Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ATM CỦA CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.64 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HỒ CHÍ MINH
Khoa Kế Toán – Kiểm Toán
o0o
TIỂU LUẬN MARKETING NGÂN HÀNG
Đề tài 5:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CO HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG ATM CỦA CÁC NGÂN HÀNG VIỆT
NAM HIỆN NAY.
Năm học 2011-2012
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HỒ CHÍ MINH
Khoa Kinh tế và Quản lý
o0o
TIỂU LUẬN MARKETING NGÂN HÀNG
Đề tài 5:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG ATM CỦA CÁC NGÂN HÀNG VIỆT
NAM HIỆN NAY.
Nhóm 11:
01. Nguyễn Thị Bích Ngọc MSSV: 070506090038 Lớp: B206KT01
02. Phạm Thị Ngọc Yến MSSV: 070506090057 Lớp: B206KT01
03. Đàm Thanh Quốc MSSV: 070506090043 Lớp: B206KT01
04. Võ Tuấn Quốc MSSV: 070506090053 Lớp: B206KT01
05. Cao thị Liên Trà MSSV: 070506090052 Lớp: B206KT01
06. Vũ Thị Thường MSSV: 070506090045 Lớp: B206KT01
07. Nguyễn T Thùy Dương MSSV: 070506090029 Lớp: B206KT01
Năm học 2011-2012
2
LỜI NGÕ
Ngày nay, khi Việt Nam đã gia nhập WTO thì ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư
vào Việt Nam về lĩnh vực ngân hàng, sự cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cũng ngày


càng khốc liệt hơn trước. Ngân hàng ngày càng nhiều thì người dân càng có nhiều sự lựa chọn.
Người ta lựa chọn ngân hàng để giao dịch bên cạnh tính an toàn còn có chất lượng dịch vụ mà
ngân hàng đó mang lại cho họ. Lợi ích của sản phẩm dịch vụ càng có nhiều tính tiện lợi, sự
mới mẻ thì sức thu hút khách hàng của ngân hàng đó càng cao. Trong số vô vàn sản phẩm dịch
vụ mà các ngân hàng mang đến cho khách hàng thì sản phẩm cụ thể nhất và là cầu nối để ngân
hàng tiếp cận với khách hàng đó là sản phẩm thẻ ATM. Đây cũng là một “ vũ khí “ đắc lực để
các ngân hàng thâm nhập thị trường. Vào Việt Nam khoản năm 1996, đến năm 2005 sự
xuất hiện của máy ATM trong khu vực dân cư ở Việt Nam vẫn còn phát triển khiêm
tốn, chưa được sử dụng rỗng rãi. Gần đây theo đà phát triển của thế giới, chiếc máy
ATM đã trở nên phổ biến, gần gũi với người dân. Tốc độ tăng trưởng của thị trường thẻ
ATM ngày càng cao, quy mô, số lượng phát hành và sử dụng ngày càng lớn. Tuy
nhiên bên cạnh những tiện ích to lớn do việc sử dụng máy ATM vẫn còn tồn
tạinhững vấn đề hạn chế cần được quan tâm đòi hỏi phải có những giải pháp thích hợp.
Đề tài : “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng máy ATM tại Việt
Nam hiện nay” là một đề tài thực tế và gần gũi với con người dân Việt Nam nói chung
và sinh viên nói riêng.
3
Phụ lục
Trang
Lời ngõ 3
Phụ lục 4
Nội dung
Chương I Sơ lược về máy ATM 5
1.1 Khái niệm 5
1.2 Lịch sử ra đời 5
1.2.1 Trên thế giới 5
1.2.2 Tại Việt Nam 6
1.3 Sự phát triển của Máy ATM trên thế giới và Việt Nam 6
Chương II: Vai trò của máy ATM 7
2.1 Đối với người sử dụng 8

2.2 Đối với ngân hàng 8
2.3 Đối với nền kinh tế 8
Chương III Thực trạng phát hành thẻ ATM của các ngân hàng tại Việt Nam thời gian qua
3.1 Quy Mô Số Lượng Phát Hành Và Tốc Độ Tăng Trưởng 10
3.2 Chiến Lược Và Biện Pháp Mở Rộng Thị Trường 16
3.3 Liên Minh Thanh Toán Thẻ 18
Chương IV Thực trạng sư dụng máy ATM 18
4.1 Sử dụng ATM chưa thật sự an toàn 19
4.2 Dịch vụ ATM còn yếu 20
4.3 Hệ thống máy ATM thường xuyên bị quá tải 21
Chương V Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng máy ATM tại Việt Nam 23
5.1 Phát triển dịch vụ 23
5.2 Mở rộng mạng lưới 23
5.3 Cải tiến công nghệ 23
5.4 Đảm bảo quyền giao dịch cho khách hàng 24
5.5 Đảm bảo an toàn cho người sử dụng 24
Tài liệu tham khảo 26
4
NỘI DUNG
Chương I SƠ LƯỢC VỀ MÁY ATM
1.1. Khái niệm.
Máy rút tiền tự động hay máy giao dịch tự động (còn được gọi là ATM, viết tắt
của Automatic Teller Machine trong tiếng anh) là một thiết bị ngân hang giao dịch tự
động vớikhách hàng, thực hiện việc nhận dạng khách hàng thông qua thẻ (thẻ ghi nợ,
thẻ tín dụng) hay các thiết bị tương thích và giúp khách hàng kiểm tra tài khoản,
rút tiền mặt, chuyển khoản, thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ.
1.2. Lịch sử ra đời.
Ngành công nghệ thẻ ngân hàng tuy mới phát triển thật sự trong 25 năm gần đây
nhưng thẻ có một lịch sử lâu đời bắt nguồn từ việc các đại lý bán lẻ cung cấp tín dụng
cho khách hàng thông qua việc mua hàng trước trả tiền sau. Nhưng nhiều đại lý nhỏ

