Tải bản đầy đủ (.doc) (153 trang)

Hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan - Thực trạng và giải pháp.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.49 KB, 153 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Hải quan Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước có nhiệm vụ : “....thực
hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải; phịng chống bn lậu,
vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về
thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối
với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, chính sách thuế
đối với hàng hóa xuất khẩu” [8, tr43].
Hiện nay, tồn cầu hố kinh tế đang là một xu thế tất yếu có ảnh hưởng
đến mọi quốc gia trên thế giới, xu thế này đã tạo ra sự gia tăng mạnh mẽ các
dịng lưu chuyển hàng hố, dịch vụ, vốn - công nghệ, nguồn nhân lực lao
động,.. giữa các quốc gia cùng với sự tăng lên không ngừng của lượng hành
khách, phương tiện xuất nhập cảnh. Yêu cầu của việc thực hiện lộ trình dỡ bỏ
các rào cản thương mại đang là áp lực rất lớn đối với các quốc gia, đặc biệt là
đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh nêu
trên, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một địi hỏi tất yếu khách quan, nó
mang lại nhiều cơ hội để phát triển kinh tế đồng thời cũng đặt ra khơng ít
những thách thức, khó khăn cho Việt Nam nói riêng và các nước đang phát
triển nói chung.
Với những nỗ lực cải cách, mở cửa, tập trung ưu tiên cho hoạt động
kinh tế đối ngoại, phát triển thương mại, thúc đẩy quá trình hội nhập trong
những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát
triển kinh tế đất nước mà rõ nét nhất là nền kinh tế đạt được tốc độ tăng
trưởng cao liên tục trong nhiều năm và đặc biệt là Việt Nam đã trở thành viên
chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tuy nhiên, cũng chính
q trình hội nhập kinh tế quốc tế đã kéo theo sự gia tăng của các loại tội



2

phạm, các hành vi vi phạm pháp luật khác, đặc biệt là hoạt động buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và gian lận thương mại. Điều này
đang đặt ra yêu cầu đối với các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và các cơ
quan bảo vệ pháp luật nói riêng cần nghiên cứu, xây dựng các giải pháp tăng
cường công tác khám phá, ngăn chặn hoạt động bn lậu, gian lận thương
mại, trong đó ngành Hải quan đóng vai trị hết sức quan trọng.
Trong các năm qua, ngành Hải quan đã không ngừng cải cách, phát
triển, hiện đại hoá nhằm nâng cao năng lực trong hoạt động thực thi nhiệm vụ
nói chung và năng lực đấu tranh phịng, chống bn lậu, gian lận thương mại
nói riêng, đã tích cực phối hợp với các lực lượng, ngành chức năng như: Công
an, Quản lý thị trường, Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng,… đã thu được
nhiều kết quả khả quan trong cơng tác khó khăn và gian khổ này. Tuy nhiên
tình trạng bn lậu, gian lận thương mại vẫn là vấn đề bức xúc, nóng bỏng và
ngày càng có xu hướng tinh vi, xảo quyệt hơn.
Hoạt động phịng chống bn lậu và gian lận thương mại của ngành
Hải quan luôn là một lĩnh vực được chú ý và quan tâm, đã có nhiều đề tài
nghiên cứu về lĩnh vực đặc thù này, nhưng hầu hết đều là những đề tài nghiên
cứu sâu trong chuyên ngành luật như đề tài luận văn thạc sỹ của Quách Đăng
Hòa về “Điều tra của lực lượng Hải quan đối với các vụ án buôn lậu qua
tuyến đường biển Việt Nam " hay đề tài luận văn thạc sỹ của Đặng Công
Thành về “Thẩm quyền điều tra hình sự của Hải quan Việt Nam”.... Tuy
nhiên hiện chưa có cơng trình nghiên cứu hay đề tài nghiên cứu tồn diện về
cơng tác phịng, chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan.
Vì vậy học viên chọn đề tài “Hoạt động phịng chống bn lậu và gian lận
thương mại của ngành Hải quan - Thực trạng và giải pháp” làm nội dung
nghiên cứu.



