Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Thương mại của ngành thép khi có sự biến động do thép Trung Quốc tràn vào nước ta với giá rẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.31 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
Chương 1: Mô tả tình huống 5
Thương mại của ngành thép khi có sự biến động do thép Trung Quốc tràn
vào nước ta với giá rẻ 5
1.1 Thực trạng ngành thépViệt Nam trong những năm gần đây 5
1.2 Các chính sách hiện có của Việt Nam đối với ngành thép 6
1.2.1 Chính sách thương mại và công nghiệp đối với sản phẩm thép dài 6
1.2.1.1 Năng lực sản xuất dư thừa của các nhà máy cán thép 6
1.2.1.2 Mở rộng sản xuất phôi thép và hợp lý hóa năng lực cán thép 7
1.2.2 Chiến lược và chính sách thương mại đối với các loại thép tấm 8
1.2.2.1 Khai thác thị trường trong nước tập trung vào chất lượng trung
bình 8
1.2.2.2 Dự án xây dựng nhà máy cán thép tấm trong quy hoạch tổng thể. 9
1.3 Sự xâm nhập của thép Trung Quốc vào Việt Nam 10
1.3.1 Thép Trung Quốc nhập khẩu vào nước ta với giá rẻ 10
1.3.1.1 Việt Nam tràn ngập thép trung Quốc 10
1.3.1.2 Doanh nghiệp bỏ sản xuất lao vào nhập khẩu thép 11
1.4 Sự đối phó của Việt Nam và phản ứng của Trung Quốc với vấn đề này 12
1.4.1 Về phía Việt Nam 12
1.4.2. Phản ứng của Trung Quốc 14
1.5 Động cơ can thiệp của Chính Phủ 15
1.5.1 Nâng cao khả năng cạnh tranh của thép Việt Nam 15
1.5.2 Trung Quốc tăng năng lực ngành thép và hỗ trợ 52 tỷ USD cho các
công ty thép 17
1.5.3 Đầu tư không hiệu quả, năng lực kém và lệ thuộc vào nguồn nguyên
liệu nhập khẩu là hiện trạng ngành thép Việt Nam 17
1.5.5 Việt Nam đang dần trở thành nơi tập trung "rác" công nghệ và chất
thải gây ô nhiễm môi trường 18
19
Chương 2: Phân tích tình huống 20


Hạn chế trong ngành thép và tác động của Chính Phủ Việt Nam 20
2.1. Những lỗ hổng trong chính sách thương mại khiến thép Trung Quốc xâm
nhập vào thị trường Việt Nam 20
2.1.1 Chưa có công cụ bảo hộ cho ngành thép Việt Nam 20
2.1.2. Tình trạng nhập khẩu từ Trung Quốc 21
2.2. Những nguyên nhân từ phía sự yếu kém của bản thân thép Việt Nam 22
2.2.1. Việt Nam không có các nguồn lực đảm bảo cho việc kinh doanh thép
23
2.2.2 Hệ thống luật Việt Nam chưa có những công cụ bảo hộ thích hợp 23
2.2.3 Bộ máy thực thi và áp dụng còn nhiều bất cập 24
2.2.4 Sự liên kết giữa các khâu còn thấp 24
2.3. Tác động của sự can thiệp đến ngành thép Việt Nam 24
Chương 3: Một số đề xuất giải pháp về chính sách của Chính phủ đối với
ngành công nghiệp thép Việt Nam 26
3.1. Về vấn đề phát triển ngành thép Việt Nam 26
3.2 Tầm quan trọng của ngành thép so với các ngành khác 27
3.3 Cần loại bỏ hàng rào thuế quan như: giấy phép nhập khẩu, quy chế nội địa
hóa 27
3.4 Nâng cao năng lực cạnh tranh trong từng bộ phận 27
3.5 Xây dựng nhà máy cán nguội có khả năng cạnh tranh 28
3.6 Định hướng phát triển của ngành thép đến năm 2010 29
3.6.1 Về cơ cấu đầu tư 29
3.6.2 Về công nghệ 29
3.6.3 Huy động các nguồn vốn đầu tư 29
3.6.4 Về phát triển nguồn nguyên liệu 29
3.6.5 Về thị trường 30
3.6.6 Về phát triển nguồn nhân lực 30
3.6.7 Các chỉ tiêu của quy hoạch_Bảng 3 30
KẾT LUẬN 32
DANH SÁCH CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 34

LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, thương mại quốc tế mở ra những cơ hội mới cho tất cả các
nước trên thế giới. Nhờ có thương mại quốc tế mà các quốc gia có thể mở rộng
sản xuất, từ đó đáp ứng nhu cầu không chỉ trong nước mà cả thị trường nước
ngoài. Thương mại quốc tế còn mang lại cho người dân một nước có cơ hội lựa
chọn lớn hơn đối với các hàng hóa và dịch vụ. Thương mại quốc tế là nhân tố
quan trọng tạo công ăn việc làm ở nhiều nước. Với Việt Nam, từ một nước nông
nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, ngày nay Việt Nam đã từng bước phát triển trên mọi
lĩnh vực. Việc gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO mang lại cho
Việt Nam những bước phát triển mới, thu hút được đầu tư nước ngoài FDI nhằm
nâng cao GDP bình quân đầu người, cải thiện mức sống cho người dân. Bên cạnh
đó chúng ta cũng không thể không nhắc đến những khó khăn mà Việt Nam gặp
phải trong quá trình gia nhập khối liên kết chung đó. Điều đó được biểu hiện qua
các vụ kiện chống bán phá giá, bản quyền các tác phẩm ca nhạc, phần
mềm… Việt Nam cần có những biện pháp thích hợp để ứng phó với những tình
huống gây cản trở trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Cũng giống như rất nhiều mặt hàng khác được xuất khẩu ra thị trường quốc tế,
thép là một lĩnh vực mà nhà nước lưu tâm. Trước năm 1975, ngành công nghiệp
thép cũng được hình thành về cơ bản. Hiện nay Việt Nam cũng có rất nhiều nhà
máy sản xuất thép trong nước như :Tổng công ty thép Việt Nam (VSC), Công ty
gang thép Thái Nguyên (TISCO), công ty thép Sài Gòn (SSC)… và các công ty
liên doanh với nước ngoài như: Việt Úc, Nam Đô, Tây Đô… Tuy nhiên, Thép
vẫn là mặt hàng đang bị phụ thuộc khá nhiều vào nhập khẩu. Cho đến nay, Việt
Nam vẫn phải nhập khẩu hơn 60% sản lượng phôi thép (gần 2 triệu tấn/năm),
trong đó có trên 80% là sản lượng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Thời gian gần đây, thị trường thép Trung Quốc đang làm đau đầu các nhà chức
trách Việt Nam bởi có một khối lượng lớn thép Trung Quốc nhập khẩu vào Việt
Nam với giá rẻ. Khi đó giá phôi thép và giá thép thành phẩm bằng nhau . Vậy,

Chính phủ Việt Nam đã có những biện pháp can thiệp nào để khắc phục tình
trạng trên? Đó quả thật là một bài toán khó đòi hỏi Chính phủ vừa phải xem xét
thật nghiêm túc để không làm ảnh hưởng đến mối quan hệ lâu năm Việt- Trung
và vừa phải giải quyết những vướng mắc mà Việt Nam gặp phải trong thời gian
gần đây.

Trong quá trình làm, do trình độ của em còn kém nên bài làm vẫn còn sơ sài và
hạn chế. Em mong nhận được ý kiến nhận xét từ phía thầy giáo để em có thể
hoàn thiện bài đề án tốt hơn.
Em xin chân thành cám ơn thầy!