không đủ khả năng cung cấp tín dụng cho các khách hàng của họ các ngân hàng đã
tham gia vào việc này.
ATM (Automatic Teller Machine) - máy rút tiền tự động - ngày nay đã trở nên
phổ biến trên khắp thế giới. Người dân Việt Nam cũng chẳng mấy xa lạ với loại
máy rút tiền này. Chỉ cần vài phút, người tiêu dùng có thể thực hiện mọi giao dịch tài
chính tại bất cứnơi nào có đặt máy ATM mà không cần phải đến ngân hàng.
1.2.1. Trên thế giới:
Hiện người ta vẫn còn bàn cãi về người sáng chế ra máy ATM. Theo đó, Luther
George Simjian - một nhà phát minh người Thổ Nhĩ Kỳ - là người đầu tiên nghĩ ra "loại
máy có lỗ đặt áp vào tường" cho phép khách hàng có thể thực hiện mọi giao dịchtài
chính. Simjian bắt đầu đăng ký bằng sáng chế cho ý tưởng này vào năm 1939. Ông
đãcố thuyết phục một ngân hàng - ngày nay là Ngân hàng Citicorp - thử lắp đặt máy
phát tiền tự động này. Thế nhưng chỉ trong vòng 6 tháng sau, người ta phải tháo dỡ loại
máy trên do nhu cầu sử dụng không cao. Theo Simjian, khách hàng giao dịch qua máy
thường chỉ là các cô gái điếm và các con bạc vốn không thích thú việc giao dịch trực
tiếp với nhân viên thu ngân. Cũng có giả thuyết cho rằng máy phát tiền mặt
tự động đầu tiên là do John Shepherd-Barron sáng chế vào giữa thập niên
5
1960. Hồi đó xuất phát từ nhu cầu của bản thân muốn có thể rút tiền từ ngân hàng
bất cứ lúc nào nên ông đã nghĩ ra loại máy rút tiền tự động. Loại máy do Shepherd-
Barron chế tạo có thể thực hiện giao dịch bất cứ lúc nào với tần số 24/7 (tức 24
giờ/ngày và 7 ngày/tuần) và được lắp đặt lần đầu tiên tại chi nhánh Ngân hàng Barclays
ở London (Anh) vào năm 1967. Lúc đó, khách hàng chỉ được rút tối đa 10 bảng Anh
cho một lần giao dịch. Thế nhưng, các chuyên gia đã không công nhậnđây là loại
máy ATM vì chúng luôn nuốt thẻ và khách hàng phải mua thẻ khác nếu muốnthực hiện
một giao dịch nữa.Theo họ, loại máy ATM đầu tiên mà chúng ta đang sử dụng chính là
loại máy đã ramắt công chúng vào năm 1969 tại Ngân hàng Chemical Bank ở New
York (Mỹ). Tác giả của loại máy ATM trên chính là Don Wetzel - Phó giám đốc chi
nhánh kế hoạch sản phẩm của Docutel (một công ty chuyên về máy tự động xử lý hành
lý). Ông nảy ra ý tưởng tạo ra chiếc máy ATM hiện đại trong một lần xếp hàng chờ rút

tiền tại một ngân hàng ở Dallas. Ông trình bày ý tưởng của mình và được Công ty
Docutel hỗ trợ tài chính. Với số tiền 5triệu USD, Wetzel cùng 2 cộng sự đã chế tạo
thành công chiếc máy ATM đầu tiên trên thế giới. Họ được nhận bằng sáng chế vào
năm 1973.
1.2.2.Tại Việt Nam:
Máy ATM xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 1996 đến nay. Và đặc biệt là hiện
tại thì máy ATM đã có thêm một chức năng ngoài những chức năng đã có đó là: Bán
vàng thẻ. Chiếc máy này chính thức ra mắt vào ngày (9/10/2010) tại trụ sở chi nhánh
DongA Bank quận 5 TP.HCM, Ngân hàng Đông Á
1.3 Sự phát triển của Máy ATM trên thế giới và Việt Nam.
Trong năm 1969, Chemical Bank phát động chiến dịch quảng cáo ATM rầm rộ
với khẩu ngữ: "Kể từ ngày 2/9, ngân hàng chúng tôi sẽ mở cửa lúc 9 giờ sáng và sẽ
không baogiờ đóng cửa nữa". Thế là từ dạo ấy, khách hàng có thẻ tín dụng không cần
phải xếp hàngchờ đến phiên được nhân viên ngân hàng giải quyết cho rút tiền mặt nữa.
Chỉ cần đút tấm plastic có vẹt từ trường vào một cái máy ATM, khách hàng có thể rút
tiền mặt bất cứ lúcnào mình thích, kể cả ngày cuối tuần.Tiếp sau Chemical Bank, nhiều
ngân hàng khác cũng bắt đầu chiến dịch lắp đặt vàquảng bá máy ATM. Năm 1973, tại
Mỹ đã có 2.000 máy ATM hoạt động trên toàn quốc
6
Chi phí cho một máy ATM lúc bấy giờ vào khoảng 30.000 USD. Hiện nay riêng
ở Mỹ, sốlượng máy ATM được đưa vào sử dụng lên đến 371.000 cái. Bạn có thể thấy
ATM khôngchỉ có trong các siêu thị, sân bay mà còn hiện diện trong nhiều cửa hàng
bán thức ăn nhanhMcDonald hay các cửa hàng rượu nhỏ ở Mỹ. Ngay cả ở khu
vực núi đá cheo leo SouthRim thuộc dải Grand Canyon hiểm trở ở bang
Colorado (Mỹ) cũng có máy ATM. Ngàynay, ATM hiện diện ở khắp mọi nơi
trên thế giới, thậm chí vành đai Bắc cực hay trạmquan sát McMurdo Station ở
Nam cực cũng có vài máy. Nếu Nữ hoàng Anh Elizabeth IIcần một ít tiền để "boa"
cho các cảnh vệ của mình, bà có thể rút tiền từ máy ATM được lắpđặt sẵn trong cung
điện Buckingham ở London.
7

