Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

tiểu luận: VẤN ĐỀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở HY LẠP VÀ TÂY BAN NHA , VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.39 KB, 47 trang )

ĐỀ TÀI : VẤN ĐỀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở HY LẠP VÀ TÂY BAN
NHA , VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA CHO VIỆT NAM
LỜI NÓI ĐẦU
Bắt đầu ý tưởng được cho là “không tưởng“ về một châu Âu thống nhất,
trải qua mấy thế hệ gian khổ nỗ lực, những người dân trên“lục địa già“ cảm thấy
hoan hỉ vì những thành tựu đạt được khiến thế giới kính nể trong việc nhất thể hoá
kinh tế và chính trị. Những gì mà châu Âu gặt hái trên con đường đi tới “Liên
bang châu Âu“ tới nay được phản ánh rõ nét nhất ở sự ra đời đồng tiền chung
euro. Nhưng không ai ngờ 50 năm sau khi Tuyên ngôn Schumann (đánh dấu ý
tưởng hợp nhất các nước châu Âu) đồng tiền chung của “lục địa già“ phải đối mặt
với mối đe doạ nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp rồi sau đó là
một loạt các quốc gia khác trong đó có Tây Ban Nha.
Khủng hoảng nợ công ở châu âu không chỉ đe dọa sự tồn tại của khu vực
đồng tiền chung châu âu mà còn đe dọa tạo ra một cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu mới đe dọa sự phục hồi của nền kinh tế thế giới. Đây có thể là một lời
cảnh báo về một cuộc khủng hoảng nợ công toàn cầu.
Sự hiện hữu của "bóng ma" khủng hoảng nợ đã và đang làm đau đầu các
nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu (EU). Gói cứu trợ dài hạn EU/IMF 110 tỷ euro
dành cho Hy Lạp, đạt được sau nhiều tuần tranh cãi, đã chứng tỏ mức độ nghiêm
trọng của "cơn sóng ngầm" nợ công thêm vào đó gói cứu trợ 100 tỷ euro cũng
được tung ra nhằm giải cứu nền kinh tế của Tây Ban Nha mấu chốt cho sự “tồn
tại” của khối Eurozone. Nếu Khủng hoảng nợ của Hy Lạp là bài kiểm tra lớn nhất
về mức độ tín nhiệm mà khu vực Eurozone phải đối mặt kể từ khi chính sách sử
dụng một đồng tiền duy nhất được đi vào đời sống thì cuộc khủng hoảng nợ công
ở Tây Ban Nha là thử thách cho sự tồn tại của khối Eurozone
PHẦN I , LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
1
1.Khái niệm và bản chất của nợ công
1.1. Khái niệm nợ công :
- nợ công là hậu quả của vấn đề chi tiêu công bất hợp lý. Chi tiêu công bao
gồm các khoản chi để duy trì bộ máy nhà nước, chi đầu tư phát triển, chi


các mục tiêu văn hóa-xã hội, chi quốc phòng, chi trả nợ nước ngoài và dự
phòng. Mỗi quốc gia đều phải cân đối mức thu chi. Khi thu không đủ chi,
nhà nước phải đi vay dẫn đến hình thành nợ công.
- Nợ công (nợ chính phủ hoặc nợ quốc gia) là tổng giá trị các khoản tiền mà
chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ
cho các khoản thâm hụt ngân sách.
1.2. Phân loại nợ công
- Nợ công bao gồm:
1. Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước)
2. Nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước)
3. Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến
10 năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm).
- Khi nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay.
Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Nợ
nước ngoài lớn thì chính phủ buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước
ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
1.3. Bản chất của nợ công:
Khi xem xét bản chất của vấn đề nợ công, nếu chỉ xét tỷ lệ nợ công /GDP
thì chưa đủ bởi tỷ lệ nợ công/GDP chỉ phản ảnh một phần nào đó về mức độ
an toàn hay rủi ro của nợ công. Nếu xem xét tỷ lệ đó mà khẳng định nợ công
an toàn thì chưa có cơ sở. Nợ công khoảng 100%GDP đủ để một nước như
Hy Lạp rơi vào tình trạng phá sản, trong khi đó nợ công lên tới hơn 200%
như Nhật Bản vẫn được coi là an toàn bởi vì nợ công của Nhật Bản chủ yếu
là nợ vay trong nước .
Vì vậy, khi xét đến nợ công, điều cốt lõi không chỉ cần quan tâm tới tổng
nợ, nợ hàng năm phải trả mà phải quan tâm tới rủi ro và cơ cấu nợ. Nghĩa là
2
phải tính tới khả năng trả nợ và rủi ro trong tương lai, chứ không chỉ là con
số tổng nợ trên GDP. Mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công không chỉ
phụ thuộc vào tỷ lệ nợ/GDP mà quan trọng hơn, phụ thuộc vào tình trạng

phát triển của nền kinh tế.
2, Khoảng giới hạn nợ công an toàn theo qui định của EUROZONE
Theo qui định của Khối sử dụng đồng tiền chung Châu Âu, tỷ lệ nợ
công tối đa đối với một quốc gia thành viên là 60% GDP, thâm hụt ngân sách
hàng năm không được vượt quá 3% GDP.
3, Nguyên nhân dẫn tới nợ công của Châu Âu
3.1. Nguyên nhân bên trong
- Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Hy Lạp: Chính phủ Hy Lạp phạm sai lầm
trong quản lý và không trung thực khi thông báo số liệu kinh tế trong nhiều
năm. Bất kỳ quyết định nào của chính phủ Hy lạp về giải quyết vấn đề ngân
sách đều bị hoài nghi, do đó càng khó cho giải quyết khủng hoảng
- Các chính phủ thu không đủ chi: các nhà phân tích kinh tế đều cho rằng,
khủng hoảng nợ công ở châu Âu là do chi tiêu của các chính phủ quá lớn.
Việc chi tiêu quá lớn đã tạo ra thâm hụt ngân sách và khủng hoảng nợ công
- Vấn đề tổ chức tài chính và điều hành kinh tế của EU: Do vấn đề về cơ cấu
nên EU có hạn chế về điều hành nền kinh tế của Khối, các chính sách tiền
tệ không đi cùng với cải cách thu thuế và lao động. EU và Ngân hàng
Trung ương Châu Âu(ECB) cũng phản ứng chậm với các nền kinh tế khi
gặp khủng hoảng.
- Áp lực của các nhóm tài phiệt: các nhà đầu cơ, các tổ chức tài chính lớn và
các trung tâm quyền lực kinh tế kinh tế đã thuyết phục được các chính phủ
chỉ điều chỉnh thể chế chứ không áp dụng các biện pháp cải cách các thể
chế. Chính phủ các nước phải tốn nhiều tỷ Euro hỗ trợ các ngân hàng và
cho các chương trình hỗ trợ hoạt động kinh tế nhằm cứu ngân hàng và nền
kinh tế không bị đổ vỡ. điều này không tránh khỏi việc nợ công gia tăng.
3
- Vấn đề chính sách kinh tế tự do mới: Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho
rằng cuộc khủng khoảng hiện nay là do chính sách kinh tế tự do gây ra. Do
vậy, các quốc gia muốn thoát khỏi cần phải từ bỏ chính sách kinh tế tự do
mới và chuyển sang chính sách kinh tế của Keynes, chính sách kích cầu.