Sinh viên Trần Kiều Linh
Chương 1: Mô tả tình huống
Thương mại của ngành thép khi có sự biến động do thép Trung Quốc
tràn vào nước ta với giá rẻ
1.1 Thực trạng ngành thépViệt Nam trong những năm gần đây
Có thể khẳng định sản xuất thép của chúng ta còn rất nhỏ lẻ, 100% các nhà
máy liên doanh công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn đều sản xuất
thép từ phôi nhập khẩu, công suất từ 100.000 - 300.000 tấn/năm. Trong khi đó ở
nước láng giềng Trung Quốc, những nhà máy có công suất 1 triệu tấn/năm thì bị
coi là lạc hậu, sản xuất không có hiệu quả, không đủ sức cạnh tranh và tự bị phá
sản. Có thể nói, sau mía đường, xi măng là thép. Các nhà máy thép đang mọc lên
như nấm. Cũng rất dễ hiểu, cách đây khoảng 10 năm về trước một số công ty
nước ngoài như Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Italia đã nhìn thấy năng lực sản
xuất thép ở trong nước ta lúc bấy giờ là rất kém. Chính vì vậy các công ty nước
ngoài đã đổ xô vào Việt Nam liên doanh với một số ngành, công ty trong nước,
đưa các nhà máy nhỏ không còn phù hợp với các nước phát triển vào nước ta để
sản xuất với mục tiêu “đánh nhanh thắng nhanh” chạy vượt công suất thiết kế,
khấu hao nhanh, thông thường gấp trên 5 lần so với khấu hao đối với các nhà
máy ở nước ta (chi phí khấu hao máy móc thiết bị trên một tấn thép của Nhà

máy thép Việt Hàn trong quý I-2005 ở mức 169.467 đồng, còn đối với công ty
gang thép Thái Nguyên chỉ khiêm tốn ở mức 33.720 đồng). Để loại trừ yếu tố
khách quan do giá phôi thép tăng cao, (nguyên liệu chính trong sản xuất thép)
chúng ta đi sâu tìm hiểu các chi phí cán thép để có phép so sánh.
Đối với các nhà máy cán thép mới thông thường sử dụng ít lao động, bởi
các khâu trong quá trình sản xuất được tự động hoá từ đầu đến cuối. Còn đối với
những nhà máy thép của ta được Trung Quốc giúp đỡ có từ những năm 60 của
thế kỷ trước, thiết bị lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên nhiên liệu, năng suất thấp,
lao động thủ công nhiều, do đó các khoản chi phí tăng cao hơn nhiều so với các
nhà máy của liên doanh. Chẳng hạn như chi phí chung của nhà máy liên doanh
chỉ bằng 23,43%, chi phí quản lý bằng 29,95% của công ty Nhà nước. Ngoại trừ
khấu hao ra tất cả các chi phí khác đều thấp hơn từ 5-76%. Với chi phí thấp hơn
nên chi phí kéo cán của các nhà máy này thấp hơn, chất lượng thép tốt hơn, dẫn
đến sức cạnh tranh cao hơn.
Theo số liệu điều tra quý I/2005 của Tổng công ty thép Việt Nam, các công
ty liên doanh có mức chi phí kéo cán vào khoảng 680.000 đ/tấn, với tỷ giá
15.780 đ/USD thì tương đương 43 USD. Còn đối với doanh nghiệp nhà nước chi
phí này vào khoảng 780.000 đ/tấn, tương đương 50 USD/tấn. Con số này đối với
các nước phát triển còn thấp hơn nhiều, khoảng cách giữa giá phôi và giá thép
chỉ từ 10 - 20 USD/tấn còn các nước trong khu vực vào khoảng 20 - 25USD/tấn,
qua đó mới biết chi phí sản xuất của chúng ta còn cao, sức cạnh tranh còn thấp.
Mặc dù đã được Nhà nước hỗ trợ gián tiếp qua giá nhiên liệu năng lượng như
dầu FO, dầu DO, điện, than (các chi phí này thường thấp hơn các nước trong khu
vực từ 16,84 - 28,57%) có thể thấy được sự ưu ái của Chính phủ tới sản xuất, kể
cả với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam.
1.2 Các chính sách hiện có của Việt Nam đối với ngành thép
1.2.1 Chính sách thương mại và công nghiệp đối với sản phẩm thép dài
1.2.1.1 Năng lực sản xuất dư thừa của các nhà máy cán thép
Chính sách thương mại và chính sách cạnh tranh không phù hợp đã dẫn đến
tình trạng bất cân đối trong năng lực sản xuất thép. Từ năm 1996, Chính Phủ đã

cấm nhập khẩu thép ống nguyên liệu và thép sợi nguyên liệu. Trong trường hợp
đặc biệt nhập khẩu cho dự án thì phải chịu thuế nhập khẩu từ 30-40%. Thuế nhập
khẩu đối với phôi thép là 3-5%. Đến năm 2000 các công ty trong nước mới được
tự do nhập khẩu thép.Trong thời gian dài, loại thép này bị cấm nhập khẩu dẫn
đến giá tăng vọt, theo đó năng lực sản xuất thép cũng gia tăng nhanh chóng và
dẫn đến tình trạng dư thừa năng lực sản xuất. Những nhà sản xuất có năng suất
sản xuất thấp không có khả năng phát triển nhưng vẫn tồn tại nhờ chính sách hạn
chế nhập khẩu của Chính Phủ.Giá thép tăng cao là một cản trở lớn cho ngành xây
dựng. Việt Nam cần phải loại bỏ hàng rào phi thuế quan. Chính phủ Việt Nam
cần loại bỏ chính sách bảo hộ để cho các công ty trong nước thích nghi dần với
môi trường cạnh tranh toàn cầu.
1.2.1.2 Mở rộng sản xuất phôi thép và hợp lý hóa năng lực cán thép
Từ năm 2001, Chính phủ Việt Nam đã hạn chế các công ty tham gia vào thị
trường cán thép để điều chỉnh cung cầu và đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng nhằm
loại bỏ những sản phẩm ngoài quy cách. Tuy nhiên việc đó không đạt được hiệu
quả cao. Điều quan trọng hơn là Chính phủ phải quyết định và công bố lịch trình
tự do mậu dịch hóa. Nếu Chính phủ làm rõ khả năng loại bỏ chính sách bảo hộ
thì sẽ loại bỏ được thành phần tham gia thị trường mang tính chất cơ hội, trên thị
trường chỉ tồn tại những công ty có ý chí cạnh tranh.
Thực tế Chính phủ đang nỗ lực soạn thảo lịch trình giảm thuế quan và thuế
quan hóa những hàng rào phi thuế quan. Những lịch trình được công bố đã không
đề cập đến thực trạng của các ngành sản xuất. Nếu lịch trình này được thực hiện
sẽ dẫn đến những xáo trộn lớn. Năm 2001, Chính phủ dự kiến giảm phần lớn
thuế nhập khẩu thép nhưng không thành công. Hơn nữa chính sách thuế quan sau
năm 2006 đã không được làm rõ. Sau khi giảm thuế quan, tình hình sẽ có những
thay đổi. Những công ty có trang thiết bị hiện đại mới có khả năng tồn tại, các
công ty quốc doanh khác, các công ty vừa và nhỏ, các xưởng nhỏ sẽ rất khó khăn
trong quá trình tự do hóa.
Kế hoạch phát triển tổng thể ngành thép của VSC bao gồm cả việc xây
dựng hai nhà máy luyện cán thép ở miền Bắc và miền Nam, mở rộng TISCO lần

