Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Xử lý nợ xấu trong tín dụng ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.35 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự gia tăng của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân thì nhu cầu về nguồn vốn là điều tất
yếu. Điều đó kéo theo sự phát triển của hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên,
bản chất của hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là trước những
biến động kinh tế mặc dù được kiểm soát qua nhiều thủ tục nhưng ngân hàng
không tránh khỏi tình trạng không thu hồi được nguồn vốn vay nợ, nợ xấu ngày
càng gia tăng. Việc xử lý nợ, đặc biệt là nợ xấu dù được sự quan tâm, điều chỉnh
bảo vệ bởi hành lang pháp lý chặt chẽ nhưng vẫn thực sự là bài toán hóc búa đối
với các ngân hàng.Trong phạm vi bài tập cá nhân, bài viết xin đi vào tìm hiểu Xử
lý nợ xấu trong tín dụng ngân hàng- Những bất cập pháp lý và hướng hoàn thiện
1
NỘI DUNG
1.Khái quát về nợ xấu và xử lý nợ xấu trong tín dụng ngân hàng
1.2.Khái niệm nợ xấu
Để hiểu thế nào là nợ xấu thì trước hết ta phải nắm rõ khái niệm "Nợ"
trong tín dụng ngân hàng. Bản chất, nợ là một khoản tiền vay mà bên cho vay cần
xác định thu hồi lại. Trong hoạt động ngân hàng, nợ được hiểu bao gồm Các
khoản cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài chính; Các khoản chiết khấu,
tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác; Các khoản bao thanh toán;
Các hình thức tín dụng khác.
Với sự khó khăn và rủi ro của hoạt động kinh tế, “có vay” không đồng
nghĩa với “ có trả, không phải khoản nợ nào cũng có thể thu hồi vốn. Nợ xấu về
bản chất một khoản tiền cho vay mà ngân hàng xác định không thể thu hồi lại
được và bị xóa sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ. Định nghĩa
nợ xấu của Việt Nam tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN Quy định về phân loại
nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của tổ chức tín dụng như sau: “Nợ xấu là những khoản nợ thuộc các nhóm 3
(dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng mất vốn).”( Khoản 6
Điều 2 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN)


Trong đó, ta có thể hiểu đơn giản Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ
gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có
khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi; Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các
khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao; Nhóm 5 (Nợ
có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Tùy từng giai đoạn của nền kinh tế mà
Ngân hàng nhà nước có xác định rõ ràng từng trường hợp và hướng dẫn phân loại
2
nợ.Cụ thể, Quyết định 18/2007/ QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều Quyết
định 493/2005/QĐ-NHNN đã xác định:
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b
Khoản này;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng
trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 Điều
này.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 Điều
này.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên

theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị
quá hạn hoặc đã quá hạn;
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
3
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 Điều
này.
( Khoản 1 Điều 6 Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN)
Ngoài ra, cũng cần lưu ý, các khoản nợ được phân loại, chuyển vào nhóm
3, nhóm 4, nhóm 5, nhóm có rủi ro cao hơn trong các trường hợp sau đây:
a) Toàn bộ dư nợ của một khách hàng tại một tổ chức tín dụng phải được
phân loại vào cùng một nhóm nợ. Đối với khách hàng có từ hai (02) khoản nợ trở
lên tại tổ chức tín dụng mà có bất cứ một khoản nợ nào bị phân loại theo quy định
tại Khoản 1 Điều này vào nhóm có rủi ro cao hơn các khoản nợ khác, tổ chức tín
dụng phải phân loại lại các khoản nợ còn lại của khách hàng vào nhóm có rủi ro
cao nhất đó.
b) Đối với khoản cho vay hợp vốn, tổ chức tín dụng làm đầu mối phải thực
hiện phân loại nợ đối với khoản cho vay hợp vốn theo các quy định tại Điều này
và phải thông báo kết quả phân loại nợ cho các tổ chức tín dụng tham gia cho vay
hợp vốn. Trường hợp khách hàng vay hợp vốn có một hoặc một số các khoản nợ
khác tại tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn đã phân loại vào nhóm nợ
không cùng nhóm nợ của khoản nợ vay hợp vốn do tổ chức tín dụng làm đầu mối
phân loại, tổ chức tín dụng tham cho vay hợp vốn phân loại lại toàn bộ dư nợ (kể
cả phần dư nợ cho vay hợp vốn) của khách hàng vay hợp vốn vào nhóm nợ do tổ
chức tín dụng đầu mối phân loại hoặc do tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp
vốn phân loại tuỳ theo nhóm nợ nào có rủi ro cao hơn.
c) Tổ chức tín dụng phải chủ động phân loại các khoản nợ được phân loại
vào các nhóm theo quy định tại Khoản 1 Điều này vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn

theo đánh giá của tổ chức tín dụng khi xảy ra một trong các trường hợp sau đây:
- Có những diễn biến bất lợi tác động tiêu cực đến môi trường, lĩnh vực
kinh doanh của khách hàng;
- Các khoản nợ của khách hàng bị các tổ chức tín dụng khác phân loại vào
nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn (nếu có thông tin);
4
- Các chỉ tiêu tài chính của khách hàng (về khả năng sinh lời, khả năng
thanh toán, tỷ lệ nợ trên vốn và dòng tiền) hoặc khả năng trả nợ của khách hàng bị
suy giảm liên tục hoặc có biến động lớn theo chiều hướng suy giảm;
- Khách hàng không cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông tin
tài chính theo yêu cầu của tổ chức tín dụng để đánh giá khả năng trả nợ của khách
hàng.
( Khoản 3 Điều 6 Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN)
Như vậy, nợ xấu được xác định theo 2 yếu tố: đã quá hạn trên 90 ngày và
khả năng trả nợ đáng lo ngại. Đây được coi là định nghĩa của VAS. Còn theo định
nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê – Liên hợp quốc, “về cơ bản một khoản nợ
được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản
lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo
thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý
do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Như vậy, nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên 2 yếu tố: quá hạn trên 90
ngày và khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của IAS đang được
áp dụng phổ biến hiện hành trên thế giới. Nhìn chung định nghĩa nợ xấu theo
pháp luật Việt Nam tuy chủ yếu dựa vào các định lượng về số ngày quá hạn trả nợ
đơn
1.2.Xử lý nợ xấu.
Hoạt động cho vay, cấp tín dụng là hoạt động chính chủ yếu của ngân hàng
nên không tránh khỏi tình trạng nợ xấu. Nợ xấu đền từ nhiều nguyên nhân dẫn
đến tổn thất, giảm thu nhập, ảnh hưởng đến iu tín, mất khả năng thanh toán dẫn
đến sự phá sản của ngân hàng và đe dọa toàn bộ hệ thống tài chính. Việc kiểm

soát và xử lý nợ xấu có ý nghĩa quan trọng. Nợ xấu quá cao khiến Ngân hàng
không cho vay nữa dẫn đến các dự án, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
không thực hiện được, doanh nghiệp đình trệ sản xuất, kéo theo nền kinh tế trì trệ
5
suy thoái. Việc xử lý nợ xấu của ngân hàng, kế hoạch trích lập dự phòng, thu nợ
ra sao không chỉ ảnh hưởng đến doanh nghiệp, ngân hàng mà cả nền kinh tế. Vì
vậy hoạt động xử lý nợ xấu luôn là vấn đề nhức nhối không chỉ của các tổ chức
tín dụng mà còn của cả nền kinh tế.Nhà nước cùng các ngân hàng chung tay xử lý
nợ xấu của các tổ chức tín dụng nhằm tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng mở rộng
tín dụng với lãi suất hợp lý, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô; cải thiện thanh khoản và
nâng cao sự an toàn, lành mạnh, hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng, thị
trường tiền tệ. Dù được xử lý thông qua các nghiệp vụ ngân hàng hay sự hỗ trợ
của nhà nước thì việc xử lý nợ xấu cũng phải đảm bảo các nguyên tắc nhất định,
theo tinh thần của Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31 tháng 5 năm 2013 của Thủ
tướng Chính phủ thì cơ bản phải đảm bảo:
Thứ nhất, xử lý nợ xấu phải khẩn trương, quyết liệt, đồng thời phải bảo
đảm tính hệ thống, đồng bộ, bằng nhiều biện pháp, đặt trong tổng thể chương
trình tái cơ cấu nền kinh tế.
Thứ hai, huy động mọi nguồn lực trong xã hội để xử lý nợ xấu của hệ
thống các tổ chức tín dụng và hạn chế việc sử dụng vốn ngân sách cho việc xử lý
nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Thứ ba, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, tổ chức tín dụng và các bên
khác có liên quan. Trước hết, tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải chịu trách
nhiệm chính về các khoản nợ xấu phát sinh và chia sẻ tổn thất trong việc xử lý nợ
xấu.
Thứ tư, Nhà nước chịu trách nhiệm xử lý các khoản nợ xấu do cho vay các
đối tượng chính sách hoặc theo chỉ định của Chính phủ. Đối với các trường hợp
khác, Nhà nước chỉ can thiệp xử lý nợ xấu bằng nguồn vốn ngân sách trong
trường hợp cần thiết phải bảo đảm sự an toàn của hệ thống ngân hàng và sự ổn

định của nền kinh tế. Nhà nước hỗ trợ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho
6
việc xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng chủ yếu thông qua ban hành các cơ
chế, chính sách và tổ chức, quản lý có hiệu quả thị trường mua bán nợ.
Thứ năm, xử lý nợ xấu phải bảo đảm công khai, minh bạch, theo nguyên
tắc thị trường và đúng pháp luật; tránh để xảy ra tiêu cực trong quá trình xử lý nợ
xấu.
Thứ sáu, kiểm soát nợ xấu ở mức an toàn và không để xảy ra đổ vỡ hệ
thống ngân hàng; giải pháp xử lý nợ xấu phải gắn liền với phòng ngừa, hạn chế và
kiểm soát có hiệu quả nợ xấu phát sinh trong tương lai
2.Thực trạng xử lý nợ xấu trong tín dụng ngân hàng
2.1.Pháp luật về xử lý nợ xấu trong tín dụng ngân hàng
Trước đây, việc xử lý nợ xấu của các ngân hàng chủ yếu trông chờ từ
nguồn lực ngân sách nhà nước thông qua cơ chế “ xin cho khoanh, xóa nợ”. Tuy
nhiên từ khi quyết định 493 ban hành, lần đầu tiên ngân hàng thương mại được
trao quyền tự chủ tài chính thực sự, được quyền sử dụng nội lực của chính mình
để hóa giải phần lớn các khoản nợ xấu. Các biện pháp mà tổ chức tín dụng có thể
áp dụng được kể tới như
Thứ nhất, Đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ
để có biện pháp xử lý thích hợp. Các tổ chức tín dụng sẽ phải tiến hành rà soát,
đánh giá, phân loại toàn bộ các khoản cấp tín dụng, đầu tư trái phiếu doanh
nghiệp, ủy thác đầu tư theo mức độ rủi ro. Trên cơ sở quy đinh của pháp luật, tổ
chức tín dụng cần có sự phân loại chính xác và đúng đắn các nhóm nợ cho thích
hợp.
Theo quy định tại 493, khái niệm “nợ xấu” bao hàm tất cả các khoản nợ
được phân loại vào nhóm 3 đến nhóm 5 tùy theo cấp độ rủi ro khác nhau, theo
nguyên tắc chỉ cần một món vay (trong tổng thể nhiều món vay khác nhau) phát
sinh quá hạn, hoặc được điều chỉnh kỳ hạn nợ, hoặc gia hạn nợ, thì toàn bộ dư nợ
7
vay của khách hàng đó phải chuyển sang nhóm nợ xấu. Trường hợp khách hàng