Chương II: VAI TRÒ CỦA MÁY ATM
2.1. Đối với người sử dụng.
Sự xuất hiện của máy ATM mang đến một dịch vụ tiện lợi nhanh chóng phục vụ
tốt cho nhu cầu giao dịch tiền tệ trong cuộc sống hiện đại khách hàng có nhu cầu
sử dụng tiền tệ không cần phải tốn thời gian và công sức để đến ngân hàng và đối mặt
với các thủ tục phức tạp, tại đó, giao dịch được thực hiện một cách nhanh chóng trong
suốt 24/24 giờ trong ngày và 7ngày trong tuần. Mặt khác việc những chiếc máy ATM
của các ngân hàng được đặt trong các siêu thị sẽ rất tiện lợi cho người dân, có thể
không cần phải đem quá nhiều tiền mặt trong người. Chiếc máy ATM cung cấp các
dịch vụ như : rút tiền, gửi tiền ,in sao kê, kiểm tra tài khoản, chuyển tiền, mua vàng,
thanh toán tiền điện nước và ngày càng đa dạng các dịch vụ khác.
2.2. Đối với ngân hàng.
ATM là một kênh huy động vốn nhàn rỗi đáng kể trong dân chúng khi mà tiền của
người dân đều được huy động trong tài khoản ngân hàng. Số tiền khổng lồ này sẽ giúp
ngân hàng tăng nguồn vốn hoạt động đồng thời có được nguồn thu vững chắc từ việc
cung cấp các dịch vụ thanh toán thông qua hệ thống thẻ ATM. Điều này hết sức có lợi
cho các ngân hàng trong cuộc đua huy động vốn hiện nay.
2.3. Đối với nền kinh tế.
Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển một nền kinh tế tiên tiến khi người dân thanh
toán không dùng tiền mặt thì vòng quay tiền tệ tăng lên làm gia tăng tốc độ phát triển
của nền kinh tế
Việc trả lương thanh toán các khoản qua hệ thống thẻ ATM hạn chế tình
trạng trốn thuế của các đơn vị, hộ kinh doanh, không muốn minh bạch nhận tiền thanh
toán bằng thẻ, vì như thế sẽ khai báo chi tiết nguồn thu của họ trên sao kê tài
khoản tại ngân hàng thông qua việc giám sát các hoạt động thanh toán của hệ
thống các ngân hàng thương mại ngân hàng trung ương có thể biết được lượng tiền
đang lưu thông ,do đócó thể xác định được lượng cung, lượng cầu tiền để từ đó đề
ra các chính sách tiền tệ,chính sách tài khóa một các hữu hiệu, giảm thiếu lạm phát,
giúp nền kinh tế phát triển bền vững.
8

Việc tự động hóa trong giao dịch sẽ nâng cao chất lượng của hệ thống tài
chính quốc gia, từng bước giảm dần thanh toán bằng tiền mặt, tạo điều kiện thuận lợi
cho một nền kinh tế hiện đại phát triển và đáp ứng nhu cầu hội nhập trong tương lai của
kinh tế Việt Nam.
9
Chương III THỰC TRẠNG PHÁT HÀNH THẺ ATM CỦA CÁC
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
ANZ là ngân hàng đầu tiên lắp đặt máy ATM ở Việt Nam. Khi đó cả
nước mới chỉ có 2 máy ATM. Việc sử dụng máy ATM thực sự phát triển
khoảng 10 năm gần đây.
3.1 Quy Mô Số Lượng Phát Hành Và Tốc Độ Tăng Trưởng
Đến giữa năm 2004, chỉ có khoảng 11 NH tham gia thị trường phát hành và thanh
toán thẻ. Trong đó Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) dẫn đầu do có
hệ thống ATM lớn nhất khắp cả nước, tiếp sau là các Ngân hàng: Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), Ngân hàng Á Châu (ACB), Ngân hàng
Công thương Việt Nam (Incombank), và Ngân hàng Đông Á (EAB). Các ngân hàng chỉ
mới trang bị được khoảng 450 máy ATM để phục vụ các giao dịch của chủ thẻ. Từng
ngân hàng cụ thể thì số máy này còn tệ hơn vì hệ thống ATM của mỗi ngân hàng hoạt
động riêng lẻ. Ngoại trừ Vietcombank với 280 máy rải ra khắp cả nước, các ngân hàng
còn lại mới chỉ trang bị từ dăm đến vài chục máy. Đến cuối năm 2004, theo báo cáo của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông vẫn còn chiếm đến
20,35% tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Con số này đã giảm 1/3 so với
cách đây một chục năm, nhưng vẫn còn rất cao so với trình độ thế giới. Nói chung chiếc
thẻ ATM vẫn chưa là vật quen thuộc. Cho thấy đến cuối năm 2004 tình hình phát và sử
dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt-thẻ ATM tại Việt Nam vẫn chưa cao.
Đến năm 2005 quy mô và số lượng thẻ ATM được phát hành tăng lên đáng kể.
Chỉ trong 4 tháng đầu năm số lượng thẻ ATM phát hành tại Ngân hàng Incombank đã
là 50.000 thẻ với số lượng máy ATM là 135 máy. Ngân hàng Agribank cũng đạt 50.000
thẻ đưa tổng số thẻ phát hành lên 150.000 trên tổng số máy là 254 máy. Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển (BIDV) đạt con số khiêm tốn hơn với tổng số thẻ là 76.000 thẻ và gần