thứ hai. Ngoài ra VSC còn có kế hoạch xây dựng nhà máy luyện cán thép ở miền
Trung bằng vốn của tổng công ty. Việc xây dựng lò hồ quang điện có quy mô
hiệu suất tối thiểu nhằm thay thế nhập khẩu phôi thép là hợp lý. Tuy nhiên năng
lực cán thép dư thừa là quá lớn. Nếu tất cả kế hoạch đều thực hiện thì năng lực
cán thép của các công ty trực thuộcVSC và cả 3 nhà máy cán thép mới sẽ đạt
1.850.000 tấn /năm. Nếu các công ty liên doanh với nước ngoài và các công ty tư
nhân hoạt động hết 100% năng lực thiết kế ở năm 2001 thì tổng năng lực cán
thép toàn quốc là 4.640.000 tấn/năm. Dù Việt Nam đạt được tỷ lệ tăng trưởng
GDP 7,5% như mục tiêu thì lượng thép tiêu thụ dự đoán sẽ tăng trưởng 9%/năm.
Một số quan chức Chính phủ Việt Nam có khuynh hướng coi trọng những
công ty quốc doanh và phân bổ đều các ngành sản xuất ở các khu vực. Có thể suy
đoán rằng chủ trương xây dựng các nhà máy luyện cán thép ở 3 miền: Bắc,
Trung, Nam và cải tạo lần hai nhà máy TISCO một phần có lý do chính trị.
Nhưng xây dựng nhiều nhà máy không có khả năng cạnh tranh thì không giải
quyết được các vấn đề kinh tế. Chính phủ Việt Nam cần xem xét lại các dự án
đó.
Từ năm 2000, khác với các công ty vừa và nhỏ, các xưởng gia đình trước
đây, các công ty tư nhân có thiết bị tương đối hiện đại cũng đang tham gia vào thị
trường cán thép. Hiện tại không thể nhận xét một cách rõ ràng và đầy đủ thực
trạng của các công ty này nhưng VSC cần hạn chế đầu tư vào các nhà máy cán
thép để tránh đầu tư quá tải, phải điều chỉnh dự án theo hướng tập trung vào dự
án thép luyện điện- đúc phôi thép vì các công ty khác gặp trở ngại khi tham gia
vào thị trường này, hơn nữa các công ty tư nhân không chịu được rủi ro lớn khi
đầu tư vào lĩnh vực đó.
1.2.2 Chiến lược và chính sách thương mại đối với các loại thép tấm
1.2.2.1 Khai thác thị trường trong nước tập trung vào chất lượng trung bình
Khi tình hình kinh tế trong nước suy thoái, loại trừ những trường hợp xuất
khẩu bắt buộc, các nhà máy cán thép tấm Đông Nam Á phục vụ thị trường trong
nước là chính. Trong trường hợp nhà máy cán thép tấm của Việt Nam cũng
tương tự và đối tượng chủ yếu của các nhà máy này là thị trường trong nước.

Thị trường thép tấm Việt Nam chia thành 3 mức độ theo chất lượng sản
phẩm. Ngành công nghiệp ô tô và ngành công nghiệp điện gia dụng cần thép tấm
mỏng cao cấp nhưng sản lượng ngành này ở Việt Nam lại thấp. Nhu cầu đối với
thép mỏng chất lượng thấp sẽ xuất hiện trong nhiều ngành như xây dựng, sản
xuất đồ gia dụng phục vụ nội địa, gia công thép thông thường, xe đạp, sửa chữa
xe máy. Hiện tại những ngành này đang sử dụng sản phẩm nhập khẩu từ Nga và
Ucraina với chất lượng không tốt và chi phí sản xuất không thấp. Tuy nhiên các
nhà sản xuất thép của Nga và Ucraina vẫn xuất khẩu với giá rẻ để có ngoại tệ.
Sản phẩm của họ là ngòi nổ cho những xung đột thương mại trên quy mô toàn
cầu. Nếu nhà máy cán thép tấm mới của Nga và Ucraina thì khó có khả năng có
lợi nhuận cao.
Vì vậy, các nhà máy cán thép tấm mới của Việt Nam cần chọn khách hàng
trong giai đoạn thị trường sản phẩm chất lượng trung bình làm đối tượng chủ
yếu. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, đời sống sinh hoạt được nâng cao thì
thị trường này có khả năng sẽ được mở rộng vững chắc. Những khách hàng chủ
yếu có thể là các công ty nước ngoài đang sản xuất và xuất khẩu thiết bị máy gia
đình, nguyên liệu xây dựng. Nhiều khách hàng của sản phẩm chất lượng cao và
chất lượng trung bình là các công ty nước ngoài cho nên họ đặt ra yêu cầu chất
lượng tốt, giao hàng đúng thời hạn và tỷ lệ hàng kém chất lượng thấp. Vì thế cần
phải có kỹ thuật và quản lý ở trình độ cao. Tóm lại, các nhà máy cán nguội và
cán sợi nóng muốn có khách hàng cần có những điều kiện sau:
- Điều tra thị trường triệt để và nắm được thị trường.
- Tránh cạnh tranh không cân sức với các công ty ở Nga và Ucraina.
- Áp dụng kỹ thuật thiết bị, kỹ thuật sản xuất và kỹ thuật quản lý từ nước
ngoài.
- Sử dụng nguyên liệu chất lượng tốt phù hợp với chất lượng sản phẩm.
1.2.2.2 Dự án xây dựng nhà máy cán thép tấm trong quy hoạch tổng thể
Mục tiêu của ngành sản xuất thép tấm Việt Nam là thay thế nhập khẩu nên
quy mô của thị trường thép tấm bị giới hạn bởi tốc độ mở rộng nhu cầu trong
nước. Mặt khác tính kinh tế theo quy mô phát huy mạnh trong các nhà máy cán

sợi nóng và khu vực thượng nguồn, các lò luyện cao cần phải có thị trường lớn.
Vì vậy xúc tiến mở rộng năng lực sản xuất và thỏa mãn các điều kiện này là vấn
đề mấu chốt của kế hoạch phát triển tổng thể. Kế hoạch này bao gồm việc xây
dựng hai nhà máy cán sợi nóng và hai nhà máy cán nguội. Dự đoán các nhà máy
này là công đoạn hạ nguồn của nhà máy sản xuất thép khép kín. Có hai vấn đề
trước mắt cần quan tâm là thời điểm thực hiện kế hoạch và việc quyết định địa
điểm xây dựng.
Thứ nhất là thời điểm thực hiện kế hoạch: Trong trường hợp hai máy cán sợi
nóng và 2 máy cán nguội được xây dựng trước năm 2010,dự báo rằng năng lực
của máy cán nguội thấp hơn tổng nhu cầu thép tấm cán nguội. Nhưng chưa có
nghiên cứu quy mô thị trường chất lượng trung bình và thị trường chất lượng
cao. Theo kế hoạch năng lực cán nguội năm 2010 là 1 triệu tấn, để đạt được hiệu
suất vận hành 80% thì nhu cấu phải ở mức 800.000 tấn. Nhờ sản xuất xe máy
tăng, nhu cầu năm 2000-2001 tăng hơn so với dự đoán, nên nếu sau này nhu cầu
tiếp tục tăng thì có khả năng cung cầu sẽ cân bằng. Có nhiều ngành công nghiệp
có nhu cầu thép tấm, nhưng tương lai phát triển của các ngành này không rõ ràng
cho nên nhu cầu là khó dự đoán.VSC phải tiến hành điều tra thị trường thường
xuyên, điều chỉnh thời điểm đầu tư phù hợp với kết quả đó.
Thứ hai là địa điểm xây dựng nhà máy cán sợi nóng thứ nhất nên xây gần nhà
máy cán nguội thứ nhất, có thể tiết kiệm được chi phí vận chuyển vì cán nguội và
cán thép sợi nóng là hai công đoạn kế tiếp nhau. Hai nhà máy này có thể sử dụng
chung bộ phận phụ trách an toàn, phụ tùng, kiểm tra và sửa chữa thiết bị.
1.3 Sự xâm nhập của thép Trung Quốc vào Việt Nam
1.3.1 Thép Trung Quốc nhập khẩu vào nước ta với giá rẻ
1.3.1.1 Việt Nam tràn ngập thép trung Quốc
Tình trạng thép Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam tạm lắng xuống vào
thời điểm cuối tháng 5/2007, giờ lại bùng lên. Nhiều doanh nghiệp sản xuất thép
đã tạm ngừng sản xuất, chuyển sang nhập khẩu thép để kiếm lời.Theo phản ánh
của nhiều doanh nghiệp thời gian gần đây, tại khu vực Cửa khẩu quốc tế Lào Cai,
phôi thép từ Trung Quốc đang được nhập khẩu ồ ạt vào Việt Nam. Theo quan sát