3. 2. Nguyên nhân bên ngoài
- Chiến dịch tấn công làm suy yếu đồng Euro : Giới đầu cơ đang thực hiện
các chiến dịch nhằm hạ thấp đồng Euro và kiếm lời. Họ chủ yếu đầu cơ
trong ngắn hạn. Cũng có một số nhà kinh tế cho rằng cuộc khủng hoảng
này do Anh và Mỹ tạo ra để nhằm hạ đồng Euro. Bởi theo họ, Anh luôi khó
chịu với đồng Euro, còn Mỹ thì cảm thấy bị đồng Euro đe doạ, việc tấn
công đồng Euro cũng để chuyển hướng dư luận về sự yếu kém của đồng đô
la Mỹ và đồng Bảng Anh.
- Các cơ quan đánh giá rủi ro trái phiếu vào thị trường tài chính: thị trường
tài chính đóng vai trò gây bất ổn tình hình kinh tế vừa qua. Các cơ quan
đánh giá rủi ro mở rộng các hoạt động gâybất ổn trên thị trường tài chính.
Các cơ quan đánh giá Standard & Poor’s và Fitch bắt đầu đánh giá nợ của
Hy Lạp, hạ thấp trái phiếu của nước này thành trái phiếu rác. Kể từ đó, lãi
suất trái phiếu của chính phủ Hy Lạp không ngừng tăng, thị trường chứng
khoán Hy Lạp liên tục giảm. Cuối tháng 4/2010, Moody’s cảnh báo nợ
công của Hy Lạp, hạ tiếp trái phiếu chính phủ Hy Lạp.
- Hoạt động đầu cơ tài chính: Hiện tại Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha
đang phải đối mặt với hoạt động đầu cơ tài chính rất cao. Những nạn nhân
tiếp theo có thể sẽ là Aixơlen và Italia. Mục đính của đầu cơ là làm tăng lãi
suất trái phiếu chính phủ cao nhất có thể để thu lời. Thủ tướng Hy Lạp
Papandreu công bố báo cáo cho biết, thâm hụt công của nước này năm
2009 gấp 3 lần so với mức chính phủ đã công bố trước đó và đạt tới 12.7%
GDP, nợ công sẽ hơn 120% GDP năm 2010 và 135% GDP năm 2011.
- Môi trường quốc tế không thuận lợi: Mỹ đe doạ đưa ra các số liệu tiêu cực
của các doanh nghiệp là cho thị trường chứng khoán Mỹ giảm. Khi mối đe
4
doạ khủng khoảng nợ công của Hy Lạp có thể lan sang các quốc gia khác
như Tây Ban Nha, Italia và Bồ Đào Nha… để đối phó với khủng khoảng,
các nhà đầu tư buộc phải rời khỏi các nước này, làm cho các nước rơi vào
cảnh thiếu tiền. Vốn đầu tư bị rút khỏi Hy Lạp không ngừng tăng. Chỉ tính

riêng trong tháng 1/2010 đã có 8 đến 10 tỷ Euro bị rút khỏi Hy Lạp, con số
này cao hơn số tiền trái phiếu mà chính phủ Hy Lạp đã phát hành lần gần
đây nhất.
 Tóm lại, cuộc khủng hoảng nợ công của các nước châu Âu bắt nguồn từ
nhiều nguyên nhân, cả bên trong lẫn bên ngoài. Âm mưu và ý đồ của giời
tài phiệt tiếp tục gây áp lực lên thị trường tài chính nhằm đầu cơ kiếm lời
trong ngắn hạn. Gói cứu trợ 750 tỷ Euro có tác dụng trong ngắn hạn, nhưng
về trung hạn, nguy cơ tiềm ẩn vẫn còn cao, vẫn còn có nghi ngờ về các món
nợ công và sự bất ổn tài chính. Tình hình này có thể ảnh hưởng đến nền
kinh tế châu Âu, nhưng cũng có thể gây ra hiệu ứng đối với cả thế giới.
4, Các giải pháp
Cuộc khủng hoảng nợ công xảy ra và ngày càng xấu đi làm cho các định chế tài
chính lớn không thể ngồi yên mà cần phải đưa ra các giải pháp nhằm tháo gỡ khó
khăn :
- Trước nguy cơ khủng hoảng nợ công ngày càng căng thẳng có thể gây ra
hiệu ứng “Domino”, đầu tháng 5/2010, EU và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
đã nhất trí dành một gói cứu trợ dài hạn trị giá 110 tỷ EUR, tương đương
khoảng 136 tỷ USD trong vòng 3 năm, cho Hy Lạp nhằm giúp nước này
thoát khỏi bờ vực nợ công .
- Đồng thời, ngày 10/5/2010, EU và IMF đã nhất trí thiết lập “Quỹ chống
khủng hoảng” trị giá 750 tỷ EUR (1000 tỷ USD). Theo đó, các nước châu
Âu đưa ra 572 tỷ USD (440 tỷ EUR) khoản vay mới và bơm thêm 778 tỷ
5
USD (60 tỷ EUR) cho chương trình vay đang thực hiện. IMF cũng sẽ đóng
góp 325 tỷ USD (250 tỷ EUR) cho gói cứu trợ . Gói cứu trợ mới này có quy
mô còn lớn hơn cả gói cứu trợ ngân hàng của Mỹ hai năm trước đây nhằm
củng cố niềm tin của thị trường.
- Mới đây, để củng cố hơn nữa hệ thống ngân hàng tài chính và củng cố niềm
tin của các nhà đầu tư toàn cầu, EU đã tiến hành kiếm tra “sức khỏe” của
91 ngân hàng trong 20 nước thành viên, kết quả có 7 ngân hàng không đủ