200 máy. Riêng Vietcombank số lượng thẻ của Ngân hàng lên đến vài triệu thẻ và có
đến 400 máy ATM, nếu tính đến các máy ATM liên kết với một số ngân hàng khác (thẻ
ATM của các ngân hàng liên kết có thể sử dụng trên máy ATM của nhau) thì tổng số là
450 máy. Tuy nhiên vẫn còn một số lượng lớn các điểm mua sắm có thể chấp nhận
10
thanh toán bằng thẻ. Số máy ATM không lớn nhưng còn lại bị chia nhỏ ra cho nhiều
ngân hàng và nhiều địa phương. Ngay như ngân hàng Vietcombank có thị phần nhiều
nhất nhưng chưa đến 500 máy. Còn hệ thông kết nối VNBC (Vietnam Bank Card) chỉ
có 178 máy trên toàn quốc. Số lượng khách hàng tiềm năng lúc bấy giờ còn rất lớn với
hơn 100.000 doanh nghiệp và hàng chục triệu hộ gia đình. Trong khi đó đến thời điểm
lúc này chỉ duy nhất Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn là có mạng lưới
chi nhánh đến một số xã. Mặt dù vây nhưng khi so sánh hai móc thời gian: giữa năm
2004 và giữa năm 2005 ta thấy được tốc độ tăng trưởng của thị trường thẻ ATM tại
Việt Nam là rất lớn. Số lượng máy tăng hơn 2 lần, số lượng thẻ tăng hơn 5 lần, mức
tăng trưởng trên 200% một năm đã là rất cao. Ngoài ra những tháng cuối năm 2005
người có thẻ ATM đa năng có thể giao dịch tại một số máy ở Trung Quốc, Hong Kong,
Thái Lan, Singapore, Philippines. Cho thấy thị trường thẻ ngày càng mở rộng hơn cả
trong lẫn ngoài nước.
Với đà tăng trưởng đó đến đầu năm 2006 loại thẻ được sử dụng nhiều nhất tại Viêt
Nam là thẻ ATM do nhiều ngân hàng phát hành. Cuối tháng 01 năm 2006 mức tăng
trưởng của thị trường thẻ ATM đã trên 300%. Nếu như giữa năm 2005 trên toàn quốc
chỉ có khoảng 1000 máy và gần 2 triệu thẻ thì đến thời điểm tháng 05/2006 cả hệ thống
đã có gần 2000 máy và hơn 2,1 triệu thẻ ATM được đưa vào sử dụng. Đến dây, liên
minh thẻ Vietcombank (VCB) đã đạt gần 1 triệu thẻ và dự kiến trong năm 2006 tăng lên
1,5 triệu thẻ. Còn hệ thống VNBC (Vietnam Bank Card) của ngân hàng Đông Á thì với
400.000 thẻ, dự kiến đạt 1,2 triệu thẻ vào cuối năm 2006. Đến thời điểm này đã có
khoảng 20 thương hiệu thẻ khác nhau được tung ra thị trường và cuộc cạnh tranh giữa
các ngân hàng là vô cùng sôi động.
Theo thống kê của Hội thẻ ngân hàng Việt Nam, tính đến cuối năm 2009,
về thị phần thẻ nội địa, Ngân hàng Nông nghiệp (Agribank) đã vượt lên trở thành ngân

hàng cósố lượng thẻ ATM lớn nhất Việt Nam với gần 4,2 triệu thẻ, chiếm 20,7%
thị phần. Tiếp đến là Ngân hàng cổ phần Đông Á với 4 triệu thẻ, chiếm 19,8%
thị phần; đứng thứ ba làVietcombank với 3,85 triệu thẻ, chiếm 19% thị phần.Tương
ứng đó :Về lượng máy ATM, tới cuối năm 2009 Agribank cũng giữ vị trí số một với
1.702máy (chiếm 17,5% thị phần), tiếp theo là Vietcombank 1.483 máy (15,3%),
11
Vietinbank đứng thứ ba với 1.042 máy (10,7%). Đi kèm với việc đoạt “ngôi vương” về
lượng thẻ pháthành cũng như số máy ATM, nguồn tin từ một lãnh đạo của
Agribank cho biết, tỷ lệ thẻATM hoạt động thực sự của ngân hàng này khoảng từ
85% đến 90%.Tuy nhiên, Agribank lại không lọt vào top 3 ngân hàng có doanh
số giao dịch thẻlớn nhất (thẻ ATM chiếm hơn 93%). Giữ vị trí số một vẫn là
Vietcombank với thị phần30,7% (doanh số 100.828 tỷ đồng). Ngân hàng Đông
Á đứng thứ 2 với 19,5% (64.036 tỷđồng), Vietinbank đứng thứ 3 với 12,95%
(42.580 tỷ đồng). Dù có “ngôi vương” về lượng thẻ và số máy ATM nhưng thị phần
về doanh số giao dịch của Agribank chỉ là 12,51%(bằng 40% của Vietcombank ).
Trong thời gian gần đây các ngân hàng đã ra sức mở thêm nhiều máy mới và số
lượng thẻ phát hành của các ngân hàng ngày càng tăng. Đặc biệt là ngân hàng Nông
Nghiệp đã liên kết các với các khu công nghiệp bằng việc trả lương cho công nhân
thông qua thẻ ATM từ đó số lượng thẻ và máy của ngân hàng này không ngừng tăng
lên đến nay ước tính ngân hàng Nông Nghiệp đã có khoảng 566 máy trên phạm vi toàn
quốc với khoảng hơn 1 triệu thẻ được phát hành. Còn đối với Vietcombank họ đã phát
triển thẻ trong sinh viên bằng cách cho lắp đặt thêm nhiều máy ATM ở các trường đại
học và có nhiều chương trình phát hành thẻ miễn phí cho sinh viên nhờ đó mà số lượng
thẻ của Vietcombank đã phát triển rất nhanh.
Tóm lại đối với những sản phẩm, dịch vụ đang có điều dễ dàng thấy nhất là sự
12
bùng nổ dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa (ATM). Trong vòng 3 năm trở lại đây, với mức tăng
trưởng trên cho thấy nhu cầu cũng như sự hưởng ứng nhiệt tình của người tiêu dùng về
dịch vụ ngân hàng hiện đại là rất cao. Số tài khoản và số máy ATM được lắp đặt tăng
lên nhanh chóng và đã tạo một “cơn sốt” thực sự.

Sau đây là các bảng thống kê về số lượng địa điểm đặt máy ATM của một số
Ngân hàng.
Bảng: Số lượng địa điểm đặt máy ATM của Ngân hàng Nông Nghiệp
(Agribank)
Khu vực Số lượng
An Giang 4
Bà Rịa Vũng Tàu 15
Bạc Liêu 3
Bắc Kạn 1
Bắc Giang 4
Bắc Ninh 4
Bến Tre 6
Bình Dương 24
Bình Định 3
Bình Phước 4
Bình Thuận 3
Cà Mau 4
Cao Bằng 2
Cần Thơ 14
Đà Nẳng 21
Đắc Lắk 6
13
Đắc Nông 3
Điện Biên 2
Đồng Nai 12
Đồng Tháp 2
Gia Lai 2
Hà Giang 2
Hà Nam 2
Hà Nội 134

Hà Tây 9
Hà Tĩnh 2
Hải Dương 2
Hải Phòng 14
Hậu Giang 2
Hòa Bình 1
Hưng Yên 2
Khánh Hòa 11
Kiên Giang 3
Kon Tum 2
Lai Châu 2
Lâm Đồng 10
Lạng Sơn 4
Lào Cai 4
Long An 3
Nam Định 3
Nghệ An 2
14
Ninh Bình 3
Ninh Thuận 3
Phú Thọ 2
Phú Yên 2
Quãng Bình 2
Quãng Nam 8
Quãng Ngãi 4
Quãng Ninh 9
Quãng Trị 4
Sóc Trăng 10
Sơn La 2
Tây Ninh 3