của PV, hầu hết các bãi thép lớn tại thành phố Lào Cai hiện đang ngập tràn thép
Trung Quốc. Tại các bãi tập kết sắt - thép như bãi Hóa Trường, Bắc Duyên Hải,
Kim Thành… xe ô tô trọng tải lớn liên tục vào bốc thép vận chuyển về xuôi.
Thép tại các bãi này được chất thành đống to, từ phôi thép, thép ống, thép cuộn…
Có mặt tại bãi tập kết thép Bắc Duyên Hải, thép Trung Quốc được chất thành
từng đống lớn, nằm ngổn ngang trên diện tích rộng khoảng 5.000 m2.
1.3.1.2 Doanh nghiệp bỏ sản xuất lao vào nhập khẩu thép
Do ảnh hưởng của thép cuộn Trung Quốc nhập vào Việt Nam với giá rẻ hơn
từ 8,2-8,4 triệu đồng/tấn nên nhiều DN sản xuất thép chỉ hoạt động cầm chừng.
Nhiều cơ sở sản xuất thép cũng dừng sản xuất, lên Lào Cai nhập khẩu thép Trung
Quốc về bán. Một số DN sản xuất thép khác quy mô lớn hơn thì thành lập Cty
“con” tại Lào Cai để nhập mặt hàng này về tiêu thụ. Ông Hoàng Văn Hà -
Trưởng phòng kinh doanh Cty TNHH XD&TM Thái Bình Minh - một DN độc
quyền phân phối thép TISCO và Hòa Phát tại Lào Cai khi được hỏi không ngần
ngại nói: “Chuyển sang nhập khẩu thép cuộn Trung Quốc về phân phối ở Lào
Cai lãi hơn so với việc phân phối các sản phẩm thép TISCO, Hòa Phát như trước
đây. Do giảm chi phí vận chuyển, rẻ hơn từ 500 - 1.000 đồng/kg nên không dại gì
mà không nhập thép Trung Quốc. Hiện ở Lào Cai có 12-15 Doanh nghiệp trung
ương, địa phương và các Công ty trách nhiệm hữu hạn thường xuyên tham gia
nhập khẩu thép.
Theo thống kê của Trung tâm Quản lý Cửa khẩu quốc tế Lào Cai, từ đầu
năm đến nay, thép thành phẩm và phôi thép nhập khẩu từ Trung Quốc qua Cửa
khẩu quốc tế Lào Cai đạt trên 200 nghìn tấn. Lúc cao điểm (tháng 4 và 5), có
ngày thép nhập về hơn 1.000 tấn, cao gấp 3 lần các tháng trong năm 2006. Hiện
nay, mức điều chỉnh thuế cho mặt hàng thép và phôi thép của Chính phủ Trung
Quốc đã chính thức có hiệu lực. Tuy nhiên, dù bị đánh thuế, hàng nghìn tấn thép
cuộn vẫn ồ ạt chuyển về các bãi tập kết tại thành phố Lào Cai. Gần đây Công ty
cổ phần thép Việt Ý (thuộc Tổng công ty Sông Đà, Bộ Xây dựng), thành viên
Hiệp hội thép Việt Nam đã sang ký hợp đồng thuê 1 Công ty Trung Quốc sản
xuất đợt đầu 5000 tấn thép C3 mang nhãn mác Việt Ý (VIS) để về bán ở Việt

Nam.
1.4 Sự đối phó của Việt Nam và phản ứng của Trung Quốc với vấn đề này
1.4.1 Về phía Việt Nam
Liên quan đến những thông tin về việc thời gian gần đây, sản phẩm thép
cuộn nhập khẩu từ Trung Quốc đang có hiện tượng bán phá giá vào thị trường
Việt Nam, Cục quản lý cạnh tranh - Bộ Thương mại đã có ý kiến về vấn đề này.
Theo Cục quản lý cạnh tranh, việc có hay không thép cuộn Trung Quốc bán phá
giá vào thị trường Việt Nam cần phải xem xét thận trọng dựa trên các cơ sở pháp
luật Việt Nam và quốc tế. Thông tin từ Hiệp hội Thép Việt Nam cho biết, hiện
giá phôi thép và thép cuộn của Trung Quốc đang được chào bán cho các doanh
nghiệp Việt Nam với mức giá là 7.350.000 đồng/tấn (tương đương 459USD).
Với mức giá bán như vậy, sau khi trừ đi tất cả các chi phí thì mức giá bán cho
nhà nhập khẩu đầu tiên của Việt Nam sẽ từ 380-385 USD/tấn.Cục Quản lý cạnh
tranh cho rằng, việc Hiệp hội và các doanh nghiệp sản xuất thép Việt Nam muốn
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình đối với hành vi thương mại không công
bằng là hoàn toàn chính đáng và phù hợp với luật pháp Việt Nam và quốc tế.
Tuy nhiên, để tiến hành một vụ kiện chống bán phá giá đối với hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam, Hiệp hội và các doanh nghiệp cần phải nắm rõ các quy
định và tuân thủ đúng trình tự, thủ tục của Pháp luật Việt Nam về chống bán phá
giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.Theo quy định của Pháp lệnh chống bán
phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam thì tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ yêu cầu
áp dụng biện pháp chống bán phá giá phải là điện diện cho ngành sản xuất trong
nước. Đại diện ngành sản xuất trong nước phải đáp ứng hai điều kiện:
Thứ nhất: Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa do họ sản xuất hoặc
đại diện chiếm ít nhất 25% tổng khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa tương
tự của ngành sản xuất trong nước.
Thứ hai: Khối lượng, số lượng hoặc trị giá của hàng hóa quy định như trên
và của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện
pháp chống bán phá giá phải lớn hơn khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa
tương tự của các nhà sản xuất trong nước phản đối yêu cầu áp dụng biện pháp