tiêu chuẩn là: Hypo Real Estate của Đức, Agricultural Bank of Greece SA
của Hy Lạp và 5 ngân hàng khác của Tây Ban Nha. Các ngân hàng này cần
tăng vốn thâm 3,5 tỷ EUR, tương đương 4,5 tỷ USD, để duy trì tỷ lệ vốn ở
mức 6% .
- Về thời hạn kéo dài các giải pháp cứu trợ, kích cầu, quan điểm của Hội
đồng châu Âu cho đến thời điểm này là:
• Rút lui khỏi các gói kích thích ngay khi có sự hồi phục ở các doanh nghiệp,
tuy nhiên thời gian sẽ là khác nhau đối với các nước, cần phải có sự phối
hợp chặt chẽ ở tầm EU;
• Hỗ trợ thất nghiệp ngắn hạn chỉ nên thực sự dừng lại khi mà sự đổi chiều
trong tăng trường GDP được sự xác lập vì việc làm thường có độ trễ so với
tăng trưởng;
• Các sơ đồ hỗ trợ các lĩnh vực của nền kinh tế thực nên kết thúc sớm hơn vì
chúng đòi hỏi chi phí ngân sách lớn và thường có thể có tác động làm biến
dạng thị trường thống nhất;
• Hỗ trợ tiếp cận thị trường vốn nên được duy trì cho tới khi có tín hiệu rõ
ràng là các điều kiện tài chính của các doanh nghiệp đã thực sự quay về với
trạng thái bình thường;
• Rút lui sự hỗ trợ lĩnh vực tài chính, khởi động sơ đồ bảo lãnh chính phủ sẽ
tùy thuộc vào tình hình của nền kinh tế nói chung và vào sự ổn định của hệ
thống tài chính.
6
PHẦN II, THỰC TRẠNG CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở HY LẠP VÀ
TÂY BAN NHA
1, Tổng quan về phát triển kinh tế - xã hội Hy Lạp , Tây Ban Nha và khu
vực EUROZONE trước khi khủng hoảng nợ công xảy ra
1.1, thực trạng của khu vực EUROZONE
Ngày 1/1/2009, eurozone chính thức kết nạp thêm Slovakia nâng tổng số
nước sử dụng chung đồng tiền euro lên con số 16, với dân số hơn 300 triệu người,
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên 12.000 tỉ Euro. Đến nay, sau 11 năm phát

triển, khu vực đồng tiền chung châu Âu đã phát triển, trải qua những thăng trầm.
Đồng Euro đã trở thành một công cụ thanh toán toàn cầu và trở thành một đối
trọng với đồng USD của Mỹ .
a) Trước giai đoạn khủng hoảng tài chính 2008, nền kinh tế của khu vực
eurozone đã có những thành tựu nhất định:
- Tỉ lệ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực đồng Euro từ năm 1999
- 2007 ở mức trung bình 2.59% /năm, giá trị GDP trung bình trong
khoảng thời gian từ năm 1999 – 2007 là khoảng 8200 tỷ USD/năm.
Trong giai đoạn trên, Euro đã góp phần tạo thêm 15 triệu việc làm mới
khiến thương mại và du lịch trở nên dễ dàng hơn.
Biểu đồ về tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực Euro
( 1999-2007 )
Đơn vị : %
7
Nguồn : TradingEconomics.com; European Commission
- Ngoài ra, do có một Ngân hàng trung ương cho cả khu vực cùng với
chính sách tiền tệ độc lập và không hề chịu sự tác động hay can thiệp
của bất kỳ một quốc gia nào trong nội bộ khối nên kể từ khi thành lập,
ECB đã giữ được tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý, góp phần giữ ổn định
giá cả, kiềm chế lạm phát cho các hoạt động của nền kinh tế.
- Cụ thể, trong giai đoạn 1999-2009, giá cả ở Châu Âu tăng với tốc
độ bình quân vào khoảng 2.2% mỗi năm bất chấp giá lương thực và
nhiên liệu có xu hướng leo thang liên tục trong những năm gần đây.
- Biểu đồ về tỷ lệ lạm phát của khu vực đồng Euro( 1999 – 2007 )
- Đơn vị : %
8

Nguồn : TradingEconomics.com; European
Commission
- Bên cạnh đó, ECB đã duy trì một mức lãi suất ổn định, điều này đã

giúp hạn chế những biến động lớn có thể gây ra rủi ro cho các nhà đầu
tư và các doanh nghiệp. Lãi suất bình quân ở mức 2,89% năm trước
giai đoạn khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới 2008. Thông qua đó
cải thiện mức sống của người dân.
- Bên cạnh đồng USD dự trữ như trước đây thì NHTW các nước có
thêm 1 sự lựa chọn nữa là đồng Euro. Trên thực tế, dự trữ ngoại hối
của các quốc gia trên thế giới bằng đồng Euro có xu hướng tăng lên
chứng tỏ Euro đã được các công ty và chính phủ các nước chấp nhận
như là 1 ngoại tệ mạnh. Khi mới đưa vào lưu hành, giá trị 1 Euro chưa
bằng 1 USD. Tuy nhiên, đồng tiền này đã từng đạt mức kỷ lục 1 Euro
đổi được 1,6 USD trong năm 2008.
- Khu vực Eurozone chỉ chiếm 16,5% sản lượng kinh tế toàn cầu,
nhưng đồng Euro lại chiếm tới 27% dự trữ ngoại hối của thế giới. Sau
hơn 3 năm đi vào hoạt động, tỷ trọng của Euro trong quỹ dự trữ của
các NHTW trên thế giới vào năm 2005 đạt 24,3% (của USD là 66,4%)
và cho tới cuối năm 2007, đã là khoảng 27,8% .
9
b, Khủng hoảng kinh tế tài chính 2008 thực sự là một thách thức với
khu vực đồng tiền chung eurozone :
- Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra vào năm
2008, kinh tế EU liên tục phải đối mặt với nhiều khó khăn như tốc độ
lạm phát, tỷ lệ lạm phát cao khiến cho việc lựa chọn đối sách của khu
vực EU trở nên phức tạp. Như nhận định của Ủy ban Châu Âu, khủng
hoảng tài chính đã gây ra những tác động nặng nề, đã quét sạch những
thành tựu mà EU đạt được trong thập kỷ qua. Sản lượng công nghiệp
của EU trở lại mức của những năm 1930, 23 triệu người hay 10% dân
số độ tuổi lao động bị thất nghiệp.
- Kinh tế các nước Eurozone lần đầu tiên kể từ ngày được thành lập năm
1999, đã rơi vào giai đoạn suy thoái, do tăng trưởng âm (GDP đều
giảm 0,2%) trong hai quý liên tiếp. Sang đến đầu năm 2009, kinh tế

các nước Eurozone tiếp tục sụt giảm 0.5% sau khi chỉ tăng 1.1% năm
2008.
- Lạm phát ở khu vực Eurozone tăng lên mức kỷ lục vào tháng 6/2008
với 4%, vượt cả mức dự đoán xấu nhất là 3,9% và gấp đôi so với mục
tiêu 2% mà ECB đặt ra.
- Tỷ lệ thất nghiệp ở EU lên cao nhất trong 10 năm qua ở châu lục này.
Bước sang năm 2010, mặc dù đã qua đáy của khủng hoảng, bắt đầu
bước sang giai đoạn phục hồi, đến tháng 5/2010, tỷ lệ thất nghiệp tại
27 nước Liên minh Châu Âu vẫn ở mức cao nhất trong thập kỷ là 9.6%
còn trong khu vực eurozone là 10%. Đến tháng 4 năm 2012 con số này
đã tăng lên tới 11% đây là tình trạng báo động cho sự phục hồi của
khối.
- Xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng là những động lực chính thúc đẩy kinh
tế EU tăng trưởng. Khủng hoảng tài chính làm thương mại toàn cầu
suy giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới kim ngạch xuất khẩu của EU
10
nói chung và eurozone nói riêng. Việc đồng euro lên giá cũng làm giả
đáng kể giá trị xuất khẩu của toàn khối
- Cùng với suy giảm kinh tế, thất nghiệp gia tăng, việc áp dụng các gói
giải cứu như hạ lãi suất, cắt giảm thuế, bơm tiền ồ ạt cho hệ thống
ngân hàng tài chính đã làm nảy sinh vấn đề thâm hụt ngân sách và nợ
công gia tăng ở một loạt quốc gia, vượt xa giới hạn cho phép của Liên
minh là thâm hụt không quá 3% GDP, nợ công không quá 60% GDP.
1.2, thực trạng của Hy Lạp
- Hy Lạp là một quốc gia nhỏ ở Nam Âu, là thành viên của khu vực đồng
tiền chung Châu Âu. Dân số Hy Lạp khoảng 11 triệu người chiếm 2,2%
EU, đóng góp 2.8% GDP của EU. Hy Lạp có thu nhập bình quân đầu
người khoảng 15360USD, bằng khoảng 2/3 các nước phát triển trong
Eurozone. Tỷ lệ thất nghiệp trung bình là 10.2% (trong khi tỷ lệ này ở
EU là 10%) nhưng lại duy trì được tốc độ tăng trưởng cao so với các