tích cực thanh toán xong khoản nợ quá hạn nói trên thì vẫn phải chịu phạt “thời
gian thử thách” khá dài (3 tháng đối với vay ngắn hạn; 6 tháng đối với vay trung
dài hạn ) trước khi toàn bộ dư nợ chuyển về trạng thái bình thường.
Những quy định tương đối ngặt nghèo trên đây đã gây áp lực nợ xấu rất lớn cho
khách hàng và ngân hàng, cản trở đến quá trình duy trì quan hệ tín dụng bình
thường. Các ngân hàng hoặc khách hàng vô hình chung bị buộc phải nghĩ ra
nhiều chiêu thức để luồn lách, đảo nợ, dẫn đến việc đánh giá chất lượng tín dụng
nhiều khi trở nên thiếu thực chất.
Ngoài ra, việc phân loại nợ chỉ chú trọng vào yếu tố thời gian dẫn tới việc
phân loại nợ xấu thiếu chính xác và không phản ánh thực tế. Thực sự cần đưa việc
phân loại nợ xấu cao hơn so với quy định trước đây, không chỉ là thời gian chậm
thanh toán mà là mối quan hệ cấp tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng
và tài sản cấp tín dụng được đảm bảo bởi cổ phiếu của tổ chức tín dụng. Thông tư
02/2013/TT- NHNN tuy đã được lùi thời điểm áp dụng nhưng với các tiêu chí
phân loại nợ xấu chặt chẽ, nghiệm ngặt có thể xem là một bước tiến mới cho hoạt
động xử lý nợ xấu, đặc biệt là việc xem xét đánh giá, phân loại các nhóm nợ : các
khoản nợ bị gia hạn nợ lần đầu sẽ được đưa vào nợ nhóm 3 thuộc nhóm nợ xấu,
thay vì nếu gia hạn nợ trong thời hạn vẫn được xếp vào nhóm 2 theo Quyết định
493; Nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ
theo hợp đồng tín dụng cũng được đưa vào nhóm nợ xấu; Ngoài các tiêu chí để
phân loại nợ từ đặc tính khả năng trả nợ của khách hàng, điểm mới được đánh giá
khá khắc nghiệt là xem xét hoạt động cấp tín dụng cho những đối tượng bị hạn
chế cấp tín dụng hoặc cấp tín dụng có điều kiện theo Luật Các TCTD sửa đổi
2010. Chẳng hạn nếu như trước đây trong hoạt động cấp tín dụng của các NHTM,
việc cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng bị hạn chế tín dụng
diễn ra rất thường xuyên thì nay được đưa vào nhóm 3, “nợ dưới tiêu chuẩn”
trong nhóm chỉ tiêu nợ xấu; hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu của các TCTD
8
hoặc các công ty con của TCTD này để góp vốn vào TCTD khác trong hệ thống
các NHTM cũng là những khoản cho vay được liệt kê vào nhóm nợ xấu. Quy

định này xếp các khoản tín dụng theo kiểu đầu tư chéo lẫn nhau sẽ bị hạn chế khi
liệt kê vào nhóm nợ xấu mà quy định trước đây không đề cập đến; Nợ cấp cho
các công ty con, công ty liên kết mà TCTD đang nắm quyền kiểm soát không
vượt quá tỷ lệ quy định ( Điều 10 Thông tư 02/2013? TT-NHNN).
Những quy định mới này có phần khá ngặt nghèo, nhưng với việc lùi thời
điểm áp dụng, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp, ngân hàng có sự chuẩn bị đầy đủ
thì việc đánh giá các khoản nợ sẽ chính xác hơn.
Thứ hai, Tăng cường trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu
Dự phòng rủi ro" là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn
thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ
theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí
hoạt động của tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm: Dự phòng cụ thể và
Dự phòng chung ( Khoản 2 Điều 2 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN). Trên cơ sở
trích lập và sử dụng dự phòng hợp lý, các tổ chức tín dụng sẽ tránh tình trạng bị
động, gặp khó khăn khi tỉ lệ nợ xấu tăng cao, lường trước được những rủi ro và
chủ động thích ứng với nó, tránh nguy cơ mất cân bằng nguồn vốn, phá sản.
Theo khoản 1, Điều 8, Quyết định số 18/2007/ QĐ- NHNN, Số tiền dự
phòng cụ thể phải trích được tính theo công thức sau:
R = max {0, (A - C)} x r
Trong đó:
R = max {0, (A - C)} x r
Trong đó: R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: Số dư nợ gốc của khoản nợ
C: giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
9
Trên cơ sở rà soát, đánh giá lại các khoản cấp tín dụng, đầu tư trái phiếu
doanh nghiệp, ủy thác đầu tư, tổ chức tín dụng tích cực phân loại nợ, hạch toán
đúng bản chất nợ xấu, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý các khoản nợ
xấu theo quy định của pháp luật, trong đó ưu tiên các khoản nợ xấu không có tài