3

2. Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu hoạt động phịng chống buôn lậu và gian lận thương mại
của ngành Hải quan nhằm tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả phịng
chống bn lậu và gian lận thương mại của ngành trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận
thương mại của ngành Hải quan.
- Phạm vi nghiên cứu là những chính sách, giải pháp của ngành Hải
quan và những kết quả, hạn chế trong hoạt động phịng chống bn lậu, gian
lận thương mại. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2002 đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử
dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lơgic đồng thời cịn sử
dụng các phương pháp cụ thể sau: Phương pháp thống kê; phương pháp phân
tích, tổng hợp; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương pháp chuyên gia….để
làm rõ nội dung nghiên cứu.
5. Những đóng góp của luận văn
- Làm rõ thực trạng hoạt động phịng chống bn lậu và gian lận
thương mại của ngành Hải quan trong thời gian qua.
- Đưa ra các dự báo về tình hình bn lậu, gian lận thương mại trong
những năm tới đồng thời đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả
công tác đấu tranh phịng, chống bn lậu và gian lận thương mại của ngành
Hải quan.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo; luận
văn được kết cấu thành 3 chương:



4

Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động phịng
chống bn lậu và gian lận thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của ngành Hải quan trong hoạt động
phịng chống bn lậu và gian lận thương mại.
Chương 3: Giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động phịng chống bn
lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan.


5

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG
PHỊNG CHỐNG BN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI
1.1. Cơ sở lý luận về hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương
mại
1.1.1. Kinh tế thị trường và vấn đề buôn lậu, gian lận thương mại
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội trong đó sản
xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đều gắn chặt với thị trường: Sản xuất ra
hàng hố - dịch vụ gì, khối lượng bao nhiêu ? sản xuất bằng cách nào ? ai sẽ
nhận hàng hoá - dịch vụ sau khi sản xuất ra ? tất cả đều xuất phát từ nhu cầu
của thị trường và thông qua thị trường. Thị trường là trung tâm của tồn bộ
q trình sản xuất và tái sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho xã
hội. Thị trường là tập hợp các thoả thuận thơng qua đó người bán và người
mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá - dịch vụ. Trong thị trường, người
mua và người bán hàng hoá - dịch vụ tác động với nhau hình thành cung cầu
hàng hố - dịch vụ, sự tương tác giữa cung - cầu hàng hoá - dịch vụ trên thị
trường hình thành giá cả thị trường. Thị trường điều tiết cung - cầu - hàng hoá
- dịch vụ, mối quan hệ kinh tế giữa người mua, người bán, giữa nhà sản xuất

kinh doanh với khách hàng thông qua mua bán bằng tiền trên thị trường.
Trong kinh tế thị trường các mối quan hệ kinh tế đều tiền tệ hố, khi tiền tệ
tham gia vào q trình lưu thơng hàng hố thì trao đổi hiện vật trực tiếp cũng
khơng tồn tại. Tiền tệ có mặt trong lưu thơng, làm cho q trình trao đổi
nhanh hơn, thúc đẩy quy mô sản xuất tăng lên và đời sống nhân dân được
nâng cao.
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động thương mại phát triển và nó có
vị trí rất quan trọng. Thương mại là một bộ phận hợp thành của tái sản xuất,
nối liền giữa sản xuất với tiêu dùng. Dịng vận động của sản phẩm hàng hố