nước trong EU-16.
- Những chính sách cải cách kinh tế hợp lý cùng với việc gia nhập Liên
minh Châu Âu đã thúc đẩy nền kinh tế Hy Lạp phát triển mạnh mẽ,
đồng thời nâng cao mức sống cho người dân Hy Lạp. Chỉ số phát triển
con người xếp thứ 22 trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng thường xuyên
nằm ở mức cao nhất so với các nước trong Eurozone. Bình quân giai
đoạn 2000 – 2009, GDP của Hy Lạp tăng trưởng khoảng 3.1%.
Biểu đồ về tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Hy Lạp ( 1999-
2009)
- Đơn vị: %
11
- Nguồn: TradingEconomics.com; NSS
- Kinh tế Hy Lạp tăng trưởng hàng năm từ 2004-2007 khoảng 4% do một
phần là chi tiêu cho thế vận hội Athens 2004 và phần còn lại là sự gia
tăng của tín dụng mà đóng góp đáng kể là sự gia tăng của tín dụng tiêu
dùng. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng của quốc gia này chỉ còn là 0.7%.
Năm 2009, GDP tăng trưởng âm, đạt mức -2.5% và đà tăng trưởng âm
này vẫn tiếp diễn trong năm 2010 đặc biệt năm 2011, GDP tăng trưởng
âm, đạt mức -6,9% là kết quả tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
thế giới, các biện pháp thắt chặt điều kiện tín dụng, và thất bại của
Athens để giải quyết thâm hụt ngân sách ngày càng tăng, gây ra do các
nguồn thu của nhà nước không tăng kịp với nhu cầu chi tiêu chính phủ,
thậm chí, một số loại thuế còn phải chịu áp lực cắt giảm do nhiều
nguyên nhân khác nhau.
- Nợ công, lạm phát, thất nghiệp của Hy Lạp luôn ở mức cao so với trung
bình chung của khu vực eurozone.
Biểu đồ tỷ lệ lạm phát ở Hy Lạp từ 1/2002-1/2010
- Đơn vị: %
12
-

- Nguồn: TradingEconomics.com; NSS
1.3, thực trạng của Tây Ban Nha
- Tây Ban Nha là nước nằm trên bán đảo Iberia nằm ở phía tây nam của lục địa
châu âu với diện tích 504.030 km2 lớn thứ hai ở tây âu. Là quốc gia có nền kinh tế
đứng thứ 9 trên thế giới và thứ tư tại châu âu và có chỉ số HDI đứng thứ 15 trên
thế giới với GDP trên 1000 tỉ euro và thu nhập đầu người đứng thứ 25 trên thế giới
- Là một nước có nền kinh tế phát triển nhưng ở Tây Ban Nha cũng tồn tại rất
nhiều vấn đề trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng trung bình của Tây Ban
Nha vào khoảng 0,7% nhưng tỉ lệ thất nghiệp luôn vào loại cao nhất trên thế giới
với tỉ lệ thất nghiệp vào khoảng 21,7% năm 2011 đặc biệt tập chung ở giới trẻ do
đó tình trạng càng trở nên trâm trọng hơn.
- Bóng đen của cuộc khủng hoảng nợ công đang bao trùm nền kinh tế Tây Ban
Nha với việc thâm hụt ngân sách tăng cao cộng thêm vào đó sự sụp đổ của hệ
13
thống ngân hàng sau khi bong bóng bất động sản xì hơi. Nếu Tây Ban Nha sụp đổ
thì coi như toàn bộ EUROZONE sẽ sụp đổ.
2, Diễn biến khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp và Tây Ban Nha
2.1, diễn biến khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp
Cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đã làm rung động thị trường tài
chính châu Âu và toàn cầu. Khủng hoảng nợ công ảnh hưởng đến không chỉ một
vài nước trong khu vực châu Âu (Ailen, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…) mà liên
quan đến hầu hết các nền kinh tế thế giới.
Những diễn biến quan trọng trong khủng hoảng nợ châu Âu tính từ tháng
11/2009 khi chính phủ mới của Hy Lạp tuyên bố nâng gấp đôi ước tính về thâm
hụt ngân sách năm 2009
- 11/2009. Thủ tướng Hy Lạp cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 sẽ ở
mức 12,7% GDP, cao gấp đôi con số công bố trước đó và sẽ cố gắng cứu
Hy Lạp khỏi khả năng vỡ nợ.
- 22/12/2009, Moody xếp hạng nợ công Hy Lạp từ A1 xuống mức A2 bởi
thâm hụt ngân sách của nước này tăng cao. Đây là cơ quan thứ ba hạ xếp