sản bảo đảm, khách hàng vay không còn tồn tại và nợ xấu thuộc nhóm 5. Theo
quy định pháp luật hiện nay, tỉ lệ trích lập dự phòng với các khoản nợ xấu là
Nhóm 3: 20%, Nhóm 4: 50%, Nhóm 5: 100%. Đây được xem là tỉ lệ trích lập dự
phòng khá an toàn đối với các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, với tỉ lệ trích lập dự
phòng khá lớn, đồng nghĩa với một lượng tiền của ngân hàng sẽ bị “ giam” lại,
nhiều Ngân hàng sẽ gặp khó khăn đảm bảo nguồn vốn kinh doanh lớn, vì vậy mà
nhiều ngân hàng đã tìm cách luồn lách, hạn chế trích lập giữ phòng. Hiện con số
nợ xấu theo công bố của NHNN (202.000 tỷ đồng – chiếm 8,6% tổng dư nợ) thì
nó lớn gấp 2 lần con số thống kê của các tổ chức tín dụng (117.000 tỷ đồng –
chiếm 4,47% tổng dư nợ). Điều đó cho thấy không ít các tổ chức tín dụng đã
không minh bạch, thậm chí cố tình che giấu nợ xấu. Có khoảng 85.000 tỷ đồng
không được các tổ chức tín dụng đưa vào nợ xấu. Cũng có nghĩa từng ấy nợ xấu
chưa được trích lập dự phòng rủi ro. Điều này xuất phát do các quy định về trích
lập dự phòng, đặc biệt là việc đánh giá tài sản đảm bảo, tính toán độ rủi ro còn
thiếu chính xác. Tài sản có rủi ro không chỉ là các khoản cho vay đơn thuần như
hiện nay, mà được xét đến bản chất tín dụng ở nhiều khoản khác để buộc phải
trích lập dự phòng rủi ro. Đối tượng tài sản được yêu cầu trích lập dự phòng rủi ro
chưa bao quát hết như tiền mua và ủy thác trái phiếu doanh nghiệp, thẻ tín dung,
ngoài ra tỷ lệ khấu trừ tối đa với tài sản bảo đảm quá thận trọng (khoản 3, khoản
4 Điều 8 Quyết định 18/2007/QĐ- NHNN) khi tỷ lệ khấu trừ của tài sản bảo đảm
là bất động sản lên tới 50%, làm cho giá trị thế chấp cùng với dự phòng khoản
vay tăng thêm. Với sự biên động của thị trường, đặc biệt là sự tụt dốc, đóng băng
của thị trường bất động sản thì cần có tỷ lệ thích hợp hơn để tính toán rủi ro đối
với tài sản này. Ngoài ra sự tính toán của các tổ chức tín dụng hiện nay phần
10
nhiều dựa trên sự định tính, theo thông tư 02/2013/TT- NHNN thì những đơn vị
nào áp dụng phương pháp phân loại định tính thì phải kết hợp thêm phương
pháp định lượng, phương pháp nào mang lại số liệu có độ rủi ro cao hơn thì chọn
phương pháp đó. Những điều này sẽ giúp cho việc lập quỹ dự phòng được chính
xác hơn, bổ sung được nguồn tiền để các ngân hàng xử lý nợ xấu. Điều này bước

đầu có thể ảnh hưởng tới tính thanh khoảng của các ngân hàng, làm giảm lợi
nhuận trước mắt nhưng là cần thiết cho sự ổn định lâu dài
Thứ ba, tiếp tục cơ cấu lại nợ
Tổ chức tín dụng chủ động phối hợp với khách hàng vay để cơ cấu lại nợ
(giãn thời gian trả nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ) và xem xét miễn, giảm lãi suất
một cách hợp lý cho khách hàng có triển vọng tốt sau cơ cấu lại nợ để khách hàng
giảm bớt khó khăn tài chính tạm thời và nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo nguồn
thu mới trả nợ tổ chức tín dụng. Nếu doanh nghiệp bị xếp vào nhóm nợ xấu thì
rất khó để tiếp cận với vốn, tình trạng khó khăn sẽ tăng thêm và rất có thể dẫn tới
phá sản. Quyết định 780/ QĐ- NHNN có thể nói đã thực hiện tốt phần nào vai trò
giúp doanh nghiệp được giữ nguyên nhóm nợ để tiếp tục có cơ hội vay vốn, duy
trì sản xuất kinh doanh đồng thời giúp toàn hệ thống ngân hàng cũng giảm gánh
nặng trích dự phòng rủi ro. Với những quy định chặt chẽ của thông tư 02/2013/
TT- NHNN sau này, việc cơ cấu lại nợ sẽ được thực hiện chặt chữ hơn, đặc biệt
việc thống nhất phân loại nợ giữa các tổ chức tín dụng sẽ bộc lộ xu hướng khách
hàng bị đẩy tới nhóm nợ xấu hơn và tụt hạng theo thang điểm xếp hạn tín dụng
nội bộ. Được áp dụng thực hiện từ 1/6/2014 việc này là một quyết định mạnh mẽ
trong việc cơ cấu lại nợ, chỉnh đốn, minh bạch lạ hoạt động tín dung. Tuy nhiên,
với lộ trình kéo dài thời gian đến 2014, không để cho doanh nghiệp bị đánh giá
và chuyển vào nhóm nợ xấu, thì có thể phần nào hỗ trợ cho doanh nghiệp theo
nghĩa “làm sạch” bảng cân đối tài sản của các doanh nghiệp thì có thể, nhưng xử
lý dứt điểm nợ xấu thì vẫn còn nhiều khó khăn. Đó là chưa kể rủi ro tiềm ẩn là rất
lớn do sự thiếu minh bạch về thông tin. Các tổ chức, doanh nghiệp quốc tế nhìn
11
vào Việt Nam sẽ khó phân biệt được “thực - giả” về tình trạng nợ xấu. Ví dụ như
“đảo nợ”, tức là cho vay mới để trả nợ cũ, tổng dư nợ không thay đổi song thời
điểm phát sinh khoản vay có thể thay đổi, kéo theo thời điểm trả nợ cũng thay
đổi. Vì vậy bên cạnh các quy định pháp luật, các ngân hàng cần có sự tỉnh táo
trong cơ cấu lại nợ.
Thứ tư, Tiếp tục hỗ trợ vốn để khách hàng khắc phục khó khăn và phục hồi