chống bán phá giá.
Đồng thời, khi yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với một
sản phẩm nhập khẩu, cần phải xem xét liệu thị phần nhập khẩu của mặt hàng đó
có chiếm trên 3% tổng thị phần nhập khẩu hàng hóa đó vào Việt Nam hay không,
hàng hóa đó có thực sự bán phá giá vào thị trường Việt Nam, có thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho ngành sản xuất của Việt Nam và mối quan hệ nhân quả giữa
việc bán phá giá và gây thiệt hại hay không.Việc kết luận sản phẩm thép cuộn
nhập khẩu có xuất xứ từ Trung Quốc bán phá giá mặt hàng thép cuộn của Việt
Nam hay không cơ quan điều tra chống bán phá giá của Việt Nam cần phải tiến
hành các bước điều tra cần thiết, thu thập thông tin, số liệu thống kế, tính toán giá
xuất khẩu, giá trị thông thường của hàng hoá và tất cả các bước này cần phải tuân
thủ đúng các thời hạn theo luật định.Cục Quản lý cạnh tranh cho biết sẽ sẵn sàng
tham vấn với Hiệp hội Thép Việt Nam và các doanh nghiệp về các vấn đề nói
trên để thực hiện các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Trước mắt, Cục đã có những hướng dẫn bước đầu cho Hiệp hội và các doanh
nghiệp thu thập các thông tin có liên quan cũng như nghiên cứu các văn bản quy
phạm pháp luật để có thể đưa ra những lập luận và chứng cứ cụ thể về vụ việc
này.
Hiệp hội thép Việt Nam đã có công văn gửi Thủ tướng Chính phủ về việc
nhập thép cây của Trung Quốc gắn mác thép Việt Ý bán ở Việt Nam. Hiệp hội
thép cho biết hiện nay do dư thừa thép, Trung Quốc đang áp dụng chính sách
khuyến khích xuất khẩu sản phẩm thép sang các nước trong khu vực bằng biện
pháp giảm 8% thuế VAT khi xuất khẩu, nhưng lại hạn chế xuất khẩu bán sản
phẩm (phôi thép) bằng cách tăng thuế xuất khẩu phôi thép từ 5 lên 10%.
Vì vậy, giá sản phẩm thép xuất sang Việt Nam rẻ hơn giá phôi gây khó khăn rất
lớn cho sản xuất thép trong nước. Thép cuộn Trung Quốc nhập khẩu vào Việt
Nam với giá rẻ hơn thép sản xuất trong nước lại dễ bán lẫn lộn với thép cuộn
Việt Nam đã khiến một số nhà máy phải ngừng sản xuất thép cuộn.
Riêng thép cây sản xuất tại Trung Quốc bắt buộc phải có nhãn mác ghi trong cây
thép nên chưa vào được thị trường Việt Nam vì người tiêu dùng chưa tin tưởng

chất lượng thép cây do Trung Quốc sản xuất và đã quen dùng thép cây thương
hiệu Việt Nam.
Việc làm trên đây đã gây phản ứng ở tất cả các Công ty sản xuất thép trong
Hiệp hội thép Việt Nam nên đã có cuộc họp ngày 5/3/2007 để Giám đốc các
Công ty sản xuất thép trong Hiệp hội phát biểu, phân tích những ảnh hưởng sẽ
xảy ra trước mắt và lâu dài đối với sản xuất thép trong nước. Các Công ty Liên
doanh và Công ty 100% vốn nước ngoài cũng biểu thị sự lo ngại khi đã đầu tư
vào ngành công nghiệp thép của Việt Nam.
Chính vì thế việc bảo vệ cho sản xuất thép trong nước ở những năm đầu của
lộ trình hội nhập là vô cùng cần thiết để kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước. Cho
tới nay, Hiệp hội thép Việt Nam chưa nhận được ý kiến chỉ đạo của Bộ ngành
liên quan để xử lý việc làm nêu trên của Công ty cổ phần thép Việt Ý.
Hiệp hội thép Việt Nam xin trình bày với Thủ tướng Chính phủ, xin Thủ tướng
chỉ đạo cho các Bộ ngành liên quan giải quyết nhanh chóng kiến nghị của ngành
thép, ngăn chặn việc làm trên đây của Công ty cổ phần thép Việt Ý và đề ra các
giải pháp để bảo vệ sản xuất trong nước, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành thép
trong nước lớn mạnh và phát triển trong quá trình hội nhập quốc tế.
1.4.2. Phản ứng của Trung Quốc
Chính sách trợ cấp của chính phủ Trung Quốc là nguyên nhân cho sự phát
triển quá nóng ngành thép nước này. Chính sách này từng được tuyên bố công
khai, với 3 điểm sau: (1) chính phủ sẽ hỗ trợ về thuế, lãi suất, cấp vốn nghiên cứu
khoa học, và các hỗ trợ vật chất khác cho các dự án sản xuất thép trọng điểm xây
dựng theo quy mô năng lực sản xuất mới tăng trong nước; (2) chính phủ hỗ trợ
tín dụng xuất khẩu để khuyến khích các nhà sản xuất thép và thiết bị sản xuất
thép để xuất khẩu những công nghệ nội địa tiên tiến ; (3) đối với những dự án
mới sản xuất gang, thép, và gia công thép, các doanh nghiệp chỉ phải bỏ ra 40%
vốn đầu tư cần có (tức là phần còn lại sẽ có khả năng được chính phủ tài trợ).
Trước mối đe dọa lớn từ thép nhập khẩu Trung Quốc, nhiều nước, đặc biệt là
Mỹ đã tiến hành những biện pháp đối phó trong khả năng có thể. Một mặt, Mỹ
“vận động” Trung Quốc phải dỡ bỏ những trợ cấp chính phủ cho các nhà sản

xuất thép trong nhiều năm qua, với lập luận rằng trợ giúp tài chính chỉ làm lợi
cho những nhà sản xuất thép không hiệu quả và do đó đe dọa đến giá cả thép
toàn cầu. Mặt khác, Mỹ tiến hành những vụ kiện chống phá giá nhằm áp đặt thuế
trừng phạt theo các luật định hiện thời của Tổ chức Thương mại thế giới-WTO
mà Mỹ cho là đứng về phía mình. Nhưng rốt cuộc Mỹ đều bị xử thua trong
những vụ kiện này cho đến nay, buộc họ phải đưa ra một đề xuất (chưa thông
qua) về áp đặt hạn ngạch nhập khẩu đối với thép Trung Quốc.
Thực tế, chính phủ Trung Quốc cũng đang tiến hành những điều chỉnh cần
thiết về chính sách để hạn chế sự tăng trưởng quá nóng trong ngành thép của họ.
Tuy nhiên, có lẽ nguyên nhân của việc làm này không phải là do áp lực quốc tế,
mà chủ yếu vì chính phủ Trung Quốc cũng nhận thức rằng sự phát triển quá mức
này là không tốt cho bản thân họ, xét đến những hậu quả của nó lên nền kinh tế.
Cũng cần lưu ý rằng chính phủ Trung Quốc không tìm cách ngăn chặn đà sụt
giảm giá thép của họ vì, đối với họ, giá thép giảm sẽ làm giảm áp lực lạm phát và
thúc đẩy quá trình tái cơ cấu trong ngành.
Chính sách trợ cấp công khai của họ đã khuyến khích quá nhiều doanh
nghiệp nhảy vào lĩnh vực sản xuất thép, với con số ước tính hơn 800 nhà sản xuất
đang tồn tại đến thời điểm này.
(Nguồn: People's Daily)
1.5 Động cơ can thiệp của Chính Phủ
1.5.1 Nâng cao khả năng cạnh tranh của thép Việt Nam

Chỉ trong 6 tháng đầu năm, về lĩnh vực xây dựng cơ bản, Nhà nước đã phải
điều chỉnh đầu tư tăng 1.800 tỷ đồng do giá thép tăng. Giá thép tăng còn kéo theo
nhiều hệ quả, gây ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội. Bộ Công Thương cho biết,
mặc dù ngành công nghiệp thép Việt Nam có tốc độ tăng trưởng bình quân
18%/năm nhưng quy mô còn nhỏ bé, phân tán và trình độ công nghệ vẫn ở mức
trung bình thấp. Chính vì vậy mà khả năng cạnh tranh thấp, thị trường phụ thuộc
bên ngoài, giá thép luôn bấp bênh khó kiểm soát khiến cả người tiêu dùng và DN
đều thiệt hại. Việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm thép đang là

