào đối với
rủi ro, kinh doanh chênh lệch giá và các công cụ tiền tệ đa dạng đã làm thay đổi
cách nhìn của chúng ta đối với đầu tư.
Trong khi mô hình CAPM cho rằng hệ số beta (β) là công cụ đo lường rủi ro
chủ yếu thì theo APT, β chỉ là điểm khởi đầu và tỷ suất sinh lợi của chứng khốn có
liên hệ chặt chẽ với các biến đổi trong kinh tế vĩ mô. Do đó, để hiểu APT, ta cần
phải nghiên cứu kỹ các mô hình nhân tố. Các mô hình nhân tố không chỉ diễn tả
mức độ ảnh hưởng của những thay đổi trong các nhân tố kinh tế vĩ mô đối với tỷ
suất sinh lợi của chứng khốn mà còn đưa ra các dự báo về tỷ suất sinh lợi mong đợi
của một sự đầu tư.
2.2.2. Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá_APT:
Mối quan hệ tỷ suất sinh lợi mong đợi – rủi ro được biết đến như là “Lý
thuyết kinh doanh chênh lệch giá” – APT.
Các giả định của Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá:
1. Các tỷ suất sinh lợi có thể được mô tả bằng một mô hình nhân tố.
2. Không có các cơ hội chênh lệch.
3. Có một số lượng lớn các chứng khốn vì thế có thể thiết lập các
danh mục đầu tư mà đa dạng hóa rủi ro riêng của từng loại chứng
khốn riêng lẻ. Giả định này cho phép chúng ta xác nhận rằng rủi
ro riêng không tồn tại.
Để việc phân tích tương đối đơn giản xem như các sự đầu tư không có rủi ro
riêng.
 Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá với việc không có rủi ro riêng:
Xem như sự đầu tư i với các tỷ suất sinh lợi được hình thành bởi mô hình k
nhân tố được mô tả bởi:
Tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục mô phỏng đầu tư i là:
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 16

r
i
=
α
i
+
β
i1
F
1
+
β
i2
F
2
+ … +
β
ik
F
k

Tỷ suất sinh lợi mong đợi = r
f
+
β
1
λ
1
+
β

2
λ
2
+ … +
β
k
λ
k
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Với : λ
1
, λ
2
, …,λ
k
là các mức bù đắp rủi ro của các danh mục đầu tư nhân tố.
Nếu có một cơ hội chênh lệch tồn tại thì nhà đầu tư sẽ có thể đạt được lợi
nhuận thực phi rủi ro bằng cách mua sự đầu tư có tỷ suất sinh lợi mong đợi cao hơn
và bán khống sự đầu tư có tỷ suất sinh lợi mong đợi thấp hơn. (Nghiệp vụ bán
khống rất phổ biến ở các nước phát triển, tuy nhiên việc bán khống chưa được sự
cho phép thực hiện ở Việt Nam)
Do đó, để ngăn chặn sự chênh lệch thì tỷ suất sinh lợi mong đợi của sự đầu
tư i và danh mục đầu tư mô phỏng nó phải bằng nhau. Một cơ hội chênh lệch giá
chứng khốn tồn tại cho tất cả các sự đầu tư không có rủi ro riêng trừ phi:
r
i
=
α
i
+

β
i1
F
1
+
β
i2
F
2
+ … +
β
ik
F
k
(*)
Với : β
1
, β
2
, …,β
k
là các mức bù đắp rủi ro của các danh mục đầu tư nhân tố.
Phương trình của Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá, phương trình (*), là
một mối liên quan giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi mong đợi không có các cơ hội
chênh lệch. Vế trái của phương trình là tỷ suất sinh lợi mong đợi của một sự đầu tư.
Vế phải là tỷ suất sinh lợi của một danh mục đầu tư mô phỏng có cùng các β nhân
tố của đầu tư đó. Phương trình (*) vì thế mô tả một mối quan hệ mà không có sự
chênh lệch giá chứng khốn: dấu bằng (=) chỉ nêu lên rằng tỷ suất sinh lợi mong
đợi của sự đầu tư sẽ giống như của danh mục đầu tư mô phỏng nó.
APT là một công cụ hữu hiệu để xây dựng các danh mục đầu tư phục vụ cho

các nhu cầu cụ thể. APT cho phép nhà quản trị lựa chọn một danh mục các chứng
khốn được đa dạng hóa mà ít chịu ảnh hưởng bởi những cuộc khủng hoảng do lạm
phát gây ra. Nếu CAPM là mô hình “một quy mô phù hợp cho mọi người” trong
việc đầu tư thì APT chỉ phù hợp cho từng người. Trong thế giới APT, người ta có
những thị hiếu khác nhau và quan tâm đến các nhân tố cụ thể không ít thì nhiều.
Với APT, chúng ta có thể mô hình hóa các tác động của những viễn cảnh kinh tế
khác nhau trên danh mục đầu tư. Một khi các nhân tố β được ước lượng, ta có thể
mô tả thay đổi kỳ vọng trong tỷ suất sinh lợi chứng khốn có liên quan đến các thay
đổi trong nhân tố đó.
APT có một số lợi điểm sau:
 Không có hạn chế trong yêu cầu về danh mục đầu tư.
 Ít hạn chế hơn về khía cạnh thông tin so với CAPM. APT là một thế giới của
những nhà mua bán song hành và những nhà cung cấp thông tin.
 Cho phép có nhiều rủi ro mà giải thích cái gì tác động đến tỷ suất sinh lợi
chứng khốn và dự báo những hệ số nhạy cảm. Thực tế, ngay cả những
chuyên gia cũng không thể nhất trí về việc xác định các nhân tố rủi ro, và dự
báo càng nhiều hệ số β thì ta càng thấy rối.
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi sẽ ứng dụng các Lý thuyết trên đây
(CAPM và APT) vào việc đo lường rủi ro trên TTCKVN. Trong đó, 2 lý thuyết
CAPM và APT sẽ được chúng tôi mô tả chi tiết hơn trong Phần III thông qua việc
vừa triển khai vừa ứng dụng để tính tốn đối với các cổ phiếu đang được niêm yết
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 17
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
trên TTCKVN. Đồng thời, chúng tôi xin đề xuất ý kiến về việc thiết lập một danh
mục đầu tư hiệu quả.
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 18
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
PHẦN II: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA
PHẦN II: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA



THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN VIỆT NAM TỪ KHI RA ĐỜI
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN VIỆT NAM TỪ KHI RA ĐỜI


CHO ĐẾN NAY
CHO ĐẾN NAY

1. Khái quát quá trình hoạt động của TTCKVN:
Tính đến thời điểm hiện tại, TTCKVN đã trải qua gần 4 năm hoạt động với
hơn 750 phiên giao dịch. Sự ra đời của TTCK đã đánh dấu một bước phát triển có ý
nghĩa quan trọng trong lịch sử nền tài chính Việt Nam - với một trong những mục
tiêu chiến lược là bổ sung một kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho
nền kinh tế, phục vụ cho quá trình công nghiệp hố – hiện đại hố nền kinh tế đất
nước.
Hiện nay, TTCK tập trung đã thu hút được 22 loại cổ phiếu (tính đến thời
điểm ngày 01/03/2004) được niêm yết trên thị trường với giá trị vốn 1120 tỷ đồng
và 101 loại trái phiếu với giá trị vốn 11461 tỷ đồng - trong đó trái phiếu chính phủ
(TPCP) có 99 loại, trái phiếu doanh nghiệp có 2 loại.
TTCKVN từ khởi điểm là một con số không đến nay đã có nhiều đóng góp
đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhìn lại quá trình hoạt động của
TTCK tập trung của Việt Nam, chúng ta thấy mục đích là một kênh huy động
nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa đạt được kết quả
như mong đợi. Chúng ta có thể khái quát quá trình hoạt động của TTCKVN như
sau:
 Giai đoạn 1: Từ khi Trung tâm Giao dịch chứng khốn Thành phố Hồ Chí
Minh (TTGDCK TPHCM) chính thức đi vào hoạt động (ngày 20/07/2000) đến
giữa năm 2001, hàng hố trên thị trường đã tăng từ 2 đến 5 loại cổ phiếu niêm yết và
giao dịch trên thị trường. Giá cả chung của thị trường qua các tháng được tính
trong bảng sau:


Đồ thị: Giá chứng khoán trong giai đoạn 1
0
20
40
60
80
06-00
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 19
Năm 2000 Năm 2001
Tháng
07/0
0
08/0
0 09/00
10/0
0 11/00 12/00
01/0
1 02/01
03/0
1 04/01
0
5
/
0
1
Giá 16.63 17.28 18.56 22.00 27.11 31.18 35.76 40.92 46.07 55.27
6
7.
7

4
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
07-00
08-00
09-00
10-00
11-00
12-00
01-01
02-01
03-01
04-01
05-01
06-01
Tháng
Dựa vào đồ thị trên có thể thấy rằng đây là giai đoạn mà giá các loại cổ
phiếu tăng liên tục đặc biệt là từ đầu năm 2001 và đạt tới mức cao nhất vào cuối
giai đoạn này (5/2001), khi chỉ số VN-Index đạt trên 550 điểm. TTCK trong giai
đoạn này phát triển một cách ổn định với mức độ rủi ro là thấp nhất.
 Giai đoạn 2: Từ giữa năm 2001 đến cuối năm 2001, đây là giai đoạn giá các
loại cổ phiếu giảm nhanh và mạnh. Đến cuối năm 2001 thì giá chứng khốn bình ổn
từng bước cùng với việc gia tăng số lượng và chủng loại cổ phiếu niêm yết trên thị
trường. Chỉ số chứng khốn VN-Index vào thời điểm đó xoay quanh mức 200 điểm.
Trong năm 2001, tổng giá trị giao dịch trung bình mỗi tháng là 77.5 tỷ đồng với số
lượng chủng loại niêm yết vào cuối năm là 11 loại cổ phiếu cùng với 8 công ty
chứng khốn hoạt động. Giá cả chung của thị trường được tính tốn trong bảng sau:
Tháng 06/01 07/01 08/01 09/01 10/01 11/01 12/01
Giá 66.17 77.68 56.77 47.22 41.92 49.02 40.08

SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 20

Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 21
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Đồ thị: Giá chứng khoán trong giai đoạn 2
0
20
40
60
80
100
04-01
06-01
07-01
09-01
11-01
12-01
Tháng
Giá
 Giai đoạn 3: Từ đầu năm 2002 đến cuối năm 2002, giai đoạn này giá cổ
phiếu vẫn trong tình trạng trì trệ, thị trường mất đi sự sôi động ban đầu. Thay vào
đó là sự lo âu và rút lui khỏi thị trường của một số nhà đầu tư. Chỉ số VN-Index
dao động xung quanh mức 180 - 200 điểm kéo dài gần một năm.
Tháng
01/02 02/02 03/02 04/02 05/02 06/02 07/02 08/02 09/02 10/02 11/02 12/02
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 22
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Giá 32.11 29.55 28.17 28.55 29.66 28.38 26.88 25.49 24.96 24.21 23.31 24.39
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 23
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 24

Luận văn tốt nghiệp GVHD: Cô TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Đồ thị: Giá chứng khoán trong giai đoạn 3
SVTH: Nguyễn Thành Xuân Trang 25

×