Bản thân doanh nghiệp cũng muốn sử dụng vốn vay toàn diện có hiệu quả
để đồng vốn có khả năng sinh lợi cao. Tuy nhiên do những nguyên nhân khách
quan là khó khăn, biến động bất thường của kinh tế trong và ngoài nước, một số
rủi ro về mặt chính sách vĩ mô khiến hoạt động của doanh nghiệp không được
như mong muốn. Doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả nên không có tiền trả
nợ và lãi ngân hàng, từ đó phát sinh nợ xấu cao nhiều hơn thời điểm khác. Vì vậy,
việc tổ chức tín dụng tiếp tục đầu tư, cho vay, bảo lãnh đối với khách hàng có nợ
xấu do khó khăn tạm thời nhưng có triển vọng phục hồi và phát triển tốt cũng
được xem như là một phương thức nhằm xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, với phương
pháp này tổ chức tín dụng cần cân nhắc và xem xét kĩ đối với các dự án, công
trình đầu tư dở dang hoặc sắp hoàn thành và có khả năng phát huy hiệu quả kinh
tế, tổ chức tín dụng tiếp tục cho vay, đầu tư để hoàn thiện đưa vào khai thác hoặc
bán để thu hồi nợ. Quyết định 780/ QĐ- NHNN về việc phân loại nợ đối với nợ
được điểu chỉnh kì hạn trả nợ, gia hạn nợ là cơ sở pháp lý thích hợp để ngân hàng
có quyết định chính xác
Thứ 5. Bổ sung, hoàn thiện hồ sơ pháp lý tài sản bảo đảm
Khi cho vay, cấp tín dụng với bất kì khách hàng nào, ngân hàng đều căn cứ
dựa trên tài sản bảo đảm để quyết định số vốn vay được phép. Tài sản bảo đảm có
thể được xem như là những vớt vát cuối cùng của ngân hàng khi khách hàng
không có khả năng thanh toán nợ. Rà soát, đánh giá lại tài sản bảo đảm và thỏa
thuận với khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm hợp pháp; phối hợp với khách
hàng và các cơ quan, tổ chức liên quan hoàn thiện hồ sơ pháp lý đối với những
12
khoản vay, tài sản bảo đảm chưa hoàn thiện hồ sơ pháp lý sẽ giúp ngân hàng tránh
được những rủi ro, thiệt hại khi xử lý nợ. Việc hoàn thiện hồ sơ pháp lý bảo đảm
với những quy định cụ thể về nghiệp vụ cũng như thủ tục pháp lý, đòi hỏi sự định
giá, cũng như công chức, chứng thực rõ ràng nhưng đây vẫn là một trong những
lỗ hổng, cấp tín dụng vượt mức dẫn tới xử lý nợ xấu sau này của ngân hàng. Giá
trị tài sản đảm bảo được tính ở thời điểm nào? Các tổ chức tín dụng thường “áng
chừng” tại thời điểm phát sinh món nợ, tức là trước thời điểm món nợ ấy chuyển

thành nợ xấu một khoảng thời gian khá dài. Như vậy là cho tới nay giá trị tài sản
ấy có thể đã không còn như tính toán ban đầu. Hơn thế, đa phần tài sản đảm bảo
là bất động sản, trong khi chỉ tính từ đầu năm tới nay giá nhiều loại bất động sản
đã giảm sâu tới 30 đến 40%. Tình trạng phổ biến hiện nay là nhiều giá trị tài sản
đảm bảo nợ đã “bốc hơi” rất mạnh so với thời điểm vay vốn, ví dụ như giá trị các
cổ phiếu, giá trị bất động sản giảm mạnh hoặc là những tài sản trên đất như nhà
xưởng, dây chuyền máy móc tại các khu công nghiệp Tài sản bảo đảm không
quá khắt khe sẽ kéo theo nhiều hệ lụy khôn lường.
Thứ 6, Thu nợ và xử lý tài sản bảo đảm
Theo Điều 11 Quyết định 493/2005/ QĐ- NHNN thì “Phát mại tài sản bảo
đảm để thu hồi nợ: Tổ chức tín dụng phải khẩn trương tiến hành việc phát mại tài
sản bảo đảm theo thoả thuận với khách hàng và theo quy định của pháp luật để
thu hồi nợ” .
Trên thực tế nhiều tài sản đảm bảo do thiếu hợp tác từ phía khách nợ khiến
ngân hàng gặp không ít khó khăn trong việc xử lý tài sản đảm bảo nợ khi khách
nợ không hợp tác, cố tình kéo dài thời gian trả nợ, thời gian bàn giao tài sản
Mặc dù pháp luật cho phép ngân hàng được quyền trực tiếp nhận tài sản về, hoặc
bán tài sản cho bên thứ ba, hoặc nhận trực tiếp tài sản khấu trừ nợ. Nhưng trên
thực tế ngân hàng không thể trực tiếp làm được điều đó, bởi pháp luật quy định là
phải sang tên qua thủ tục công chứng. Trong khi để công chứng được, theo quy
định của Bộ luật Dân sự, thì hợp đồng mua bán tài sản phải là chủ tài sản hoặc là
13
chủ tài sản ủy quyền. Song nhiều chủ tài sản cố tình gây khó khăn không chịu bàn
giao tài sản hoặc không ủy quyền cho ngân hàng thậm chí họ còn phản đối. Nếu
không đạt được sự thoả thuận với khách hàng ngân hàng chỉ còn cách chuyển hồ
sơ khởi kiện ra tòa án, thậm chí yêu cầu tòa mở thủ tục phá sản đối với Doanh
nghiệp. Nhưng với cách làm này thời gian xử lý mất từ 3 - 4 năm cũng là một khó
khăn đối với ngân hàng. Ngoài ra, một khó khăn khác mà ngân hàng thường gặp
phải là khi tài sản đảm bảo được thanh lý thì số tiền thu được lại được ưu tiên chi
trả trước cho những khoản nợ theo phân chia theo thứ tự ưu tiên, ví dụ như khi