đòi hỏi bức thiết. Song, theo nhiều chuyên gia, các nhà hoạch định chính sách
cần phải nhìn nhận, đánh giá cụ thể để có những chính sách phù hợp.
Đầu tiên là vấn đề đầu tư sản xuất phôi: Đây là khâu đầu rất quan trọng
ảnh hưởng nhiều tới sản xuất và cạnh tranh của sản phẩm thép. Đáng ra nó phải
được quan tâm đầu tư sớm. Mặc dù không một diễn đàn nào về phát triển công
nghiệp liên quan đến ngành thép lại không nhắc tới điệp khúc thiếu phôi. Vậy là,
thiếu phôi thì phải đầu tư nhưng thay vì khởi động bằng các dự án liên kết quy
mô lớn, thì các nhà đầu tư lại tách riêng với những nhà máy nhỏ Theo Hiệp hội
Thép Việt Nam thì thực tế, sản xuất phôi thép năm 2006 mới chỉ ở mức 1,4 triệu
tấn, đáp ứng khoảng 40% tổng nhu cầu. Chính vì phụ thuộc phần lớn vào việc đi
mua nên mỗi khi giá phôi nhập khẩu tăng, ngành thép trong nước lại nhao lên
tăng giá. Điều đó không chỉ làm thất thiệt cho người tiêu dùng và DN mà còn gây
ảnh hưởng đến mặt bằng giá (vì thép nằm trong rổ hàng hoá tính chỉ số giá tiêu
dùng).
Đến khâu sản xuất thép: Có thể nói, ngành công nghiệp sản xuất thép đã
phát triển với tốc độ tăng trưởng khá cao, có một lực lượng khá hùng mạnh, gồm
cả các nhà máy trong nước và các nhà máy liên doanh. Song, theo Bộ Công
Thương, hiện nay các doanh nghiệp luyện gang vẫn sử dụng lò cao công suất
nhỏ; công nghệ luyện thép phần lớn sử dụng lò điện công suất dưới 30 tấn/mẻ.
Công nghệ cán thép vẫn là các nhà máy cán thép dài có quy mô dưới 200.000
tấn/năm; cán thép dẹt mới chỉ có nhà máy cán nguội Phú Mỹ công suất 400.000
tấn/năm, còn lại các doanh nghiệp khác vẫn sử dụng nhà máy có công suất nhỏ,
trình độ công nghệ và thiết bị trung bình nên các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật còn
kém, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp Trong khi đó, Việt Nam phải
cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm thép từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật
Bản do tác động của việc gia nhập WTO, mở rộng AFTA. Đặc biệt, các doanh
nghiệp trong nước phải đối mặt với những thách thức từ ngành thép Trung Quốc.
Họ đang xuất khẩu thép với giá thành thấp, cung vượt cầu trên thị trường nội địa
và nâng giá nguyên liệu đầu vào đối với các nước trong khu vực
1.5.2 Trung Quốc tăng năng lực ngành thép và hỗ trợ 52 tỷ USD cho các công

ty thép

Trung Quốc đã bỏ ra 52 tỷ USD để hỗ trợ ngành thép. Các ưu đãi dành cho
các công ty thép gồm 17,3 tỷ USD dưới dạng vốn vay, tín dụng và khoảng 18,6
tỷ USD dưới dạng vốn cổ phần. Ông Wiley Rein, công ty luật Mỹ cho biết, theo
một bản báo cáo về ngành công nghiệp thép của Mỹ, đây là một phần trong chính
sách nhằm tăng năng lực sản xuất thép của Trung Quốc. Điều này sẽ ảnh hưởng
xấu đến các quốc gia sản xuất thép khác trên thế giới ( trong đó có Việt Nam ).
Do đó, để cạnh tranh một cách bình đẳng với ngành công nghiệp thép hết sức lớn
mạnh của Trung Quốc và các nước khác, Chính Phủ Việt Nam cần có những biện
pháp can thiệp thích hợp.
1.5.3 Đầu tư không hiệu quả, năng lực kém và lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu
nhập khẩu là hiện trạng ngành thép Việt Nam
Quy hoạch ngành sản xuất thép là quy hoạch mở, trong khi nhiều dự án
chúng ta chủ trương kêu gọi đầu tư vào các khâu: Luyện thép từ quặng, sản xuất
phôi và sản xuất các chủng loại thép đặc biệt phải hội đủ các điều kiện chín muồi
như thị trường đủ lớn, Việt Nam đã hội nhập vào WTO, thì nhà đầu tư mới mạnh
dạn bỏ vốn (trước đó đầu tư sẽ gặp rất nhiều rủi ro).
Nay chính là thời điểm chín muồi do nhu cầu tiêu thụ thép của chúng ta
tăng mạnh. Chỉ tính riêng từ đầu năm đến giữa tháng 7.2007, lượng nhập khẩu
nguyên liệu và sản phẩm thép đã là trên 5 triệu tấn, gần bằng cả năm 2006 (6,3
triệu tấn). Cộng với lượng thép sản xuất trong nước thì nhu cầu tiêu dùng thép đã
tăng tới 20% so với năm ngoái. Dự báo cả năm, mức tiêu thụ thép sẽ lên tới 10
triệu tấn.
Tuy nhiên, lượng thép giá rẻ của Trung Quốc tràn vào Việt Nam đã giành
thị phần của các doanh nghiệp trong nước và trong 6 tháng đầu năm, giá phôi
nhập khẩu từ Trung Quốc đã tăng cao khiến giá thành thép cũng tăng theo, do
chúng ta vẫn chưa chủ động được hoàn toàn về nguồn phôi.
1.5.4 Ngành thép đã thiếu một tầm nhìn dài hạn trong quy hoạch và định
hướng phát triển

Cuối năm 2006, đầu năm 2007 hàng loạt dự án xây dựng cơ bản sử dụng
nguồn vốn nhà nước và tư nhân đình đốn, chậm tiến độ thi công hoặc phải xin
dãn tiến độ thực hiện vì không thể chịu được sự tăng giá của các loại vật liệu xây
dựng, trong đó có thép xây dựng. Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSC), trong
nửa đầu năm nay các công trình xây dựng cơ bản của Nhà nước, các dự án đầu tư
nước ngoài và xây dựng dân dụng đang gia tăng đáng kể khiến tổng lượng tiêu
thụ thép cả nước đã tăng trên 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Thế nhưng, một
nghịch lý là, trong khi năng lực sản xuất thép trong nước đang dư thừa thì lại
phải nhường thị trường cho lượng thép giá rẻ của Trung Quốc được hỗ trợ bởi
chính sách khuyến khích xuất khẩu đã tràn vào Việt Nam (đặc biệt là thép
cuộn).Đồng thời với chính sách khuyến khích xuất khẩu thép thành phẩm, Trung
Quốc cũng siết lại việc xuất khẩu phôi thép bằng cách tăng thuế xuất khẩu phôi
năm 2007 từ 5% lên 15% khiến giá phôi nhập khẩu đã ở mức kỷ lục: Bình quân
từ 520-530 USD/tấn,có loại lên tới 540-550USD/tấn. Do còn phụ thuộc tới 70%
vào lượng phôi nhập khẩu và cũng không dễ mua nên sau khi đã cộng đủ các loại
thuế, chi phí thì giá một tấn thép của các doanh nghiệp ngành thép tại xưởng đã
là 629 USD/tấn, tương đương 10,13 triệu đ/tấn (tăng 2 triệu đ/tấn so với trước).
1.5.5 Việt Nam đang dần trở thành nơi tập trung "rác" công nghệ và chất
thải gây ô nhiễm môi trường
Những dự án luyện cán thép với suất đầu tư ban đầu thấp như thế sẽ không
giúp ngành thép cạnh tranh tốt hơn trong tương lai. Trái lại, điều này còn đặt Việt
Nam trước nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ lò cao của các nước, đồng thời
gây ra những tác hại lớn về môi trường và có thể khiến cho tình hình thiếu hụt
năng lượng trở nên trầm trọng hơn.Các dự án thép với lò cao dung tích dưới
1.000 mét khối và lò luyện thép nhỏ, tuy chi phí đầu tư ban đầu thấp nhưng
không có nghĩa là giá thành thép sản xuất sẽ rẻ hơn.
Trong tình hình thiếu điện như hiện nay, việc chấp nhận dây chuyền sản
xuất gang, thép lạc hậu, tiêu thụ nhiều điện, than sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng
năng lượng của nền kinh tế, đẩy Việt Nam tiến nhanh hơn đến tình trạng mất cân
đối về năng lượng. Ngoài ra, việc gần đây xuất hiện một loạt dự án thép quy mô