hạng tín dụng của Hy Lạp.
- 14/01/2010, Chính phủ Hy Lạp công bố kế hoạch bình ổn, tuyên bố muốn
giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 208% GDP vào năm 2012.
- 11/4/2010, Bổ trưởng tài chính các nước thuộc khu vực đồng tiền chung
châu Âu chấp thuận kế hoạch 30 tỷ euro dành cho Hy lạp, tuy nhiên Hy
Lạp tuyên bố không cần.
- 23/4/2010, Hy Lạp cầu cứu EU và IMF.
- 02/5/2010, Thủ tướng Hy Lạp cho biết, chính phủ nước này đã đạt được
thỏa thuận với EU và IMF để nhận được gói giải cứu, đổi lại nước này phải
giảm chi tiêu 30 tỷ euro trong 3 năm tới.
- Ngày 18/5 Hi Lạp đã nhận được khoản vay đầu tiên trong gói cứu trợ kéo
dài 3 năm của 10 nước châu Âu, trong đó có Đức, và IFM nhằm tránh khả
14
năng phá sản. Gói cứu trợ kéo dài 3 năm này được đưa ra nhằm giúp Hi
Lạp không cần dựa vào thị trường tài chính cho tới cuối năm 2011 và quý
đầu của năm 2012. Khoản giải ngân này đã giúp Hi Lạp trả món nợ trị giá
8,5 tỉ euro đáo hạn vào ngày hôm sau. Khoản nợ tiếp theo mà chính phủ Hi
Lạp cần phải chi trả trị giá 8,6 tỉ euro sẽ đáo hạn vào tháng 3/2011.
- Nằm trong kế hoặc thắt lưng buộc bụng nhằm nhận được gói cứu trợ, vào
đầu tháng 3/2010 chính phủ Hi Lạp đã phê chuẩn một kế hoạch cắt giảm
chi tiêu bao gồm: cắt giảm ngân sách dành cho y tế, quốc phòng, tăng thuế,
lãnh đạo Hy Lạp tuyên bố một chính sách lương thưởng hà khắc đối với
khối dịch vụ công: cắt giảm lương của khu vực công và cắt giảm lương
hưu, với mục tiêu cắt giảm quỹ lương khoảng 4%.
- Sau cuộc họp khẩn cấp ngày 21/07/2011 , lãnh đạo 17 quốc gia Eurozone
và IMF đã đồng ý cấp cho Hy Lạp 159 tỉ euro (229 tỷ $) với lãi suất 3,5 %
với thời hạn đáo hạn lên tới 30 năm , và co thể gia hạn thêm 10 năm nữa.
Ngoài ra , Eurozone cũng đưa ra một số loại hình bảo lãn đối với trái phiếu
chính phủ Hy Lạp để các ngân hàng Hy Lạp tiếp tục được ECB hỗ trợ
thanh khoản.

- Ngày 17/06/2012 diễn ra cuộc bầu cử tại Hy Lạp Cuộc bầu cử sẽ chọn ra
một liên minh chấp thuận những điều kiện khắc nghiệt của các gói cứu trợ
trị giá 130 tỷ euro (tương đương 160 tỷ USD) hoặc phản đối. Kết quả của
cuộc bầu cử này sẽ quyết định Hy Lạp có ở lại hay ra khỏi khu vực đồng
tiền chung châu Âu (Eurozone).
2.2, Diễn biến khủng hoảng nợ công ở Tây Ban Nha
Khủng hoảng nợ công tại Tây Ban Nha đã âm ỷ cháy từ lâu đặc biệt sau khi
khủng hoảng nợ công của Hy Lạp xảy ra thì nó được dịp bùng phát dữ dội chúng
ta sẽ điểm lại một số dấu mốc cua cuộc khủng hoảng nợ công xảy ra tại quốc gia
này:
15
- 29/01/2010, Chính phủ Tây Ban Nha công bố kế hoạch tiết kiệm 50 tỷ euro
tương tương 70 tỷ USD, trong đó tổng số tiền chi tiêu giảm tương đương
4% GDP. Lương lao động trong lĩnh vực công giảm 4%.
- 27/5/2010, Quốc hội Tây Ban Nha chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân sách
nhằm tiết kiệm 15 tỷ euro tương đương 18,4 tỷ USD.
- 28/5/2010, Fitch hạ xếp hạng tín dụng của Tây Ban Nha từ AAA xuống
AA+ bởi nợ tiêu dùng và doanh nghiệp tại nước này tăng lên mức quá cao,
đó là chưa kể đến nợ công đang ở mức đáng báo động.
- 8/6/2010, Công đoàn Tây Ban Nha công bố 75% người lao động trong lĩnh
vực công không đi làm để thể hiện sự phản đối kế hoạch thắt chặt chi tiêu
của Chính phủ.
- 10/6/2010, thỏa thuận cải tổ thị trường lao động Tây Ban Nha sụp đổ.
Chính phủ buộc phải áp dụng quy định tuyển dụng và sa thải lỏng lẻo hơn
dù không có sự hỗ trợ của Nghiệp đoàn Lao động.
- 3/4/2012 Chính phủ Tây Ban Nha do Đảng Nhân dân (PP) đứng đầu đã
trình Quốc hội nước này bản dự thảo ngân sách "thắt lưng buộc bụng" cho
năm 2012 với nhiều khoản chi phí bị cắt giảm mạnh nhằm giảm thâm hụt
ngân sách.
- 9/4/2012 Chính phủ Tây Ban Nha tuyên bố có kế hoạch cắt giảm 10 tỷ

Euro (tương đương 13 tỷ USD) chi tiêu cho các dịch vụ y tế và giáo dục
của nước này.
- 26/6/2012, Chính phủ Tây Ban Nha đã chính thức đề nghị khoản vay cứu
trợ 100 tỷ Euro từ các đối tác trong Eurozone, để giúp đỡ hệ thống ngân
hàng nước này vốn ngập đang nợ nần.
3, Nguyên nhân khủng hoảng nợ công Hy Lạp và Tây Ban Nha
3.1, Nguyên nhân khủng hoảng nợ công của Hy Lạp
Tác nhân bên ngoài và rõ nét nhất thường được các nhà lãnh đạo EU đề cập
là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Để cứu vãn nền kinh tế
16
khỏi cơn suy thoái, chính phủ Hy Lạp đã tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm
kích thích kinh tế phát triển. Gói hỗ trợ này làm gia tăng chi ngân sách và nợ công
một cách đáng kể. Tuy nhiên, thực trạng này diễn ra ở hầu hết các nước trên thế
giới, không chỉ có ở Hy Lạp và EU. Do vậy, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu chỉ là tác nhân thêm vào những vấn đề sẵn có trong nội tại nền kinh
tế Hy Lạp.
Ở trường hợp Hy Lạp, có thể thấy rằng khủng hoảng nợ công bắt nguồn từ
sự "lạm chi" và sự lơi lỏng của EU khi Brussel sốt ruột muốn đẩy nhanh tiến trình
hội nhập của Hy Lạp. Nói cách khác, những "ảo tưởng" về một viễn cảnh mới, về
ánh hào quang của EU đã khiến Athens phớt lờ mọi cảnh báo, tiếp tục mạnh tay
chi tiêu và hậu quả nhãn tiền đều như người ta đã thấy.
Sau đây chúng ta sẽ đi sâu vào những nguyên nhân riêng có của Hy Lạp.
3.1.1, Tác động từ bên ngoài tới Hy Lạp
3.1.1.1, Nạn nhân của bệnh thành tích
Có nhiều dẫn chứng thuyết phục cho thấy chính việc châu Âu nhiều lần làm
ngơ trước các hành xử vô nguyên tắc của thành viên khiến Hy Lạp ra nông nỗi
ngày nay.
Theo Hiệp ước Maastricht, để tham gia vào khu vực đồng tiền chung, các
quốc gia thành viên phải đáp ứng nhiều chuẩn mực, trong đó có quy định mức bội
chi của ngân sách phải nhỏ hơn hoặc bằng 3% GDP, có xem xét trường hợp mức

