Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

514 Đào tạo phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong tiền trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.69 KB, 38 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời
bước đầu đang tiếp cận dần đến nền kinh tế tri thức, do đó nền kinh tế đang
trong quá trình chuyển dịch mạnh mẽ.
Sự chuyển dịch kép từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công
nghiệp và nền kinh tế tri thức, đòi hỏi chúng ta phải có một nguồn nhân lực
có đủ khả năng, đủ trình độ để đáp ứng những đòi hỏi khách quan của nó.
Nhận thức được tầm quan trọng cấp thiết của vấn đề đào tạo phát triển
nguồn nhân lực, Đảng và Nhà nước ta đã coi giáo dục-đào tạo là quốc sách
hàng đầu, đồng thời đã đưa ra rất nhiều chính sách về giáo dục- đào tạo
nhằm phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.
Từ sự chú trọng đó, nguồn nhân lực nước ta đã có những bước tiến
đáng kể, góp phần không nhỏ trong sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, so
với mặt bằng chung, nguồn nhân lực nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, một
phần là do vấn đề đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều bất cập và chưa hợp lý.
Vì vậy em đã chọn đề tài: “Đào tạo phát triển nguồn nhân lực việt nam trong
tiền trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế”, để đánh giá, phân tích những mặt
được và những mặt còn hạn chế của vấn đề đào tạo. Từ đó đưa ra những giải
pháp để nâng cao chất lượng đào tạo.
Nội dung của đề án gồm ba chương chính:
Chương I: Lý luận về đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong
tiến trình chuyển dịch cơ câu kinh tế.
Chương II: Thực trạng về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở việt nam
Chương III: Giải pháp cho vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở việt nam
1
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Nguyễn Vĩnh Giang đã
hướng dẫn và giúp đỡ em, để em có thể hoàn thành đề án này.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONGTIẾN TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ


I. ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Đào tạo phát triển nguồn nhân lực nói chung bao gồm hai mảng là đào
tạo kiến thức phổ thông và đào tạo kiến thức chuyên nghiệp. Trong đề án
này em chỉ xin đi sâu vào phần đào tạo kiến thức chuyên nghiệp.
1.Khái niệm:
_Đào tạo nguồn nhân lực: là quá trình trang bị những kiến thức nhất
định về chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận
một nghề nào đó, hay để làm tốt hơn một công việc nào đó, hoặc để làm
những công việc khác trong tương lai.
_Phát triển nguồn nhân lực: là toàn bộ những hoạt động tác động
vào người lao động, để người lao động có đủ khả năng phục vụ cho nhu cầu
về lao động trong tương lai.
Như vậy, đào tạo nguồn nhân lực có phạm vi hẹp hơn, nó chính là một
nội dung của phát triển nguồn nhân lực. Đào tạo chỉ mang tính chất ngắn
hạn, để khắc phục những sự thiếu hụt về kiến thức và kỹ năng cho những
công việc hiện tại. Còn phát triển mang nghĩa rộng hơn, nó không chỉ bao
gồm vấn đề đào tạo mà còn rất nhiều những vấn đề khác, như chăm sóc y tế,
tuyên truyền sức khoẻ cộng đồng…nhằm phát triển nguồn nhân lực trên mọi
phương diện. Về mặt thời gian, phát triển nguồn nhân lực mang tính chất dài
hạn, lâu dài hơn trong nền kinh tế.
2.Vai trò của đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế:
2
Để phát triển một nền kinh tế chúng ta cần rất nhiều yếu tố như nguồn
nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học công nghệ… Nhưng cả lý
luận và thực tiễn đều đã chứng minh nguồn nhân lực là yếu tố quyết định
trong việc sử dụng, phát triển các nguồn lực còn lại và có vai trò quyết định
trong phát triển nền kinh tế.
Chúng ta không thể phủ nhận sự tồn tại khách quan của một số yếu tố,
nhưng chính con người lại là yếu tố quyết định việc tổ choc, sử dụng chúng,
hơn nữa chính con người đã tạo ra và phát triển các yếu tố khác như khoa