lớn cũng có thể không phải do tiềm năng thị trường, môi trường đầu tư hấp dẫn,
mà có thể vì Việt Nam dễ tiếp nhận các dự án phát sinh nhiều khí thải và các chất
thải nguy hại cho môi trường.

Chương 2: Phân tích tình huống
Hạn chế trong ngành thép và tác động của Chính Phủ Việt Nam
2.1. Những lỗ hổng trong chính sách thương mại khiến thép Trung Quốc
xâm nhập vào thị trường Việt Nam
2.1.1 Chưa có công cụ bảo hộ cho ngành thép Việt Nam
Nhu cầu thép xây dựng của Việt Nam đến nay mới chỉ khoảng 4 triệu
tấn/năm, trong lúc ngành luyện cán thépViệt Nam đã có công suất khoảng 7 triệu
tấn/năm, đã gây tình trạng dư thừa công suất rất lớn.Thị trường thép xây dựng
vốn đã nhỏ hẹp nay lại bị thép Trung Quốc giá rẻ cạnh tranh, sẽ làm cho tình
hình tiêu thụ thép xây dựng càng trở nên khốc liệt, và nếu phía Trung Quốc tung
vào thị trường Việt Nam loại thép cây với mức giá rẻ như thép cuộn thì khả năng
"sống còn" của ngành luyện cán thép của Việt Nam là khó khăn.
Để đối phó, đã có ý kiến đề nghị Hiệp hội Thép kêu gọi các doanh nghiệp
trong nước hợp tác cùng bán giá rẻ để ngăn không cho hàng Trung Quốc tràn
vào. Nhưng điều này không khả thi bởi ngành thép Việt Nam phải sản xuất với
số lượng lớn nên sẽ thiệt hại rất lớn, gây ảnh hưởng đến việc làm của hơn 8.000
công nhân trong các doanh nghiệp luyện cán thép. Cũng có ý kiến đề xuất dùng
biện pháp kiện thép Trung Quốc bán phá giá bởi có hiện tượng trợ giá do giảm
thuế. Chưa kể, để thực hiện được vụ kiện, các thủ tục rất phức tạp mà các doanh
nghiệp thép cũng như hiệp hội chưa chuẩn bị đủ điều kiện. Các hàng rào kỹ thuật
để bảo vệ thị trường trong nước vẫn chưa hề được các cơ quan chức năng chuẩn
bị, nên các DN thép trong nước không có "áo giáp" để bảo vệ, và khả năng đổ vỡ
là khó tránh nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài.
Nhằm cứu vãn tình hình, Hiệp hội Thép kêu gọi các doanh nghiệp mở rộng
thị trường nhập khẩu phôi thép để không bị ép giá nhập khẩu phôi từ Trung
Quốc, kêu gọi các doanh nghiệp giảm mạnh hơn nữa chi phí cán thép, bởi đang

có sự chênh lệch mức chi phí giữa các doanh nghiệp lên tới hàng chục USD/tấn.
Nhưng đây chưa phải là biện pháp tối ưu, bởi các dây chuyền công nghệ luyện
cán thép của các doanh nghiệp đã lạc hậu. Trong bối cảnh các cam kết quốc tế về
mở cửa thị trường đã có, mặt hàng thép Trung Quốc hoàn toàn có quyền vào thị
trường Việt Nam. Điều này tuy làm các nhà sản xuất thép xây dựng "điêu đứng",
nhưng người tiêu dùng sẽ có lợi bởi được mua thép giá rẻ chất lượng tốt. Đây sẽ
là dịp để ngành luyện cán thép Việt Nam nhìn lại chính mình và thêm nhiều nỗ
lực cạnh tranh. Để kết luận sản phẩm thép cuộn xuất xứ từ Trung Quốc có bán
phá giá trên thị trường Việt Nam hay không, cơ quan điều tra chống bán phá giá
của Việt Nam cần phải tiến hành các bước điều tra cần thiết, thu thập thông tin,
số liệu thống kê, tính toán giá XK, giá trị thông thường của hàng hoá.
2.1.2. Tình trạng nhập khẩu từ Trung Quốc
Các mặt hàng máy móc thiết bị nhập khẩu của Trung Quốc nhìn chung chỉ
có trình độ kỹ thuật thấp hoặc trung bình. Vì vậy chúng không phù hợp với
chính sách nhập khẩu máy móc thiết bị của chúng ta là nhập những thiết bị,
máy móc có kỹ thuật tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi
trường sinh thái của đất nước. Vì vậy, cần phải quản lý chặt chẽ hơn nữa việc
nhập khẩu máy móc thiết bị từ thị trường Trung Quốc. Từ năm 1997 trở laị đây
chúng ta đã phần nào hạn chế được số lượng nhập khẩu đối với những mặt
hàng này. Các thiết bị toàn bộ cho các nhà máy xi măng lò đứng do chất lượng
không cao, khả năng an toàn về mặt môi trường kém nên từ năm 1997 đã
không được nhập khẩu. Ðối với nhóm hàng tiêu dùng nhập khẩu, các sản phẩm
của Trung Quốc đang cạnh tranh rất mạnh mẽ với hàng sản xuất trong nước,
nhiều mặt hàng thuộc nhóm này có xu hướng" lấn áp" so với hàng trong nước
sản xuất do giá cả rất rẻ. Nhìn chung các mặt hàng này có chất lượng không
cao và chủ yếu là sản phẩm của các địa phương. Thực tế này đặt các nhà hoạch
định chính sách và các doanh nghiệp trong nước trước vấn đề làm thế nào để
hạn chế lượng hàng nhập khẩu loại này từ Trung Quốc, đồng thời nâng cao
chất lượng sản phảm trong nước, hạ giá thành để tăng tính cạnh tranh của các
sản phẩm cùng loại trên chính thị trường nội địa và khẳng định mình trên thị