Thái Bình 1
Thái Nguyên 3
Thanh Hóa 4
Thừa Thiên Huế 10
Tiền Giang 3
Thành Phố Hồ Chí Minh 128
Trà Vinh 2
Tuyên Quang 2
Vĩnh Long 3
Vĩnh Phúc 3
Yên Bái 2
(Nguồn: tổng hợp số liệu từ trang web www.agribank.com.vn)
15
3.2 Chiến Lược Và Biện Pháp Mở Rộng Thị Trường
Để có tốc độ tăng trưởng như trên các ngân hàng đã không ngừng áp dụng nhiều
chiến lược mở rộng, các chiến lược là không thể thiếu đối với ngân hàng vì hầu hết các
ngân hàng đều có mục đích kinh doanh là mở rộng thị trường, tăng quy mô thị phần
chiếm lãnh.
Sau đây là một số chiến lược mà các ngân hàng đã áp dụng:
Từ năm 2004, Ngân hàng Thương Mại cổ phần Đông Á (EAB) đã áp dụng hình
thức trả lương qua thẻ. Nhờ vậy mà khá nhiều công nhân, người nhập cư đã không còn
giữ tiền mặt vừa không sinh lãi lại thiếu an toàn. Hơn nữa khi nhận lương qua thẻ có
giao dịch thường xuyên qua thẻ khách hàng có thể được xét hạn mức thấu chi (tài
khoản hết tiền vẫn có thể rút tiền hoặc thanh toán, hoàn trả sau).
Đầu năm 2005, cũng đã có hình thức cho vay giải ngân qua thẻ với lãi suất khá
thấp. Theo đó, ngân hàng và người vay làm các thủ tục vay vốn và chuyển toàn bộ tiền
vay qua tài khoản thẻ ATM. Ngoài tiểu thương ở các chợ thì một số người còn vay để
xây nhà cũng đã sử dụng cách giải ngân thông qua thẻ, cần tiền đến đâu lấy đến đó.
Một chiến lựợc khác là mở ngân hàng trong các Trường Đại học. Nhu cầu sử dụng
thẻ của sinh viên theo học và cán bộ - công nhân viên là rất cao do đó chiến lược này đã

đem lại kết quả cao cho các ngân hàng.
Chiến lựợc giảm giá và thường xuyên có nhiều chương trình quà tặng cũng đã và
đang được các ngân hàng áp dụng và đã thu hút được nhiều người tham gia sử dụng thẻ.
Và cũng trong năm 2005 thì thẻ ATM cũng đã được sử dụng ở nước ngoài.
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã có kế hoạch chuyển toàn bộ các thẻ từ
ATM sang các thẻ thông minh (thẻ chip). Quyền lợi khách hàng của ngân hàng sẻ được
đảm bảo hơn khi sử dụng thẻ chip vì ngoài việc đảm bảo tiện ích như thẻ chip còn có
thể định danh người sử dụng, lưu trữ thông tin về các chương trình khuyến mãi, thậm
chí sức khỏe… đây là một xu thế tất yếu vì thẻ chip sẽ đáp ứng được các yêu cầu của
các tổ chức thẻ quốc tế.
Đến đầu tháng 2 năm 2006, Sở giao dịch hai Ngân hàng Công Thương đề ra chiến
16
lược sẻ cho vay tín chấp dùng vào mục đích sinh hoạt, tiêu dùng đối với những khách
hàng có thẻ ATM và trả lương qua thẻ. Mức vay tín chấp tối đa là 10 triệu. Điều này sẽ
thu hút thêm một số lượng người sử dụng thẻ thanh toán.
Gần đây, 28/3/2006 Ngân hàng Đông Á – chi nhánh Đà Nẵng đã tổ chức triển khai
chương trình “mở thẻ ATM lấy ngay” tại hội chợ giao lưu kinh tế Việt – Lào – Thái.
Với chương trình khách hàng có thể dễ dàng đăng ký, sử dụng ngay một chiếc thẻ đa
năng EAB miễn phí và lấy ngay. Cũng tại thời điểm này, EAB lắp đặt máy ATM hiện
đại nhất Việt Nam vừa có trên thị trường. Khách hàng có thể gửi tiền trực tiếp, rút tiền
mặt, chuyển tiền, thanh toán dịch vụ, mua các loại thẻ cào qua máy và một số chức
năng khác. Và đó cũng là một biện pháp mở rộng thị trường mà Ngân hàng đã sử dụng.
3.3 Liên Minh Thanh Toán Thẻ
Việc liên minh kết nối giữa các ngân hàng có ba cái lợi: thứ nhất là lợi cho khách
hàng do mạng lưới giao dịch được mở rộng, thứ hai khi “nhiều cây chụm lại” sẽ tăng
khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trong nước với các ngân hàng nước ngoài và
tiết kiệm được chi phí đầu tư, thứ ba tạo điều kiện để người dân giảm dùng tiềm mặt và
thanh toán qua ngân hàng
Các ngân hàng có thể kết nối với nhau qua hai cách. Phương án thứ nhất là lập
công ty chuyển mạch quốc gia đã được Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Ngoại