thâm hụt đang trong xu hướng được cải thiện hoặc mức thâm hụt lớn hơn 3%
nhưng mang tính tạm thời, không đáng kể, không là mức bội chi cơ cấu; nợ chính
phủ nhỏ hơn hoặc bằng 60% GDP, có xem xét các trường hợp đang điều chỉnh.
Theo những quy định của Hiệp ước này, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham
gia khu vực đồng tiền chung Châu Âu vào tháng 5/1998. Nhưng 2 năm sau, ngày
1/1/2001, mặc dù chưa đủ chuẩn, Hy Lạp cũng được chấp thuận gia nhập vào khu
vực đồng tiền chung với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân sách
và nợ chính phủ. Tuy nhiên, đến nay, các ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của Hy
17
Lạp. Bội chi ngân sách và nợ nước ngoài không những không được cải thiện mà
có xu hướng ngày càng tăng.
a , Gia nhập vội vã
Tham vọng tạo ra một khối kinh tế chung có sức ảnh hưởng đã khiến cho
các thành viên sáng lập lúc bấy giờ muốn có càng nhiều thành viên càng tốt. Điều
đó khiến các tham vọng chính trị va vấp với những thực trạng về nền kinh tế các
quốc gia.
Đối với Athens khi đó, việc gia nhập khu vực sử dụng đồng Euro
(Eurozone) vừa là vấn đề danh dự, vừa là sự cần thiết, vì nếu Hy Lạp sử dụng
đồng tiền chung, giới đầu cơ tiền tệ sẽ không thể tấn công và nền kinh tế của nước
này sẽ có được sự bình ổn. Bên cạnh đó, việc tham gia “câu lạc bộ nhà giàu”
Eurozone cũng đồng nghĩa với việc Hy Lạp có thể tiếp cận được với nguồn vốn tín
dụng lãi suất thấp.
Bất chấp tất cả, các quốc gia châu Âu “làm đẹp” sổ sách bằng mọi giá để
kịp tiến độ gia nhập. Lúc đó, con số “sạch đẹp” thâm hụt 4% của Hy Lạp khiến
một số người nghi ngờ.
Thần kỳ hơn khi Hy Lạp giảm được mức thâm hụt xuống còn 2,5% vào
năm 1998 và dự báo lúc bấy giờ nói thâm hụt chỉ còn 1,9% vào năm 1999. Cả
châu Âu đã hoan hô thành tích này, tung hô Hy Lạp như một câu chuyện thần kỳ
khiến một số nước phải ngưỡng mộ. Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha cũng cố
gắng “đạt thành tích” thâm hụt chỉ 3%.

b, những số liệu ma
Quả đúng như người ta nghi ngờ. Tháng 3.2000, dưới một tiêu chuẩn kế
toán mới, cho thấy thâm hụt thực sự của Hy Lạp vào năm 1998 là 3,2%. Đến năm
2004 một báo cáo khác lại chỉ ra con số thâm hụt của Hy Lạp vào năm 1998 là
4,3%, bởi Hy Lạp đã nhập nhằng tiền chi tiêu mua sắm công với viện trợ chính
phủ đến 2 tỉ euro.
18
Không chỉ thế, Hy Lạp còn cố ý không tính đến một số chi tiêu quân sự
cũng như y tế trong tổng chi chính phủ. Ngược lại, quốc gia này còn xem một số
viện trợ từ châu Âu là khoản thu vào của chính phủ. Chính việc này đã làm cho
thâm hụt ngân sách của Hy Lạp giảm đáng kể so với tình hình thực tế của đất
nước.
Dưới áp lực từ châu Âu, Hy Lạp công bố là 3,2% bởi trước đó đã tính các
trợ cấp thuế ước tính của châu Âu vào nguồn thu chính phủ. Bốn tháng sau đó, Hy
Lạp thừa nhận đã bỏ qua một số khoản chi tiêu quân sự, tính cao lên giá trị thặng
dư an sinh xã hội cùng lãi suất thấp đi, nên con số thực phải là 4,6%. Đến tháng
3.2005, Hy Lạp “thành thật” thông báo thâm hụt của năm 2003 là 5,2%. Và trong
lần “thành thật” cuối cùng vào cuối năm đó, con số tăng lên mức 5,7%. Sau 18
tháng, số liệu thâm hụt năm 2003 đã tăng từ 2,6 tỉ lên 8,8 tỉ euro.
c, thiếu các biện pháp kiểm soát chặt chẽ từ EUROZONE
Vấn đề hiện tại của Hy Lạp cũng cho thấy thể chế tài chính của EU không
đủ năng lực và chuyên môn để kềm chế những thành viên không tuân thủ hiệp ước
của khối. Ngay từ khi thành lập, Liên minh tiền tệ đã được xem là công cụ cho liên
minh chính trị, nên các “sáng lập viên” chẳng hề quan tâm nhiều đến chuyện trừng
phạt thành viên vi phạm quy chế chung.
Chính sự thờ ơ, thiếu kiểm soát chặt chẽ này đã tiếp tay gây ra cuộc khủng
hoảng. Ở thời điểm đó, EU có thể nhìn rõ mối nguy hiểm của buông lỏng quản lý
và ra tay ngăn chặn.Tới năm 2004, việc Hy Lạp công bố số liệu kinh tế giả mạo đã
rõ như ban ngày. EU đã mở cuộc điều tra đầu tiên nhằm vào tình trạng bội chi của
Athens. Mặc dù Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat) thu thập đủ bằng chứng về

sự gian dối số liệu của Hy Lạp, nhưng các quan chức của châu Âu vẫn tuyên bố
rằng, việc trục xuất Hy Lạp khỏi Khu vực đồng tiền chung euro không phải là lựa
chọn của họ.
3.1.1.2, Tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập khu vực
Quá trình hình thành đồng tiền chung được chia thành ba giai đoạn nhằm
giúp các quốc gia điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hội nhập toàn diện và sâu
19
rộng - hàng hóa, vốn và sức lao động được tự do hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, hội
nhập cũng có mặt trái của nó. Đối với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu
thì đây thực sự là thách thức.
Việc gia nhập vội vã của Hy Lạp đã bộc lộ những mặt trái của nó. Với một
quốc gia có nguồn tài nguyên hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp, năng lực cạnh
tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thu ngân
sách giảm, chi an sinh xã hội cao.
Theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25% thuế xuất nhập
khẩu hàng hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lại được chuyển
vào ngân sách chung của EU. Điều này có nghĩa, các quốc gia có vị trí thuận lợi
về giao thông quốc tế: sân bay, bến cảng sẽ nhận được một nguồn thu đặc biệt từ
thuế nhập khẩu vào EU mà các quốc gia nhỏ hơn, ở vị trí bất lợi hơn như Hy Lạp
không nhận được; thậm chí đó là khoản thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu đang
tiêu thụ tại nước mình. Nguồn thu ngân sách của họ bị suy giảm.
Ngoài ra, tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di
dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi
phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này góp phần làm gia
tăng thâm hụt ngân sách.
3.1.1.3, Thiếu sót trong cơ cấu hiệp định Maastricht – Mối quan hệ giữa
chính sách tiền tệ và chính sách tài chính
Trong điều kiện nền kinh tế không có khủng hoảng, việc duy trì cam kết
giữ mức thâm hụt ngân sách nhà nước ở mức 3% GDP và tổng nợ công không