trờng khu vực cũng như quốc tế. Nhóm hàng nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu là
các sản phẩm dầu mỏ, hoá chất, sắt thép, thuốc trừ sâu. Nhóm hàng lương thực
thực phẩm gồm có bột mỳ, hoa quả, dầu thực vật.Các chủng loại hàng nhập
khẩu từ Trung Quốc khá phong phú và một phần đáng kể được nhập theo
đường tiểu ngạch hoặc đi theo biên giới do hoạt động buôn lậu.
Bảng 1:Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu giai đoạn 1996-1999
(Ðơn vị:
USD)
Tên hàng 1996 1997 1998 8 tháng 1999
Ô tô các loại 8.830.000 2.574.919 3.400.000 532.100
Kính xây dựng 11.860.000 3.070.161
Linh kiện vi tính 3.278.034
Máy móc thiết bị 6.500.000 68.668.371
NPL dệt may da 68.070.000 17.155.970
NPL dợc 10.630.000 4.469.967
Phân bón 2.610.183 15.000.000 14.929.636
Sắt thép 52.900.000 90.600.000 49.4000.000 25.096.476
Xăng dầu 2.955.004 12.800.000 19.055.098
Xe máy IKD 144.700 125.000 6.271.993
(Nguồn: trang web từ Tổng cục hải quan www.vnn.vn )
2.2. Những nguyên nhân từ phía sự yếu kém của bản thân thép Việt Nam
2.2.1. Việt Nam không có các nguồn lực đảm bảo cho việc kinh doanh thép
Nhu cầu thép của Việt Nam đang tăng, ảnh hưởng xấu đến cán cân thanh
toán do nhập khẩu thép tăng. Để xây dựng nhà máy thép khép kín, cần phải nỗ
lực lớn và cần phải huy động được những nguồn lực sau: vốn xây dựng khoảng
5-7 tỷ USD, năng lực quản lý dự án xây dựng nhà máy thép khép kín có quy mô
lớn, có địa điểm xây dựng thích hợp và có cơ cấu thiết bị thích hợp, năng lực
kinh doanh bán hàng, lấy khách hàng trung tâm và kinh doanh có hiệu quả, kỹ
thuật và cơ sở hạ tầng tốt, đảm bảo duy trì vận hành nhà máy tốt. Việt Nam
không có các yếu tố trên, và việc sớm xây dựng nhà máy thép không phải là vấn

đề trước mắt.Việc xây dựng nhà máy thép khép kín ở Việt Nam chỉ có thể thực
hiện được sau năm 2010. Vì vậy việc đưa ra quyết định cuối cùng về xây dựng
nhà máy thép khép kín là không thích hợp.Với một số sản phẩm thép, năng lực
sản xuất trong nước không đáp ứng được yêu cầu và hiện đang phải nhập khẩu
phôi thép, trong khi đó năng lực cán thép đã trở nên quá tải.Việt Nam không cán
thép tấm, do vậy nhập khẩu thép tấm tăng nhanh chóng.
2.2.2 Hệ thống luật Việt Nam chưa có những công cụ bảo hộ thích hợp
Việc áp dụng thuế tự vệ ở nước ta trong sẽ gặp những khó khăn như hệ
thống luật pháp về kinh tế- thương mại của Việt Nam hiện còn đang trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số
45/2005/QH11 ngày 16/6/2005 đã có quy định các biện pháp về thuế tự vệ, thuế
chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và thuế chống phân biệt đối xử đối với
hàng hoá nhập khẩu. Ngày 11/7/2005, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số
90/2005/NĐ - CP quy định chi tiết một số điều của pháp lệnh chống bán phá gia
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Ngày 9/1/2006, Chính phủ tiếp tục ban hành
Nghị định 04/2006/NĐ- CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ
việcchống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Bộ Tài chính cũng đã ban hành
Thông tư số 106/2005/TT-BTC ngày 5/2/2005 hướng dẫn thu, nộp, hoàn trả thuế
chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các khoản đảm bảo thanh toán thuế
chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp. Tuy nhiên, chúng ta chưa có các bộ luật
hoàn chỉnh về thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp như các nước đã hội
nhập trước chúng ta nhiều năm.
2.2.3 Bộ máy thực thi và áp dụng còn nhiều bất cập
Đây là những yêu cầu không dễ đáp ứng một sớm một chiều nhất là trong
điều kiện hầu như chúng ta chưa có kinh nghiệm gì trong việc điều tra chống phá
giá, chống trợ cấp và cũng chưa có kinh nghiệm gì đáng kể trong việc đối phó
với việc hàng xuất khẩu của ta bị điều tra bán phá giá và trợ cấp. Chúng ta cũng
chưa có một đội ngũ luật sư hay tư vấn viên có kiến thức đầy đủ hay có kinh
nghiệm phong phú về bán phá giá hay trợ cấp. Xét trên những khía cạnh này,
việc hình thành và xây dựng bộ máy thực thi áp dụng chống bán phá giá và

chống trợ cấp của Việt Nam mới đang ở giai đoạn khởi động và bước đầu vận
hành. Đó sẽ là một trong những khó khăn chủ yếu của Việt Nam khi phải đối mặt
với những tranh chấp thương mại quốc tế khi tiến sâu hơn vào tiến trình tự do
hoá thương mại.
2.2.4 Sự liên kết giữa các khâu còn thấp
Bên cạnh đó lịch sử đàm phán các chính sách thương mại quốc tế cho thấy
chúng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi tương quan chính trị giữa các đối tác. Các biện
pháp chống phá giá và chống trợ cấp cũng không nằm ngoài quy luật chung đó.
Với vị thế chính trị chưa đủ mạnh, có thể dự đoán trước là sẽ gặp phải phản ứng
mạnh mẽ của các quốc gia xuất khẩu, gây ảnh hưởng đến nhiều chính sách kinh
tế khác. Khó khăn khác là sự hiểu biết và liên kết giữa các nhà sản xuất, tiêu
dùng, các nhà xuất và nhập khẩu về lĩnh vực chống bán phá giá và chống trợ
cấp còn hết sức hạn chế. Đó là chưa kể đến sự phối hợp lỏng lẻo của các cơ quan
nhà nước hữu quan trong việc giải quyết tranh chấp thương mại; sự thiếu đồng
bộ của các pháp luật khác có liên quan đến việc điều tra chống bán phá giá và
chống trợ cấp; sự hạn chế về kinh nghiệm, kinh phí cho việc tiến hành điều tra,
giải trình, đàm phán.
2.3. Tác động của sự can thiệp đến ngành thép Việt Nam
Bộ Công nghiệp, Tổng công ty Thép đã phải áp dụng nhiều biện pháp
quyết liệt để bình ổn giá, giảm 200.000-300.000đ/tấn thép để kiềm chế giá,
vượt qua "cơn sốt nóng" về giá trên thị trường. Để tạo điều kiện đảm bảo ổn
định thị trường thép trong nước, từ ngày 27/2 đến 1/3/2004, Bộ Tài chính đã
ban hành 2 quyết định giảm thuế nhập khẩu đối với phôi thép và các sản phẩm
thép xuống 0%; Bộ Thương mại cũng ban hành cơ chế khuyến khích nhập khẩu
thép vào Việt Nam với việc thưởng quota nhập khẩu xe máy. Tuy nhiên, cho
đến nay sau hơn 2 tháng kể từ khi những quyết định quan trọng này được ban
hành, ngành Thép lại đứng trước nguy cơ rơi vào "cơn sốt lạnh". Giá phôi thép
chào bán vào Việt Nam hiện ở mức trên 400 USD/tấn, giảm 30-40 USD/tấn, so
với thời điểm tháng 3/2004. Chịu ảnh hưởng của chính sách hạ thuế suất
khuyến khích nhập khẩu phôi thép và thép thành phẩm, giá phôi thép trên thị

trường thế giới giảm, cùng với tâm lý giảm cầu chờ giá xuống trên thị trường
trong nước đã đẩy nhiều doanh nghiệp sản xuất thép vào thế "tiến thoái lưỡng
nan".
Giá thép xây dựng trên thị trường hiện tại giảm 300-400đ/kg so với thời
điểm cuối tháng 3/2004. Mức tiêu thụ của các nhà sản xuất thép giảm mạnh,
tháng 4/2004 chỉ đạt khoảng 150.000 tấn, giảm 30% so với mức tiêu thụ bình
thường. Nhiều công ty sản xuất thép lâm vào tình trạng tồn đọng sản phẩm,
song cũng không thể hạ giá thành, do đầu vào nhập khẩu phôi thép ở thời điểm
giá thế giới ở mức cao.

×