thanh lý được tài sản đảm bảo phải ưu tiên thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, nghĩa vụ
tiền lương ( Theo quy định tại Điều 34 Luật phá sản)
Bán nợ xấu cho Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh
nghiệp cũng là một trong những giải pháp xử lý nợ xấu. Tuy nhiên việc để xác
định giá trị thị trường của doanh nghiệp, tài sản và các khoản nợ xấu không hề
đơn giản. Hiện khung pháp lý cho hình thành, phát triển và quản lý thị trường
mua bán nợ cũng như các quy định tài chính về hoạt động sáp nhập, hợp nhất,
mua lại, cổ phần hóa, xóa nợ, cơ cấu lại nợ, hoán đổi nợ thành vốn chủ sở hữu đối
với doanh nghiệp đang dần được hoạn thiện. Việc ban hành danh sách các công ty
thẩm định giá, công ty kế toán, kiểm toán đủ tiêu chuẩn tham gia vào quá trình xử
lý nợ xấu để xác định giá trị thị trường của doanh nghiệp, tài sản và các khoản nợ
xấu sẽ tạo điều kiện cho việc mua bán, xử lý nợ xấu dễ dàng hơn. Ngày
18/5/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 53/2013/NĐ-CP về
thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín
dụng Việt Nam.Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 09/7/2013. Đây là cơ
sở pháp lý quan trọng để Ngân hàng nhà nước triển khai xử lý nợ xấu của hệ
thống tổ chức tín dụng. Công ty Quản lý tài sản mua các khoản nợ xấu có đủ 5
điều kiện sau: Thứ nhất, khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, bao gồm nợ xấu
trong các hoạt động cấp tín dụng, mua trái phiếu doanh nghiệp, ủy thác mua trái
phiếu doanh nghiệp, uỷ thác cấp tín dụng và hoạt động khác theo quy định của
14
Ngân hàng Nhà nước; Thứ hai, khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm; Thứ ba, khoản
nợ xấu, tài sản bảo đảm phải hợp pháp và có hồ sơ, giấy tờ hợp lệ; Thứ tư, khách
hàng vay còn tồn tại; Thứ năm, số dư của khoản nợ xấu hoặc dư nợ xấu của khách
hàng vay không thấp hơn mức quy định của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng
Nhà nước hướng dẫn cụ thể về điều kiện các khoản nợ xấu được Công ty Quản lý
tài sản mua
2.2.Thực trạng xử lý nợ xấu trong tín dụng ngân hàng
Tại Việt Nam, tín dụng ngân hàng ảnh hưởng tới 82% khu vực kinh tế
doanh nghiệp, trên 30% khu vực đầu tư công và 28% vốn FDI… Nợ xấu tập

trung vào khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp bất động sản và công ty
sân sau của ngân hàng (các công ty con).
Theo báo cáo của thống đốc ngân hàng nhà nước tại kì họp Quốc hội vừa
qua, việc xử lý nợ xấu đã đạt được những tín hiệu đáng mừng
Về xử lý nợ xấu, Thống đốc cho biết ngân hàng nhà nước đã thực hiện
nhiều giải pháp, trong đó có quyết định cho phép các tổ chức tín dụng được cơ
cấu lại nợ, ban hành chế tài xử lý nghiêm đối với tổ chức tin dụng không trích lập
đầy đủ dự phòng rủi ro theo quy định và yêu cầu tích cực sử dụng nguồn dự
phòng rủi ro để xử lý nợ xấu. Tính đến cuối tháng 4.2013, tổng số dư các khoản
nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm theo Quyết định số 780
của ngân hàng nhà nước là 284.400 tỉ đồng.
Việc trích lập dự phòng rủi ro cũng đã được các NH thực hiện ráo riết và
đến cuối tháng 4 vừa qua, số dư dự phòng rủi ro đã trích lập chưa sử dụng đạt
73.600 tỉ đồng, tăng 14,6% so với cuối năm 2012. Đây là nguồn vốn quan trọng
mà TCTD có thể sử dụng ngay để xử lý nợ xấu. Nhờ đó, trong năm 2012 và 4
tháng đầu năm 2013, tổng số nợ xấu đã được các TCTD xử lý bằng dự phòng rủi
ro là 76.700 tỉ đồng (năm 2012 là 69.200 tỉ đồng và 4 tháng đầu năm 2013 là
7.500 tỉ đồng).
15
Đến cuối tháng 4.2013, tổng số dư nợ xấu toàn hệ thống là 137.100 tỉ
đồng, tăng 18.700 tỉ đồng (15,8%) so với cuối năm 2012 (4 tháng đầu năm 2012
nợ xấu tăng 36,2%), tốc độ tăng bình quân 3,94%/tháng (giảm so với 9%/tháng
của cùng kỳ năm 2012). Báo cáo nêu rõ“Mặc dù tốc độ tăng của nợ xấu đã được
kiềm chế, song tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng liên tục tăng lên do dư nợ
tín dụng tăng trưởng chậm. Theo đó, đến cuối tháng 4.2013, tỷ lệ nợ xấu trong
tổng dư nợ tín dụng là 4,67%, tăng so với mức 4,08% của cuối năm 2012 và
3,07% cuối năm 2011”,
Tỷ lệ nợ xấu giảm là một tín hiệu đáng mừng nhưng về bản chất tỷ lệ nợ
xấu giảm chỉ là giảm số liệu. Lý do chính giúp nợ xấu có xu hướng giảm trong
thời gian qua là ngân hàng thương mại đã đẩy mạnh việc trích lập dự phòng rủi