được vượt quá 60% GDP không gặp khó khăn gì đặc biệt. Nhưng khi cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới từ cuối năm 2008, hầu hết các nước tham gia hệ thống đồng
euro đã buộc phải phá rào trước cả hai điều khoản nói trên để cứu nguy ngành
ngân hàng, và qua đó, cứu nguy nền kinh tế. Hy Lạp là mắt xích yếu nhất trong sợi
dây chuyền Euro. Trước khủng hoảng, nước này có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất
trong khối EU nhờ tập trung phát triển các ngành dịch vụ, ngân hàng, du lịch và
20
địa ốc. Tuy nhiên, kinh tế ngầm chiếm tới hơn 30% GDP và sản xuất kém phát
triển nên nước này luôn phải nhập siêu. Khủng hoảng nổ ra, nợ công lên tới 115%
GDP (gấp đôi quy định của hiệp ước) và thâm hụt ngân sách quốc gia là 14% GDP
(cao hơn quy định 3,5 lần). Khả năng thanh toán nợ của Chính phủ Hy Lạp bị nghi
ngờ và các nhà đầu tư vội vã rút vốn khỏi Hy Lạp và không cho Chính phủ nước
này vay thêm tiền.
Việc cam kết giảm thâm hụt ngân sách về mức 3% được xem như bất khả
thi do: Hy lạp không thể hạ giá đồng euro để khuyến khích xuất khẩu, thứ hai là
Chính phủ không thể tự ý điều chỉnh lãi suất cơ bản để vực dậy nền kinh tế. Nếu
đứng ngoài khối euro, làm hai việc trên không khó đối với Hy Lạp.
Đồng tiền chung hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu bao gồm Ngân
hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 16 ngân hàng trung ương của các quốc gia
thành viên. ECB điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát.
Cụ thể, lãi suất trên thị trường tiền tệ phụ thuộc vào chính sách lãi suất do
ECB định đoạt. Lãi suất trái phiếu chính phủ lại do bộ tài chính của từng quốc gia
quyết định.
Quyết định của bộ tài chính phụ thuộc vào chính sách tài khóa của từng
quốc gia. Đối với một số nước có năng lực cạnh tranh kém hơn, thâm hụt ngân
sách lớn hơn các quốc gia khác trong khối, để bình ổn nền kinh tế, phát hành trái
phiếu chính phủ với lãi suất cao hơn là giải pháp được ưa chuộng. Vì vậy, khủng
hoảng nợ do mất khả năng chi trả chỉ còn là vấn đề thời gian.
Ngoài ra, so với các quốc gia khác, khoản chi phúc lợi - an sinh xã hội và
thu thuế của EU rất cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Thật vậy, Mỹ có

thu nhập bình quân đầu người là 34.320 đô la nhưng chỉ dành 19,4% GDP chi
phúc lợi và an sinh xã hội. Con số tương tự ở Nhật là 25.130 đô la Mỹ/người và
18,6%. Trong khi đó, tại EU, tỷ lệ này dao động từ trên 20-38,2%.
Để có tiền chi phúc lợi và an sinh xã hội, các nước buộc phải gia tăng các
khoản thuế. Thực tế cho thấy, tỷ lệ thu thuế tính trên GDP của các nước trong khối
EU cũng tăng vượt trội so với các quốc gia khác trên toàn cầu. Tỷ lệ này biến
21
động từ trên 30-50% GDP. Trong khi đó, tỷ lệ này tại Mỹ, Nhật, Canada lần lượt
là 28,2%; 27,4%; 33,4%. Chính điều này đã làm cho EU trở thành thiên đường của
hưởng thụ hơn là nơi hấp dẫn nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Lợi thế trong thu hút
nguồn vốn nước ngoài của EU cũng bị tác động
Là một thành viên của EU, trong các hoạt động kinh tế đối ngoại với các
quốc gia ngoài EU, Hy Lạp cũng gặp những khó khăn tương tự. Không chỉ bị tác
động bởi các yếu tố bên ngoài, Hy Lạp còn bị thất thế trong các giao dịch nội khối.
Là một quốc gia nhỏ, nghèo tài nguyên, năng lực cạnh tranh của Hy Lạp giảm.
Mặc dù Hy Lạp thiết lập một tỷ lệ thu thuế và chi phúc lợi và an sinh xã hội ở mức
trung bình của khu vực đồng tiền chung, nhưng nó cũng làm tăng mức thâm hụt
ngân sách, tạo áp lực gia tăng nợ công.
3.1.2, Yếu tố bên trong tác động tới Hy Lạp
3.1.2.1, Sự yếu kém trong điều hành đất nước
Gia nhập khu vực đồng tiền chung euro năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp
có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế. Đáng buồn thay, đây lại là nguyên nhân
khiến quốc gia này lâm vào cảnh “chúa chổm”.
a , Tham nhũng hối lộ trốn thuế xảy ra tràn lan
Hy Lạp hiện đang là một trong những nước có nạn tham nhũng nghiêm
trọng nhất EU. Dựa theo CPI (chỉ số nhận thức tham nhũng) của Tổ chức Minh
bạch Quốc tế (TI), Hy Lạp đứng cuối cùng, sau cả Rumani và Bungari.
Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp được ước tính vào khoảng 8%
GDP. Nói cách khác, khoảng hơn 50% số thâm hụt ngân sách năm 2009 của Hy
Lạp là do tham nhũng mà ra.

Và, điều thật nghịch lý, theo các nhà phân tích, chính sự trợ giúp của EU
trong những năm qua lại là “đòn bẩy” khiến tham nhũng ở Hy Lạp tăng lên nhanh
chóng. Chỉ tính trong vòng 3 thập kỷ kể từ khi Hy Lạp gia nhập EU, nước này đã
22
nhận được tổng cộng khoảng 300 tỷ euro tiền trợ cấp từ EU. Vậy mà, họ vẫn lâm
vào cuộc khủng hoảng nợ trầm trọng. Còn EU, lại một lần nữa phải “bơm tiền”.
Nhiều năm qua, các quan chức, chính trị gia ở Hy Lạp liên tục phải từ chức
vì liên quan đến tham nhũng, nhận hối lộ. Nhưng, cho đến nay, rất ít người bị xét
xử và kết án vì tội danh tham nhũng
Trong các bảng xếp hạng của TI về tham nhũng, cả ở EU hay chỉ trong
nhóm sử dụng đồng tiền chung châu Âu thì Hy Lạp luôn “đội sổ”. Theo tính toán,
hàng năm, nạn tham nhũng ở Hy Lạp đã lấy đi khoảng 10% GDP của nước này.
Còn người dân Hy Lạp, vì tham nhũng lan tràn trong giới công chức, quan chức
nên đã được coi như là những người “hối lộ chuyên nghiệp”. Chỉ tính riêng trong
năm 2009, tổng số tiền mà người dân Hy Lạp dùng để hối lộ lên đến 800 triệu
euro, trong đó phần lớn tập trung ở lĩnh vực y tế và xây dựng cơ bản.Còn giới kinh
doanh, bên cạnh việc hối lộ để có được những hợp đồng “béo bở” cũng tiến hành
đút lót để trốn thuế, gia tăng thu nhập cho cá nhân và Cty. Theo giới nghiên cứu,
tỷ lệ thất thoát thuế ở Hy Lạp thuộc hàng lớn nhất châu Âu và cũng là con số khá
cao trên thế giới khi hàng năm, số tiền thuế thất thoát lên tới 25%. Chính Bộ Tài
chính Hy Lạp cũng khẳng định, ở một nước phát triển như Hy Lạp, với dân số hơn
11 triệu người nhưng lại chỉ có khoảng 15 nghìn người kê khai có mức thu nhập
trên 100.000 euro/năm, quả là có… vấn đề.
Để vực dậy nền kinh tế đang bên bờ vực của cuộc khủng hoảng nợ, bên
cạnh việc nhận hỗ trợ 110 tỷ euro, Chính phủ Hy Lạp cũng đưa ra những cam kết
nhằm cắt giảm chi tiêu công, tăng nguồn thu cho Nhà nước thông qua biện pháp
tăng nhiều loại thuế. Chưa hết, Chính phủ của Thủ tướng George Papandreou còn
đề nghị người dân giúp đỡ đất nước, đơn giản bằng cách giữ lại mọi hóa đơn mua
hàng, để các cơ quan chức năng có thể đối chiếu, nếu cần thiết và truy thu thuế từ
các cơ sở kinh doanh nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách, từng bước đưa đất nước