thương quan tâm, tuy nhiên vẫn có ngân hàng chưa chịu tham gia vì lý do chưa phù
hợp về công nghệ. Còn phương án thứ hai là giữa các ngân hàng tự thoả thuận, đối với
phương án này dù được đánh giá là dễ thực hiện do các ngân hàng tự quyết định nhưng
thực tế chẳng suôn sẻ vì việc làm “nhánh” của ngân hàng khác, đòi hỏi phải kết nối
“hàng ngang”, không lệ thuộc vào nhau.
Dù được thành lập từ tháng 7/2004 nhưng mãi đến ngày 21/4/2007 Công ty cổ
phần chuyển mạch tài chính quốc gia Việt Nam (Banknetvn) đã khai trương hệ thống
chuyển mạch Banknetvn. Mặc dù chưa phải là hệ thống có số lượng ngân hàng tham
gia đông nhất ở thời điểm hiện tại, nhưng Banknetvn là hệ thống có sự tham gia của 3
ngân hàng thương mại Nhà nước lớn nhất Việt Nam: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam và Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài
17
Gòn công thương,và tương lai có thể có sự tham gia của tất cả các ngân hàng thương
mại của Việt Nam, mang lại lợi ích lớn cho khách hàng dùng thẻ ở Việt Nam. Mục tiêu
chính của Banknetvn là xây dựng hệ thống chuyển mạch tài chính quốc gia kết nối các
hệ thống thanh toán thẻ nói chung, hệ thống ATM/POS nói riêng của các ngân hàng ở
Việt Nam, xử lý thanh toán bù trừ đối với các giao dịch thanh toán thẻ giữa các ngân
hàng.
18
Chương IV: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG MÁY ATM.
Hiện dịch vụ ATM ở Việt Nam chủ yếu phục vụ các giao dịch rút tiền mặt,
in sao kê. Có thể nói thị trường thẻ Việt Nam có sự phát triển bùng nổ trong những
năm qua, do phát triển quá nhanh lượng khách hàng mà cơ sở vật chất chưa đáp
ứng kịp nên có nhiềusự cố xảy ra. Điển hình như khi khách hàng rút tiền không
nhận đựoc tiền mà vẫn bị trừ vào tài khoản. VD: Chị Nguyễn Thị S ( TP.HCM) cho
biết có lần chị đặt lệnh rút 1,5 triệuđồng, máy ATM báo “giao dịch không thực
hiện” rồi tự trả thẻ. Chị đưa thẻ vào máy lầnnữa kiểm tra số dư nhưng chỉ nhận
được dòng chữ "giao dịch không hoạt động", chị chọnlệnh "in hóa đơn" nhưng máy
không thực hiện rồi trả thẻ. Về đến nhà, chị S nhận tin nhắntrên điện thoại di động:
tài khoản đã bị trừ 1.503.300 đồng…Không riêng gì chị S, rấtnhiều khách hàng

gặp những tình huống tuơng tự. Ngoài ra, việc rút tiền qua thẻ gặp sự cốluôn là vấn đề
bức xúc của nhiều khách hàng
Gần đây nhất là sự cố máy ATM rò điện gây chết người. Điều này gây hoang
mang không nhỏ cho người dân. Vì việc rút tiền nên bắt buộc mọi người luôn phải tiếp
cận vớimáy. Và qua kiểm tra tổng quát thì người dân cực kỳ hoang mang cụ thể là Theo
tổng hợpcủa ngành điện, qua kiểm tra khoảng 1.330 phòng đặt máy ATM đã phát
hiện hơn 120 phòng bị rò rỉ, có nguy cơ xảy ra tai nạn điện giật cho người rút tiền. Các
máy ATM thiếuan toàn này thuộc hầu hết các ngân hàng trên địa bàn
TP.HCM, như: Vietcombank,Vietinbank, Sacombank, Việt Á (VAB),
Miền Tây (Western Bank), Á Châu (ACB),Techcombank, BIDV, ANZ
Còn trên địa bàn TP.HÀ NỘI hiện có 1.128 máy ATM của các ngân hàng khác
nhau. Qua kiểm tra 100% số máy trên, các đội công tác đã phát hiện152 máy
không đảm bảo an toàn, gồm cả những máy bị rò điện và máy không có tiếp địa.Bên
cạnh những vấn đề trên thì hiện tượng phá máy trộm tiền của là một vấn đề cần phải có
biện pháp khắc phục cần thiết điển hình như vụ ở phường 13, quận Tân Bình. Cácđối
tượng dùng giấy báo che chắn kín buồng ATM và dùng bình hàn gió đá cắt bung tấmtrả
tiền tự động trên máy ATM, lấy đi 822 triệu đồng.Trong 02 tháng gần đây đã
có tới 9vụ trộm cắp tiền ở máy ATM lên tới 2 tỷ đồng Như vậy :
4.1 Sử dụng máy ATM chưa thật sự an toàn.
19
Có thể nói, ngày nay văn minh thanh toán không dùng tiền mặt đang được phổ
biến rộng rãi ở khá nhiều nước trên toàn thế giới. Một trong những công cụ góp phần
làm giảm việc thanh toán tiền mặt chính là những chiếc thẻ nhỏ gọn và xinh xắn,
được coi như là những “chiếc ví điện tử”. Tuy nhiên, trong thời đại khoa học
cực thịnh công nghệ cực thịnh như hiện nay và internet được phổ cập rộng rãi
và toàn cầu thì việc bảo mật cho những chiếc thẻ đang là một vấn đề làm đau đầu
các chuyên gia trong ngành ngân hàng bởi nạn làm thẻ giả và đánh cắp thông tin cá
nhân của thẻ qua các máy ATM đang ngày càng được phổ biến nhân rộng với những
cách thức tinh vi hơn điều đó đã được tổ chức thẻquốc tế cảnh báo từ rất lâu.Tuy
mới phát triển chưa lâu song có nhiều vụ khiếu kiện về việc mất tiền trong tài khoản