học công nghệ, máy móc thiết bị… để phục vụ cho quá trình phát triển kinh
tế.
Như vậy, nếu nguồn nhân lực không được phát triển cao về thể chất,
trình độ, kinh nghiệm quản lý… thì sẽ không thể sử dụng được hợp lý các
nguồn lực trên. Thậm chí, nếu thiếu một nguồn nhân lực có chất lượng có
thể sẽ làm lãng phí, cạn kiệt và huỷ hoại các nguồn lực khác, làm cho nền
kinh tế không thể phát triển được.
Mặt khác, chính sự phát triển kinh tế sẽ làm xuất hiện những ngành
nghề mới, những công nghệ, máy mọc mới hay cách quản lý mới. Điều đó
đòi hỏi nguồn nhân lực phải không ngừng tự hoàn thiện, nâng cao khả năng
và trình độ của mình để làm chủ quá trình phát triển kinh tế.
Như vậy, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, không ngừng nâng cao
trình độ cho người lao động chính là một trọng tố quyết định cho sự phát
triển của một nền kinh tế. Nếu vấn đề đào tạo phát triển nguồn nhân lực
không được quan tâm chú trọng, không được thực hiện tốt thì sẽ không tạo
ra được một nguồn nhân lực có đủ khả năng, đủ trình độ phục vụ cho quá
trình phát triển kinh tế. Ngược lại, nếu đào tạo tốt, sẽ là bàn đạp, là nền tảng
cốt lõi cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế của một quốc gia.
II. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ:
1. Khái niệm:
3
_Cơ cấu kinh tế: là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với
vị trí, tỷ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hưu cơ tương đối ổn
định hợp thành.
_Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: thực chất là sự phát triển không đều
giữa các ngành, các lĩnh vực, bộ phận… Nơi nào có tốc độ phát triển cao
hơn tốc độ phát triển chung của nền kinh tế thì sẽ tăng tỷ trọng. Ngược lại
nơi nào có tốc độ phát triển chậm hơn tốc độ phát triển chung của nền kinh
tế thì sẽ giảm tỷ trọng.
_Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý: là sự chuyển dịch sang một cơ

cấu kinh tế có khả năng tái sản xuất mở rông cao, phản ánh được năng lực
khai thác, sử dụng các nguồn lựcvà phải phù hợp với các quy luật, các xu
hướng của thời đại.
2. Phân loại :
Thông thường cơ cấu kinh tế được phân ra làm ba loại:
_Cơ cấu kinh tế ngành: là tổ hợp các ngành hợp thành các tương
quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành của nền kinh tế.
Cơ cấu ngành là bộ phận cơ bản và quan trọng cấu thành nên nền kinh
tế, nó là nòng cốt của chiến lược phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức. Cơ cấu
ngành thường chia nền kinh tế ra làm ba khu vực: Khu vưcI (nông_lâm_ngư
nghiệp), Khu vực II (công nghiệp, xây dựng cơ bản), Khu vực III (dịch vụ).
Với nền kinh tế nước ta, khu vực I là khu vực có lợ thế rất lớn, nhưng
khu vực II mới chính là khu vực tiềm năng, mang tính quyết định còn khu
vực III là khu vực mang tính chất cầu nối.
_Cơ cấu kinh tế lãnh thổ: là cơ cấu được hình thành bởi việc bố trí
sản xuất theo không gian địa lý.
4
Nước ta, cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ được chia thành tám vùng kinh
tế chính là: Đồng bằng sông hồng, Đông bắc, Tây bắc, Bắc trung bộ, Duyên
hải nam trung bộ, Tây nguyên, Đông nam bộ, Đồng bằng sông cửu long.
Trong đó có hai vùng kinh tế lớn là Đồng bằng sông hồng, với vùng kinh tế
trọng điểm Bắc bộ và Miền đông nam bộ với vùng kinh tế trong điểm phía
nam.
_Cơ cấu kinh tế thành phần: là hệ thống tổ chức kinh tế với các chế
độ sở hữu khác nhau.
Nước ta hiện nay có sáu thành phần kinh tế là: Kinh tế nhà nước, Kinh
tế tập thể, Kinh tế cá thể, tiểu chủ, Kinh tế tư bản tư nhân, Kinh tế tư bản
nhà nước và Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, thành phần kinh tế
nhà nước nắm vai trò chủ đạo, đảm trách những ngành kinh tế quan trọng