thoát khỏi khó khăn.
b , chi tiêu công quá cao
23
Tham nhũng, trốn thuế là những tệ nạn khiến Hy Lạp ngày càng nghèo hơn
so với các nước trong EU, khiến nước này lâm vào cảnh nợ nần quốc tế chồng
chất. Thế nhưng, việc Hy Lạp lâm vào khủng hoảng nợ còn có sự “góp phần”
không nhỏ của việc chi tiêu công quỹ “siêu thoáng” cũng như những bộ máy công
quyền không ngừng “lớn mạnh” về số lượng, nhưng chất lượng, hiệu quả công
việc lại giảm đi rất nhiều.
b.1 , chi quỹ lương
Quỹ lương của khối dịch vụ công tại Hy Lạp đã tăng gấp đôi trong vòng 10
năm qua. Trong khi đó, nguồn thu không được cải thiện sau hàng loạt biện pháp
cắt giảm thuế để kích thích đầu tư.
Thỏa thuận tài trợ 110 tỉ euro chung của IMF và khối Liên hiệp châu Âu
cho Hy Lạp có chỉ ra rằng trong năm trước ngoài số tiền dùng trả lãi vay, có đến
75% phần chi còn lại của ngân sách Chính phủ Hy Lạp là để duy trì một mức
lương và phúc lợi xã hội cao.
Theo một nguồn tin từ Bộ Tài chính Hy Lạp, trong năm 2009, Bộ này đã
tuyển dụng tổng cộng khoảng 27.000 công chức mới, nhưng số công chức chỉ đến
công sở “ngồi chơi xơi nước” chiếm tới 1/3. Rõ ràng, ngân sách quốc gia Hy Lạp
đang phải oằn mình gánh chịu một lượng công chức khổng lồ mà không có cách
nào giảm tải được bởi trong Hiến pháp nước này có điều khoản cấm việc sa thải
công chức Nhà nước.
Tính đến năm 2009, lượng công chức ở Hy Lạp chiếm tới 1/4 số người làm
công ăn lương ở nước này. Số lượng nhiều là thế, nhưng những người được gọi là
“công chức Nhà nước”, dù làm ít hay nhiều, vẫn được hưởng mức lương khá cao
so với mức lương bình quân ở những khu vực khác. Chỉ tính tiền lương thu nhập
chính (chưa tính tiền thưởng, tiền hỗ trợ), sau khi trừ đi các khoản, bình quân 1
công chức lĩnh được 1.350 euro/tháng. Trong khi đó, bình quân mỗi tháng, người
làm công ăn lương ở các khu vực kinh doanh ngoài Nhà nước chỉ được lĩnh

khoảng 750 euro.
24
Lương bình quân đã cao, việc thì không nhiều, thế nhưng, hầu hết công
chức ở Hy Lạp đều được thưởng thêm vào dịp cuối năm. Như vậy, lương bình
quân đã cao, thưởng cũng nhiều, trong khi việc làm thì ít, lại không có nguy cơ bị
sa thải nên 2 chữ “công chức” luôn là mơ ước của rất nhiều người trong độ tuổi đi
làm.
Tất nhiên, hậu quả của “công chức” là ngân sách Hy Lạp năm nào cũng bị
bội chi. Thâm hụt ngân sách liên tục tăng cao. Và, đến năm 2009, nó đạt đến mức
12,7% (theo quy định của EU, mức thâm hụt ngân sách ở các nước thành viên
không được quá 3%). Với mức thâm hụt lớn như vậy, chẳng có gì ngạc nhiên khi
tổng số nợ quốc gia của Hy Lạp lên tới con số 300 tỷ euro vào năm 2009. Số nợ
này được coi là “khủng”, vì nó tương đương với 113,4% GDP một năm của Hy
Lạp. Con số này không chỉ làm Chính phủ Hy Lạp lo ngại mà ngay cả EU cũng
phải vội vã tìm cách trợ giúp để cứu vãn nền kinh tế Hy Lạp, tránh một sự phá sản
Nhà nước có thể ảnh hưởng dây chuyền tới tất cả các nước thành viên trong EU.
Mức lương cao ở Hy Lạp không chỉ tạo ra gánh nặng ngân sách, nó còn làm
cho tính cạnh tranh của nền kinh tế nước này yếu đi. Chi phí nhân công cao và
tham nhũng tràn lan cũng ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), phần đóng góp của FDI trong năm 2008 chỉ là khoảng 1,7 tỉ euro trong số
hơn 35 tỉ euro thặng dư của cán cân này. Một phần đáng kể đóng góp vào cân đối
tài khoản vốn và tài chính năm 2008 của Hy Lạp đến từ đầu tư gián tiếp, mà có lẽ
việc phát hành trái phiếu chính phủ bán cho nhà đầu tư nước ngoài chiếm phần
không nhỏ.
Như vậy, có thể thấy cấu trúc cán cân thanh toán của Hy Lạp không hề cân
bằng, với phần lớn thâm hụt trên tài khoản vãng lai phải bù đắp bằng nguồn vốn
đầu tư gián tiếp chứ không phải vốn đầu tư trực tiếp, nghĩa là Hy Lạp gần như
hoàn toàn kỳ vọng vào bong bóng giá cổ phiếu và các khoản vay nước ngoài để
thu hút ngoại tệ bù đắp cho tài khoản vãng lai. Khi bong bóng cổ phiếu vỡ và khi
không thể vay thêm tiền, nước này đứng trước rủi ro vỡ nợ lớn (Hy Lạp không thể

25

×