6

qua khâu thương mại hoặc để tiếp tục cho sản xuất hoặc đi vào tiêu dùng cá
nhân. Ở vị trí cấu thành của tái sản xuất, thương mại được coi như hệ thống
dẫn lưu tạo ra sự liên tục của quá trình tái sản xuất, khâu này bị ách tắc sẽ dẫn
tới sự khủng hoảng của sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất hàng hố có mục đích
từ trước là để thoả mãn nhu cầu của người khác, để trao đổi mua bán hàng
hố. Khơng thể nói đến sản xuất hàng hố mà khơng nói đến thương mại.
Thương mại là lĩnh vực kinh doanh cũng thu hút trí lực và tiền vốn của các
nhà đầu tư để thu hút lợi nhuận, thậm chí siêu lợi nhuận, kinh doanh thương
mại trở thành ngành sản xuất vật chất thứ hai.
Thương mại có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân thơng qua
việc thúc đẩy sản xuất hàng hố phát triển, chấn hưng các quan hệ hàng hoá
tiền tệ. Qua hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích đối với người sản
xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy phân
công xã hội tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chun mơn hố
sản xuất. Thương mại kích thích sự phát triển lực lượng sản xuất, trong đó lợi
nhuận là mục đích của hoạt động thương mại. Người sản xuất sẽ tìm mọi cách
để cải tiến cơng tác áp dụng khoa học và cơng nghệ mới, hạ chi phí để thu

nhiều lợi nhuận. Đồng thời, cạnh tranh trong thương mại bắt buộc người sản
xuất phải năng động, không ngừng nâng cao tay nghề, chun mơn và tính
tốn thực chất hoạt động kinh doanh, tiết kiệm các nguồn lực nâng cao năng
suất lao động. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản xuất phát
triển. Thương mại kích thích nhu cầu và ln tạo ra nhu cầu mới, lợi ích của
sản phẩm hay mức độ thoả mãn nhu cầu của sản phẩm sẽ tạo ra khả năng tái
tạo nhu cầu. Thương mại một mặt, làm cho nhu cầu trên thị trường trung thực
với nhu cầu, mặt khác nó làm bộc lộ tính đa dạng, phong phú của nhu cầu.
Thương mại buộc các nhà sản xuất phải đa dạng về loại hình, kiểu dáng, mẫu
mã chất lượng sản phẩm. Điều này tác động ngược lại với người tiêu dùng,
làm bật dậy các nhu cầu tiềm năng. Tóm lại thương mại làm tăng trưởng nhu
cầu và là nguồn gốc rễ cho sự phát triển của sản xuất kinh doanh.


7

Thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, làm cho quan
hệ thương mại giữa nước ta với các nước khác khơng ngừng phát triển. Điều
đó giúp chúng ta tận dụng được ưu thế của thời đại, phát huy được lợi thế so
sánh, từng bước đưa thị trường nước ta hội nhập với thị trường thế giới, biến
nước ta thành bộ phận của phân công lao động quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, thương mại
thể hiện sự tự do mua bán theo giá cả thị trường, người mua và người bán
được tự do lựa chọn bạn hàng, ở đó có sự gắn kết giữa sản xuất với thương
mại. Thương mại cũng là một chức năng của sản xuất hàng hoá, giữa các
doanh nghiệp, các vùng và quốc gia thực hiện cơ chế mở trong mua bán trao
đổi hàng hoá.
Thực tế, trong kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường, thương mại phát triển có những mặt tích cực nhưng bên cạnh đó có
những mặt tiêu cực. Vì mục tiêu lợi nhuận đã làm phát sinh tư tưởng sùng bái

đồng tiền, chạy theo cuộc sống giàu có mà khơng tơn trọng pháp luật, làm
giàu bất chính, đó là tệ nạn “bn lậu và gian lận thương mại”. Từ lợi dụng cơ
chế tự do buôn bán lưu thơng hàng hố, một số người đã kinh doanh trái pháp
luật, gian lận thương mại để kiếm lời. Tệ nạn buôn lậu và gian lận thương mại
là một nhược điểm rất lớn trong nền kinh tế thị trường, nó bóp méo vai trị
của thương mại đi ngược lại với bản chất của thương mại. Thương mại có tác
động tích cực đối với nền kinh tế, ngược lại tệ nạn buôn lậu và gian lận
thương mại lại tác động tiêu cực đối với nền kinh tế.
Việc nghiên cứu hoạt động phịng, chống bn lậu và gian lận thương
mại để hạn chế tác hại của nó là rất cần thiết. Do vậy, để đấu tranh chống
buôn lậu và gian lận thương mại đem lại hiệu quả trước hết phải có nhận thức
đầy đủ về buôn lậu và gian lận thương mại trong kinh tế thị trường như thế
nào?