thẻ ATM mà “khổ chủ” - người sử dụng không biết kêu ai đành phải ngậm đắng
chịu thiệt thòi. Một trong những nguyên nhân chính là tính an toàn của dịch vụ
thẻ chưa được đảm bảo. Theo dự báo của các chuyên gia, đây chính là cuộc chiến mới
của các ngân hàng khi chấp nhận vào cuộc chơi với dịch vụ thẻ. Việc làm giả thẻ khá
phổ biến trên thế giới và chắc chắn các dịch vụ thẻ của Việt Nam cũng không là
ngoại lệ. Nhưng điều quan trọng hơn mà người dân quan tâm là các biện pháp
hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của khách hàng lại chưa có. Chính vì thế, khi cácngân
hàng Việt Nam có máy ATM bị rút tiền bằng thẻ tín dụng quốc tế giả thì họ
không phải chịu trách nhiệm gì về thiệt hại tài chính do thẻ tín dụng quốc tế giả gây
nên bởi đó làgiao dịch “hợp pháp”. Thực chất, thẻ tín dụng chỉ là một tấm thẻ
cung cấp các thông tincho hệ thống phần mềm máy tính sử lý, nếu các thông tin
đó là đúng thì máy tính sẽ tiến hành giao dịch. Ngoài ra, hiện nay ngân hàng và
người sử dụng vẫn phải giao dịch với nhau trên cơ sở pháp lý là quy chế phát hành thẻ
đã ban hành từ trước đó.Ngân hàng nhà nước chưa có bất kỳ quy định nào ràng buộc
các ngân hàng cung cấp dịch vụ thẻ phải trang bị camera an ninh tại nơi đặt máy ATM.
4.2 Dịch vụ máy ATM còn yếu.
Gần đây các ngân hàng đã lắp đặt thêm nhiều máy ATM trên toàn quốc. Tuy nhiên
dường như hệ thống giao dịch điện tử qua máy ATM vẫn chưa thực sự sẵn sàng vào
cuộc. Đó là chưa kể đến những thách thức không dễ khắc phục càng làm hạn chế
các tính năng của thẻ. Các ngân hàng phát hành thẻ chưa liên kết với nhau thành
một hệ thống nên thẻ của ngân hàng này phát hành không sử dụng được tại máy ATM
20
của ngân hàng khác. Dovậy dẫn đến tình trạng tại cùng một địa điểm nhưng phải có vài
máy ATM của từng ngân hàng khác nhau. Mặc dù vào ngày 21/4/2007 công ty cổ phần
chuyển mạch tài chính quốc gia Việt Nam đã đi vào hoạt động nhưng nó cũng chỉ
mới có 3 ngân hàng tham gia ,bên cạnh đó còn có 2 liên minh khác của
Vietcombank và Vietnam Bank Card tự thiết lập một hệ thống riêng nhưng về cơ bản
vẫn dựa trên hạ tầng đã có. Điều này cho thấy thị trường thẻ Việt Nam vẫn còn
trong tình trạng phân tán và chưa thể phát huy sức mạnh thực sự trong thời gian
tới, trong khi chức năng chính của thẻ là thanh toán thì đa số người tiêu dùng hiện nay

chỉ dùng thẻ để rút tiền mặt tại các máy ATM, từ đó dẫn đến hiểu sai chức năng
của thẻ.
Các địa điểm có lượng giao dịch đòi hỏi thanh toán nhiều như siêu thị, trung tâm
thương mại, nhà hàng hiện nay vẫn chưa có các máy đọc thẻ. Ngay tại một số siêu thị
lớn có máyđọc thẻ thì cũng không được trang bị tại tất cả các quầy thu ngân, do
đó khách hàng vẫngặp khó khăn khi muốn trả tiền bằng thẻ. Một bất cập khác của
thẻ ATM là chưa thật sự có nhiều tiện ích, hấp dẫn khách hàng. Mảng phát
triển mạnh nhất của dịch vụ thẻ này là trả lương qua tài khoản. Tuy nhiên,
mới chỉ có các công ty lớn, tập đoàn, liên doanh và các tổ chức nước ngoài
“sài”dịch vụ này. Các tiện ích khác như chuyển khoản, thanh toán bảo hiểm, tiền điện
thoại, tiền điện… hiện chỉ có một số ngân hàng áp dụng điển hình là ngân hàng Đông
Á EAB.
4.3 Hệ thống máy ATM thường xuyên bị quá tải.
Trong những năm gần đây, mặc dù thị trường thẻ ATM phát triển
nhanh chóng nhưng số lượng thẻ ATM phát hành còn rất thấp so với tiềm năng thị
trường. Tuy nhiên, hệ thống ATM đã bắt đầu có dấu hiệu quá tải. Hiện nay các ngân
hàng đang nỗ lực chạy đua trong việc phát hành thẻ, số lượng thẻ ATM không ngừng
tăng lên và hệ thống máy ATM cũng được các ngân hàng chú trọng đầu tư để
phục vụ nhu cầu sử dụng thẻ ATM của khách hàng. Tuy nhiên số lượng máy
ATM hiện có và mạng lưới chấp nhận thẻ vẫn còn khá ít đã gây ra tình trạng quá tải
trong hệ thống ATM nhất là vào những lúc cao điểm như ngày lễ, tết khi mà nhu
cầu rút tiền của người dân tăng cao. Điều này gây khó khăn cho người sử dụng và gây
tâm lý sử dụng thẻ ATM không tiện lợi so với sử dụng tiền mặt. Ngoài ra việc đặt máy
21
ở một số nơi công cộng như: siêu thị, nhà hàng, sân bay, nhà ga, khu công nghiệp,
trường đại học… cũng gây ra hạn chế về thời gian hoạt động do các máy không thể đặt
ở những nơi mở vì lý do an ninh không đảm bảo nên các máy ATM chỉ có thể hoạt
động trong giờ hành chính (nếu đặt trong các ngân hàng) hoặc đến 9-10 giờ tối(nếu đặt
ở siêu thị, nhà hàng, trung tâm thương mại…). Vì vậy trên lý thuyết máy
ATMhoạt động 24/24 giờ hiện nay chưa được thực hiện. Hơn nữa, việc các máy ATM