của đất nước, giữ vai trò cầm lái cho nền kinh tế.
III. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ
1. Sự chuyển dịch khách quan của cơ cấu lao động:
Sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế sẽ làm thay đổi quy mô, tỷ trọng và
trình độ phát triển của các bộ phận cấu thành. Bộ phận kinh tế nào phát triển
nhanh hơn sẽ lôi kéo và đòi hỏi cao hơn các nguồn lực phục vụ cho sự phát
triển của nó.
Lực lượng sản xuất, mà trong đó con người là trọng tố cũng không
nằm ngoài quy luật này. Nó cũng sẽ đòi hỏi và thu hút nhiều lao động hơn,
đòi hỏi trình độ lao động cao hơn. Như vậy, sẽ làm thay đổi quy mô, tỷ trọng
và trình độ của lao động trong các bộ phận kinh tế cấu thành. Điều đó tất yếu
sẽ dẫn đến sự chuyển dịch về cơ cấu lao động.
Ngược lại, sự chuyển dịch cơ cấu lao động cũng tác động vào sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng và trình độ phát triển lao động trong bộ
5
phận kinh tế nào cao hơn sẽ là điều kiện thúc đẩy cho bộ phận kinh tế đó
phát triển nhanh hơn và ngược lại. Tức là sẽ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Tuy nhiên, nếu sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo xu hướng không
hợp lý sẽ làm cản trở sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, làm
cản trở sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, quy luật và xu hướng vận động của quy luật ở đây chính là:
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Còn
sự chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ tác động hai chiều, làm thúc đẩy hoặc cản
trở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý.
Nắm bắt được quy luật này, chúng ta cần phải đào tạo nguồn nhân lực,
tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý, thúc đẩy sự chuyển dịch hợp lý của cơ
cấu kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu và phương hướng phát triển của nền
kinh tế quốc dân.

2.Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động:
2.1.Mô hình chuyển dịch cơ cấu lao động trên thế giới:
Trước tiên chúng ta hãy xem xét mô hình chuyển dịch của nền kinh tế
thế giới.
Khi nền kinh tế thế giới chuyển dịch từ nền kinh tế nông nghiệp sang
nền kinh tế công nghiệp, sự lên ngôi của máy móc thiết bị trong sản xuất đã
kéo theo một sự chuyển dịch lớn về lao động. Lúc này nhu cầu về công nhân
kỹ thuật là rất lớn, nhằm phục vụ cho bộ máy khổng lổ của nền sản xuất
công nghiệp. Chính vì vậy cơ cấu nhu cầu về lao động của nền kinh tế thế
giới khi đó được thể hiện qua mô hình “hình tháp nhân lực công nghiệp
truyền thống”.
Tức là nhu cầu về cán bộ
chuyên môn để quản lý nền kinh tế
6
là khá ít, còn nhu cầu về công nhân
kỹ thuật cho nền sản xuất máy móc
là rất lớn.
Còn khi nền kinh tế chuyển
tiếp từ nền kinh tế công nghiệp sang
nền kinh tế tri thức, lúc này trình độ
khoa học kỹ thuật phát triển ở mức
cao, máy móc thiết bị đã dần thay
thế cho các hoạt động sản xuất của con người, do đó, nhu cầu về công nhân
kỹ thuật đã dần giảm xuống.
Mặt khác, thu nhập và mức sống của con người trong nền kinh tế tri
thức đã ở mức cao, vì vậy, những đòi hỏi của họ cũng lớn và đa dạng hơn
trong nghỉ ngơi, giải trí, đòi hỏi các ngành công nghệ, dịch vụ phải được mở
rộng và phát triển hơn. Do đó, tất yếu sẽ làm tăng nhu cầu về lao động trí
thức có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao.
Lúc này, cơ cấu nhu cầu về