ro, theo chỉ đạo của cơ quan quản lý và cơ cấu lại nợ. Ngoài ra, tỷ lệ nợ xấu giảm
cũng còn có lý do các ngân hàng đã cẩn trọng hơn trong thẩm định cho vay để
không xuất hiện nợ xấu trên các khoản cho vay mới.Cụ thể, đến cuối 2012, các
ngân hàng đã trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu được khoảng 78.600
tỉ đồng, tăng 33% so cuối 2011. Đến hết 2012, các ngân hàng xử lý được 45.000
tỉ đồng. Như vậy, phần lớn nợ xấu được giải quyết rơi vào thời điểm 2 quý cuối
2012, còn trong khoảng tháng 1, 2 năm 2013 các ngân hàng xử lý được khoảng
gần 10.000 tỉ đồng. Tất cả các khoản trích lập này được lấy từ lợi nhuận ngân
hàng, thậm chí rút từ vốn ngân hàng, đấy là chưa kể đến những nghiệp vụ sổ sách
nhằm biến hóa, cơ cấu lại nhóm nợ, đảo nợ. Thực sự tỷ lệ giảm nợ xấu hiện nay
phần nhiều chỉ là cách biến hóa nợ xấu theo sổ sách.
Có thể nhận thấy mặc dù các giải pháp xử lý nợ xấu trong thời gian qua đã
đạt được kết quả bước đầu quan trọng, nhưng việc xử lý nợ xấu cũng bộc lộ một
số khó khăn, hạn chế, như nợ xấu lớn, chi phí dự phòng rủi ro tăng mạnh là
nguyên nhân quan trọng làm giảm kết quả kinh doanh, ảnh hưởng đến sự an toàn
tài chính của các tổ chức tín dụng
16
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu trong tín dụng ngân hàng
Bất luận nguyên nhân phát sinh như thế nào, nợ xấu luôn được xem như là
bức tranh toàn cảnh về trình độ phát triển và sức khỏe của toàn bộ nền kinh tế, là
hàn thử biểu phản ánh sức sống của lực lượng doanh nghiệp cũng như đo lường
năng lực kiểm soát rủi ro của hệ thống ngân hàng trước những sức ép thường
xuyên, mang tính chu kỳ do tác động của tình trạng bất ổn vĩ mô. Qua những tìm
hiểu ở trên, bài viết xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ
xấu trong tín dụng ngân hàng
Thứ nhất, cần có sự phân loại nợ xấu một cách cụ thể rõ ràng cũng như
đảm bảo tỉ lệ trích lập dự phòng hợp lý. Như đã phân tích ở trên, các quy định về
phân loại cũng như đảm bảo tỉ lệ tríc lập dự phòng rủi ro theo quy định của Việt
Nam hiện nay phần lớn còn khác biệt so với các tiêu chuẩn quốc tế cũng như chỉ
chủ yếu dựa trên yếu tố thời gian, định tính mà chưa có chuẩn mực chặt chẽ nào.

Chính phủ và Ngân hàng nhà nước, cần tiến hành sửa đổi bổ sung quyết định 493
cho phù hợp với hoàn cảnh mới, động viên đúng mức những nỗ lực của doanh
nghiệp và ngân hàng trong tiến trình xử lý nợ xấu. Điều quan trọng nhất là tạo lập
hành lang pháp lý để nhanh chóng tái cơ cấu, khôi phục trạng thái lành mạnh cho
những khoản nợ xấu, nợ đóng băng sau khi đã được xử lý một cách hợp lệ, qua đó
phát huy cao hơn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, tránh thất thoát, lãng
phí. Cần phải xây dựng hệ thống thẩm định nợ xấu để thúc đẩy nhanh việc xử lý
nợ tồn đọng tại các ngân hàng thương mại.Sự phân loại cụ thể, chặt chẽ như
Thông tư 02/2013/TT- NHNN có thể là một đòn đánh mạnh vào hệ thống tín
dụng hiện nay nhưng điều này thực sự là cần thiết để có được sự ổn định lâu dài
cho nền kinh tế. Thực sự cần những quy định phân loại nợ xấu và hướng dẫn cụ
thể hơn như những quy định này
Thứ hai, cần tạo hành lang pháp lý linh hoạt cho ngân hàng trong việc xử lý
tài sản đảm bảo. Hầu hết các khoản vay của khách hàng đều có tài sản đảm bảo
nhưng việc xử lý nó để thu hồi nợ là hết sức khó khăn. Trước hết là thứ tự ưu tiên
17
thanh toán khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản của các ngân hàng cũng
không được an toàn. Hơn nữa, loại trừ một số ít tài sản được định giá vượt khung,
tài sản gặp rắc rối về quyền sở hữu, các tài sản đầy đủ giấy tờ sở hữu cũng gặp
không ít khó khăn trong quá trình xử lý. Sự chồng chéo giữa các văn bản pháp
luật cũng làm cho ngân hàng lúng túng trong việc xử lý. Ví dụ, Thông tư liên tịch
số 03/2001/TTLT -NHNN-BTP- BTC-TCĐC giữa Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư
pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính ngày 29.4.2001 quy định tổ
chức tín dụng không được trực tiếp bán hay được trực tiếp nhận quyền sử dụng
đất để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Theo khoản 3, Mục III của
Thông tư này, nếu không đạt được sự thoả thuận của các bên thì tổ chức tín dụng
phải đưa ra bán đấu giá hay khởi kiện ra toà. Trong khi đó, Nghị định số 178 lại
cho phép tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản đảm bảo nếu không đạt được sự
thoả thuận của các bên. Trong khi đó việc giải quyết tại tòa án cũng như cơ chế
thi hành án hiện nay còn nhiều bất cập, việc trông chờ giải quyết tại tòa án thực