của Việt Nam hay bị hỏng cũng là một vấn đề gây trở ngại làm nản lòng người sử dụng.
Bên cạnh đó việc thẻ ATM do ngân hàng nào phát hành thì chỉ có máy của ngân
hàng đó mới sử dụng được cũng là một nguyên nhân góp phần làm quá tải hệ thống
máy ATM trong thời gian qua.Các ngân hàng trong thời gian qua liên tục đầu tư để
gia tăng số lượng máy ATM nhằm phục vụ nhu cầu sử dụng của khách hàng.
Thế nhưng hệ thống máy ATM của các ngân hàng phân bố chưa đồng đều và hầu
như chỉ phân bố ở thành phố lớn như thành phố HCM và Hà Nội (chiếm 46%). Tại các
thành phố này, các máy ATM cũng chỉ tập trung ở những nơi giao dịch của ngân hàng
là chủ yếu. Thêm vào đó hệ thống các điểm chấp nhận thẻ tương đối ít điều này đã làm
gây tâm lý ngại sử dụng thẻ ở khách hàng.
22
C h ươ n g V G I Ả I P H Á P N Â N G CA O HI ỆU Q UẢ S Ử DỤ NG
M Á Y ATM TẠI VIỆT NAM.
Tuy những mặt hạn chế vẫn còn tồn tại khá lớn, nhưng trong xu thế hội
nhập toàn cầu thì sự phát triển của phương thức thanh toán là quy luật tất yếu, nó vẫn
đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng, lợi ích cho cả nền kinh tế, thay đổi thói quen hạn
chế sử dụng tiền mặt của người dân, giúp hoàn thành mục tiêu của chính phủ là đưa
phương thức thanh toán này trở thành phổ biến ở Việt Nam và hạn chế lượng tiền mặt
lưu thông trong nền kinh tế.Tuy nhiên các ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất
lượng để phục vụ khách hàng, khai thác được tiềm năng to lớn của thị trường Việt Nam
5.1. Phát triển dịch vụ.
Hệ thống tài khoản và thẻ hiện nay được liên tục cải thiện và phát triển về dịch
vụ.Phát triển các dịch vụ Ngân hàng là giải pháp cần thiết. Trước đây đã có những quy
định bắt buộc phải thanh toán qua Ngân hàng. Nhưng kết quả là mệnh lệnh
hành chính đãchứng tỏ không hiệu quả và đến nay các giải pháp thị trường đã vào
cuộc. Khi mà dịch vụ Ngân hàng đã trở nên tiện lợi thì chẳng cần mệnh lệnh, người ta
cũng thanh toán qua Ngân hàng. Tuy nhiên việc phát triển dịch vụ trong giai
đoạn này cần tính đến vấn đề hội nhập.Vì thế cần đa dạng hóa các dịch vụ tiện
ích có thể thực hiện được trên máy ATM.
5.2 Mở rộng mạng lưới.

Để tăng sự tiện lợi cho người sử dụng, một giải pháp đơn giản là các Ngân hàng
cần tăng cường liên kết hệ thống thanh toán thẻ với nhau, mở rộng hơn các điểm chấp
nhận thẻ nhằm tạo ra lợi thế kinh tế theo quy mô. Câu nói ngày xưa: “một cây làm
chẳng nên non, ba cây chụm lại lên hòn núi cao” vẫn còn đúng trong trường hợp
này.Xây dựng trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất, kết nối các hệ thống máy
tính ATM của các liên minh thẻ hiện hành thành một hệ thống thống nhất, đảm bảo thẻ
do một ngân hàng phát hành có thể sử dụng ở nhiều máy ATM và POS của các ngân
hàng khác.
5.3 Cải tiến công nghệ.
23
Việc quá tải mạng, đường truyền trục trặc xảy ra thường xuyên sẻ ảnh hưởng
không nhỏ đến người sử dụng. Giải pháp hạn chế các sự cố là đầu tư nâng cấp hệ thống
xử lý mới để tăng tốc độ xử lý cho phù hợp. Ngân hàng cần có đường truyền dự phòng
tốt nhất là sử dụng riêng. Chất lượng giao dịch ATM phụ thuộc nhiều vào đường
truyền, việc nâng cao chất lượng đường truyền cần được cải thiện. Ngoài ra Ngân hàng
cần tăng cường hơn nữa tính năng cho thẻ. Thẻ ATM có nhiều tính năng sẽ thu hút
được nhiều đối tựơng sử dụng hơn.
Mục tiêu của các ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới là phát triển dịch vụthẻ,
dựa trên cơ sở công nghệ hiện đại, ngoài ra còn hướng tới phục vụ khách hàng
cácmáy ATM thế hệ mới được cải tiến mẫu mã, tính năng. Nếu như các dòng máy
ATM trước đây còn lạc hậu và chỉ có tính năng chính là rút tiền, thì nay có thêm
multimedia (nhạc,tiếng động), màn hình màu sắc sinh động và thêm rất nhiều
tính năng Có loại được tíchhợp thêm camera hoặc gương để theo dõi phía sau, đảm
bảo an toàn cho người sử dụng.
5.4 Đảm bảo quyền giao dịch cho khách hàng.
Vì quyền lợi của khách hàng, đơn vị cung ứng dịch vụ phải hạn chế đến
mức thấp nhất khả năng xảy ra gián đoạn, hết tiền,… trong giao dịch. Gián đoạn
trong giao dịchATM sẽ gây hậu quả lớn hơn nhiều so với nghẽn mạch của
điện thoại di động. nó ảnh hưởng đến cả sức mua của thị trường đặc biệt trong
những ngày lễ, tết hay cuối tuần. Vàđể bảo vệ quyền lợi của người sử dụng cần có

sự can thiệp của Nhà nước.Không chỉ ở Việt Nam các Ngân hàng trên thế giới có
cung cấp dịch vụ thẻ đều phải xử lý các trường hợp mất tiền trên tài khoản của khách
hàng theo nguyên tắc “khách hàng luôn đúng”. Nếu khách hàng cố tình gian lận thì
pháp luật sẽ sử lý. Nhưng Ngân hàng phải tin rằng khách hàng luôn đúng. Muốn vậy tất
cả các Ngân hàng cung cấp dịch vụ thẻ đều phải mua bảo hiểm rũi ro trong trường hợp
khách hàng bị mất tiền. Điều đáng tiếc làViệt Nam đã có các liên minh thanh toán thẻ
nhưng giữa các thành viên chưa có phối hợptốt với nhau trong việc chia sẻ thông tin
nhằm đảm bảo an ninh giao dịch, bảo đảm quyềnlợi cho người sử dụng.
5.5 Đảm bảo an toàn cho người sử dụng :
Hiện nay việc mất tiền từ thẻ rút tiền tự động (ATM) tăng dần và gây nhiều xôn
xaocho thị trường thẻ. Do đó các ngân hàng cần tăng cường các biện pháp ngăn
24
chặng tìnhtrạng trên. Khi người sử dụng đã cảm thấy an toàn thì nhu cầu sử dụng sẽ
tăng lên. Muốnvậy các Ngân hàng có thể áp dụng nhiều phương pháp ngân chặng như:
lắp đặt camera tạicác máy rut tiền, thông tin cho người sử dụng biết được nhiều thủ
đoạn gian lận, đánh cấpcó thể xảy ra từ đó đề phòng…Hiện nay nhiều nước trên thế
giới đã sử dụng thẻ chíp là loại thẻ được đánh giá làcó độ bảo mật an toàn cao.
25

×