lao động sẽ không còn ở dạng “hình
tháp nhân lực công nghiệp truyền
thống” nữa, mà đã biến đổi sang
kiểu “hình tháp nhân lực tri thức”
Tức là, vẫn cần nhiều công
nhân kỹ thuật nhưng giảm hơn so
với nền kinh tế công nghiệp, đồng
thời đòi hỏi một lượng lớn lao động
có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
cao.
7
Tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét cách phân chia của Martin Trow, một
học giả người Hoa Kỳ (cách phân chia này đã được chấp nhận rộng rãi trên
thế giới).
Nếu ở một nước có “tỷ lệ độ tuổi đại học”(tức là tỷ lệ sinh viên đại
học so với số thanh niên ở độ tuổi từ 18 đến 21) dưới 15% thì đào tạo đại
học ở nước đó còn trong giai đoạn “cho số ít người”, khi tỷ lệ đó vượt quá
15% thì nền đào tạo đại học bước vào giai đoạn “đại chúng”, còn khi vượt
quá 50% thì đào tạo đại học đã ở giai đoạn “phổ cập”.
Tương ứng với cách phân chia trên, các chuyên gia kinh tế và đào tạo
cho rằng: Đào tạo đại học cho số ít người chỉ phù hợp với nền kinh tế nông
nghiệp, đào tạo đại học đại chúng sẽ tương ứng với nền kinh tế công nghiệp,
còn đào tạo đại học phổ cập tương ứng với đòi hỏi của nền kinh tế tri thức.
Thực tại nền kinh tế thế giới đã chứng minh mô hình này, theo báo
cáo của ngân hàng thế giới (năm 1994), chỉ số sinh viên đại học của khối các
nước phát triển OECD là 51%, tức là tương ứng với thực tế nền kinh tế tri
thức của họ. Còn theo báo cáo của UNESCO (năm 1995), chỉ số này của
Bắc mỹ là 82%, của các nước có thu nhập trung bình là 21%, còn của các
nước có thu nhập thấp chỉ đạt 6%. Tức là đã thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa
trình độ đào tạo đại học với trình độ phát triển của nền kinh tế.

8
Qua mô hình này ta có thể thấy, muốn nền kinh tế phát triển càng cao
thì tương ứng với nó trình độ đào tạo đại học cũng phải càng cao, mà cụ thể
ở đây là tỷ lệ sinh viên đại học phải càng cao.
2.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở việt nam:
Để xác định được phương hướng đào tạo nguồn nhân lực, trước hết
chúng ta phải xét xem nền kinh tế nước ta đang ở đâu và chuyển dịch như
thế nào.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với mục tiêu phấn
đấu đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp khá phát triển,
đã đưa nền kinh tế nước ta chuyển dịch từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
lên nền kinh tế công nghiệp và hiện đang ở khoảng giữa của quá trình
chuyển dịch.
Mặt khác, tác động của quá trình toàn cầu hoá và xu hướng chuyển
nền kinh tế thế giới từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, đã
làm phát triển một số ngành dịch vụ và công nghệ cao ở nước ta như ngân
9
hàng, tài chính, công nghệ thông tin... Điều đó chứng tỏ nước ta cũng đang ở
điểm khởi đầu của quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức.
Như vậy, nền kinh tế của ta đang diễn ra quá trình chuyển dịch kép,
một mặt, vừa chuyển dịch lên nền kinh tế công nghiệp và đang ở khoảng
giữa, đồng thời, lại vừa chuyển dịch lên nền kinh tế tri thức và đang ở điểm
khởi đầu của sự chuyển dịch.
Chính đặc điểm này đã làm cho nền kinh tế có những đòi hỏi cao hơn
và phức tạp hơn về nguồn nhân lực nhằm phục vụ cho sự phát triển và
chuyển dịch của nó.
3. Yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực trong tiến trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế:
Quá trình chuyển dịch kép của nền kinh tế nước ta đòi hỏi nguồn nhân
lực phải có một mặt bằng chung về trình độ cao hơn. Khác với trước kia

trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chỉ đòi hỏi người lao động phải có
đức tính tốt, cần cù, trung thành, và có tinh thần trách nhiệm. Với ngày nay,
nền kinh tế đòi hỏi người lao động phải có tính sáng tạo, có khả năng xử lý
vấn đề, có khả năng phân tích, tinh thần đồng đội, rồi khả năng ăn nói, diễn
đạt… Tức là phải có một trình độ, năng lực ở mức khá trở lên.
Đấy là xét chung cho nguồn nhân lực, còn cụ thể, quá trình chuyển
dịch lên nền kinh tế công nghiệp của nước ta, như đã phân tích ở mô hình lý
thuyết trên, sẽ đòi hỏi một nguồn nhân lực có cơ cấu theo mô hình “hình
tháp nhân lực công nghiệp truyền thống” và trình độ đào tạo đại học đại
chúng.
Tức là phải có tỷ lệ độ tuổi đại học trên 15%. Như vậy, cần phải mở
rộng quy mô đào tạo đại học để tăng nhanh hơn nữa số lượng sinh viên,
phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế. Mặt khác, cơ cấu trong “hình tháp
nhân lực công nghiệp truyền thống”, như ở các nước phát triển trước kia đúc
10
rút ra là khoảng: 1 đại học\ 4 trung cấp chuyên nghiệp\ 10 công nhân kỹ
thuật, vậy ta cần phải có nhiều hơn nữa lượng công nhân kỹ thuật và trung
cấp chuyên nghiệp, đặc biệt là công nhân kỹ thuật.
Mặt khác, sự chuyển dịch lên nền kinh tế tri thức lại đòi hỏi nguồn
nhân lực phải có một trình độ cao hơn nữa, trình độ đại học phổ cập và cơ
cấu nhân lực theo mô hình “ hình tháp nhân lực tri thức”.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta mới chỉ ở điểm khởi đầu của quá trình
chuyển dịch này, nên đòi hỏi trên về nguồn nhân lực mới chỉ nằm trong một
số ngành dịch vụ và công nghệ cao như viễn thông, ngân hàng, tài chính,
công nghệ thông tin…
Tóm lại, để đáp ứng những đòi hỏi trên về nguồn nhân lực cuả nền
kinh tế, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của ta cần phải đặt ra những phương
hướng như sau:
Trước tiên là phải mở rộng quy mô và nâng cao trình độ đào tạo trên
phạm vi toàn nền kinh tế, nhằm nâng cao mặt bằng chung của nguồn nhân

lực.
Trong đó, chú trọng vấn đề về quy mô chất lượng đào tạo công nhân
kỹ thuật và đào tạo đại học, để nhanh chóng cung cấp đủ lượng công nhân
và cán bộ chuyên môn có trình độ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, góp phần sớm thực hiện được mục tiêu trở thành một
nước công nghiệp.
Đồng thời phải chú trọng đào tạo một đội ngũ công nhân kỹ thuật và
cán bộ chuyên môn có trình độ thật sự cao trong các ngành công nghiệp tiềm
năng và mũi nhọn, các ngành dịch vụ và công nghệ cao, các trung tâm kinh
tế lớn, các vùng, khu, cụm, điểm công nghiệp…
11
Về cơ cấu đào tạo, cần phải mở rộng quy mô đào tạo các ngành nghề
công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là các ngành công nghiệp chủ chốt mà trình
độ lao động mang tính quyết định…
Và đặc biệt cần chú ý trong chính nội tại vấn đề, là phải mở rộng quy
mô và nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ quản lý, giáo viên, giảng viên để
tăng quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Đây chính là hướng đi
gốc rễ, lâu dài và đúng đắn nhất cho nền giáo dục, đào tạo nước ta.
12
CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở VIỆT NAM
I. Đánh giá Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực Việt nam
Quan điểm về vai trò của giáo dục, đào tạo nước ta là rất đúng đắn, nó
đựơc khẳng định ngay từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của đảng ta: “Giáo dục, đào tạo phải được xem là quốc
sách hàng đầu”. Quan điểm này luôn được khẳng định và nhấn mạnh trong
các văn kiện của đảng tại các kỳ đại hội VII, VIII và IX. Điều này cho thấy
sự nhất quán trong việc khẳng định vai trò của giáo dục, đào tạo, coi giáo
dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu , là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh

tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục, đào tạo chính là đầu tư cho sự
phát triển.
Chính quan điểm đúng đắn về giáo dục đào tạo này đã làm cho nền
giáo dục, đào tạo nước ta không ngừng phát triển, tạo ra một nguồn nhân lực
có trình độ phục vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong thời
gian qua.
Cụ thể hoá quan điểm trên, trong thời gian qua, nước ta đã liên tục
xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách giáo dục đào tạo theo hướng ưu
tiên và tạo môi trường thuận lợi cho giáo dục đào tạo phát triển. Các chính
sách tập trung vào những vấn đề như chiến lược phát triển, quy hoạch, kế
hoạch, đảm bảo công bằng trong giáo dục đào tạo, đổi mới chương trình,
nâng cao chất lượng, cải cách hành chính quản lý…
Đặc biệt, luật giáo dục được ban hành vào cuối năm 1998, đã đánh
dấu một mốc quan trọng trong việc xây dựng môi trường pháp lý và đổi mới
cơ chế quản lý trong hoạt động giáo dục đào tạo ở nước ta. Theo đó, các
13
chức năng quản lý đã được phân rõ, công cụ quản lý cũng được xây dựng và
hoàn thiện trên cơ sở của pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra cũng được
chú trọng, những điều này đã đóng góp không nhỏ vào việc nâng cao hiệu
quả đào tạo nguồn nhân lực.
Chính sự quan tâm đúng đắn của đảng, nhà nước và toàn xã hội, đã
làm cho quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nước ta không ngừng
tăng lên. Điều này thể hiện trong sự phát triển của nguồn nhân lực nước ta
trong thời gian qua.
1. Quy mô đào tạo:
1.1. Công nhân kỹ thuật:
Sau nhiều năm suy giảm, quy mô đào tạo công nhân kỹ thuật những
năm gần đây đã được mở rộng và phát triển trở lại. Hiện nay, cả nước đã có
226 trường dậy nghề, trong đó 199 trường công lập và 27 trường ngoài công
lập, tăng 1.75 lần so với năm 1998.

Các hệ đào tạo ngắn hạn cũng phát triển mạnh với nhiều loại hình,
tính đến nay, cả nước đã có 320 trung tâm dậy nghề, 150 trung tâm dịch vụ
việc làm và trên 300 trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp.
Biểu 1: Số lượng trường đào tạo công nhân kỹ thuật.
Năm 1997 2000 2003
Số trường 129 159 218
Về chương trình giảng dậy, đã biên soạn và ban hành 50 chương trình
dậy nghề ngắn hạn, lưu động và đang triển khai biên soạn 76 chương trình
dậy nghề dài hạn.
Cùng với sự tăng lên của số lượng các cơ sở đào tạo, số lương học
viên cũng tăng lên rất nhanh trong thời gian qua. Năm học 2003 – 2004 đã
14
có hơn 164000 học viên dài hạn và 949100 học viên ngắn hạn trong khi năm
học 1997 – 1998 chỉ có 60000 học viên dài hạn.
Biểu 2: Số lượng học viên đang học trong các trường đào tạo nghề.
Năm học 1997-1998 1999-2000 2000-2001 2002-2003 2003-2004
Học viên 60000 100000 126000 146000 164000
Qua biểu này ta có thể thấy số lượng học viên học nghề đã tăng rất
nhanh và đều đặn trong giai đoạn vừa qua, năm học 2003-2004, số lượng
học viên đã tăng gần gấp 3 lần so với năm học 1997-1998. Có được kết quả
này, là do sự quan tâm đúng mực đối với công tác đào tạo nghề trong những
năm qua, nhà nước và nhân dân đã tham gia đầu tư mở rộng quy mô đào tạo.
Và cũng là do yêu cầu của nền kinh tế đòi hỏi một số lượng lớn công nhân
kỹ thuật cho quá trình chuyển dịch lên nền kinh tế công nghiệp của mình.
Tuy nhiên, quy mô đào tạo nghề hiện nay vẫn còn chưa đáp ứng đủ
nhu cầu của nền kinh tế. Tình trạng thiếu công nhân kỹ thuật là rất phổ biến,
đặc biệt là công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề cao.
1.2.Cán bộ chuyên môn:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống cơ sỏ hạ tầng quốc gia,
số lượng các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp cũng đã

tăng lên nhanh chóng. Hiện nay, cả nước có 87 trường đại học, 127 trường
cao đẳng, 245 trường trung cấp chuyên nghiệp. Số cơ sở sau đại học là 147,
trong đó 95 cơ sở được đào tạo tiến sĩ. Các quan hệ hợp tác đào tạo với các
nước , các tổ chức quốc tế cũng không ngừng tăng lên…
Ngoài ra, các hình thức đào tạo cũng phát triển mạnh mẽ và đa dạng,
hình thức đào tạo không chính quy đã có tại hầu hết các địa phương trên cả
nước, thu hút được nhiều học viên tham gia học tập. Năm học 2003 – 2004,
chúng ta đã có 57 trung tâm giáo dục từ xa cấp tỉnh, 494 trung tâm giáo dục
15

×