sự không đạt hiệu quả. Chính phủ cần sớm trình Quốc hội ban hành Luật bảo vệ
phá sản cũng như các cơ chế đảm bảo thanh lý, xử lý tài sản đảm bảo.
Cũng cần lưu ý là để đảm bảo cho việc xử lý tài sản bảo đảm được thuận
lợi thì ngay từ khâu cho vay, Ngân hàng cũng cần có sự cân nhắc kĩ lưỡng về tài
sản bảo đảm. Tình trạng ngân hàng định giá sai về tài sản cũng như gặp rắc rối về
quyề sở hữu không phải là không hiếm gặp, cần xây dựng một cơ chế hợp lý, tiêu
chuẩn định giá cũng như các tổ chức cơ quan có thẩm quyền định giá tài sản để
tránh tình trạng trên.
Thứ ba, xây dựng các quy định cụ thể về mua bán nợ, định giá, thẩm định
nợ xấu.
Tại Việt Nam, mối quan hệ mua bán nợ giữa công ty mua bán nợ với các
tổ chức tín dụng, giữa công ty mua bán nợ với tổ chức kinh tế và cá nhân hiện
chưa được điều chỉnh, hầu hết thiếu quy định pháp lý, thậm chí chồng chéo và
mâu thuẫn. Các quy định áp dụng cho công ty mua bán nợ hầu như không tạo
18
quyền ưu tiên đặc biệt trong việc tiếp cận và khai thác thông tin đánh giá khoản
nợ nên đã gây ra không ít khó khăn trong việc mua và xử lý nợ. Chính vì thế mà
công ty mua bán nợ xử lý nợ mang nặng tính thủ tục, chưa có “hơi thở” thị
trường. Trong quá trình xử lý nợ, có trường hợp ngân hàng đã mời công ty mua
bán nợ cùng giải quyết một món nợ, sau khi xem xong, Do chưa có hệ thống thẩm
định nợ xấu nên sau đó, chi nhánh nhận được giá chào mua rất thấp chỉ khoảng
20% giá món nợ đó và ngân hàng lại rất băn khoăn không biết sẽ bán nợ cho công
ty mua bán nợ theo tỷ lệ nào. Vì vậy cần tạo lập thị trường mua bán nợ; xử lý triệt
để và cho phép mua bán dứt điểm nợ xấu của ngân hàng, thay vì chỉ là giãn tiến
độ trích lập dự phòng rủi ro và xử lý nợ xấu như hiện nay… Có như vậy, ngân
hàng và doanh nghiệp mới có được lợi ích khi tham gia quá trình xử lý nợ xấu.
Cần tập trung nâng cao năng lực hoạt động cho các công ty mua bán nợ và tài sản
tồn đọng ở các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy nhanh hơn tiến trình tái cấu trúc nợ
và vốn
Hạn chế nợ xấu phát sinh trong tương lai

Nâng cao năng lực quản trị, điều hành, hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội
bộ; phát triển hệ thống quản trị rủi ro và các chiến lược kinh doanh, chính sách,
quy trình, thủ tục cấp tín dụng theo hướng lành mạnh, thận trọng; thường xuyên
quan tâm phát triển và quản lý có hiệu quả đội ngũ cán bộ ngân hàng, đặc biệt là
cải thiện năng lực đánh giá, thẩm định tín dụng và nâng cao trình độ chuyên môn,
tư tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng. Tăng cường tính
minh bạch trong hoạt động của tổ chức tín dụng; xử lý triệt để tình trạng sở hữu
chéo giữa các tổ chức tín dụng và vấn đề lợi ích nhóm trong tổ chức tín dụng;
tăng tính đại chúng của các tổ chức tín dụng, tăng số lượng và đa dạng hóa cổ
đông, thành viên tham gia góp vốn của tổ chức tín dụng.
Trách nhiệm nợ xấu trước tiên là thuộc về ngân hàng nhưng cùng đó phải
kể đến cả chính sách vĩ mô thả lỏng đồng tiền một thời của chính Ngân hàng nhà
19
nước. Vì vậy ngoài các giải pháp trực tiếp tác động nhằm xử lý nợ xấu, Ngân
hàng nhà nước cần xem xét có chính sách tiền tệ phù hợp.
KẾT LUẬN
Bản chất kinh doanh tiền tệ tiềm ẩn nhiều rủi ro, nợ xấu không chỉ là vấn
đề nhức nhối của ngân hàng mà còn là vấn đề của cả nền kinh tế. Xử lý nợ xấu là
vấn đề được quan tâm không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Việc xử lý nợ
xấu ở nước ta hiện nay tuy đã được điều chỉnh bởi nhiều quy định pháp luật
nhưng không tránh khỏi những hạn chế, vướng mắc. Gian nan xử lý nợ xấu, đây
thực sự là một vấn đề khó đòi hỏi sự đóng góp ý kiến của nhiều cơ quan, chuyên
gia. Sự tìm hiểu về xử lý nợ xấu trên đây thực sư còn nhiều thiếu sót, tuy nhiên
trong phạm vi bài tiểu luận cá nhân hi vọng phần nào thể hiện được thực trạng xử
lý nợ xấu ở Việt Nam hiện nay.
20

×