8

* Khái niệm về buôn lậu
Thuật ngữ buôn lậu được sử dụng với những ý nghĩa rất khác nhau. Từ
góc độ của khoa học về ngôn ngữ, cụm từ "buôn lậu" có ý nghĩa là bn bán
những hàng hố trốn thuế và hàng cấm. Đây là một khái niệm kế thừa những
hiểu biết xưa nay của cụm từ này và khá phù hợp với quan niệm phổ thông
hiện nay.
Theo tài liệu của Tổ chức Hải quan thế giới dành cho các điều tra viên
về gian lận thương mại thì hành vi bn lậu được khái niệm như sau:
“Đó là hành vi đưa hàng hoá vào trong lãnh thổ một quốc gia hay đưa
hàng hố ra khỏi lãnh thổ đó mà vi phạm pháp luật hay các quy định hiện
hành của quốc gia đó, trốn tránh hay có ý định trốn tránh nộp thuế Hải quan
bằng cách không khai báo hoặc trốn tránh không chịu sự kiểm tra của cơ quan
chức năng” [27, tr57].

Từ khái niệm nêu trên cho thấy, từ “buôn lậu” được chia làm hai loại
như sau:
- Trốn tránh hoặc tìm có cách trốn tránh nộp thuế/lệ phí theo quy định
hoặc
- Nhập khẩu, xuất khẩu hay có tìm cách nhập khẩu, xuất khẩu hàng hoá
nằm trong những mặt hàng cấm theo quy định của pháp luật, các chính sách
hay hạn ngạch khác.
Từ xa xưa, trong "Quốc triều Hình luật" của triều Lê (1428 - 1788)
được xem là Bộ Luật hình sự hồn chỉnh nhất của thể chế phong kiến Việt
Nam, tội danh buôn lậu không được quy định. Mặc dù vậy "Quốc triều Hình
luật" đã quy định "những trang trại ven bờ biển mà đón tiếp thuyền bn,
ngầm dỡ hộ hàng hố lên bờ thì bị xử biếm (cách chức), phạt gấp 3 tang vật
để sung công …" Những người bán ruộng đất ở bị cõi, binh khí; các thứ chất
nổ có thể chế hoả tiễn, hoả pháo cho người nước ngoài đều phải tội chém",


9

"bán mắm muối ra nước ngồi … thì bị xử đi Châu Xa". Các mặt hàng cấm
xuất khẩu lúc đó được quy định gồm: ruộng đất, thuốc nổ, vũ khí, sắt, đồng,
vàng da trâu, gỗ lim, vỏ quế, trân châu, ngà voi … Những hành vi cụ thể, tách
biệt nói trên trong tiềm thức xã hội đều được gộp chung lại là hiện tượng
bn lậu chứ khơng có tội danh buôn lậu.
Trước năm 1985, thuật ngữ "tội buôn lậu" đã được đề cập trong một số
văn bản pháp luật nước ta như Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn của lực
lượng cảnh sát nhân dân (20/7/1962); Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn
lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (30/6/1982). Song về cơ bản tội danh
"buôn lậu" lúc đó chưa được hướng dẫn nhận diện đầy đủ với các yếu tố cấu
thành và dấu hiệu pháp lý đặc trưng. Phần lớn người ta vẫn chịu ảnh hưởng
của các quan niệm truyền thống, cho rằng buôn lậu bao gồm các hành vi kinh

doanh trái phép, trốn thuế, đầu cơ tích trữ, làm hàng giả, bn bán hàng cấm.
Từ năm 1985, Bộ luật Hình sự ra đời (27/06/1985) đã chính thức ghi
nhận tội danh bn lậu. Điều 97 của Bộ Luật Hình sự tội bn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được quy định: "Người nào
buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền
Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử,
văn hố thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm …". Bắt đầu từ đây, tội danh
buôn lậu đã được xác định với bốn yếu tố cấu thành tội phạm (các mặt khách
thể, mặt khách quan, mặt chủ thể, mặt chủ quan) và những dấu hiệu pháp lý
đặc trưng, nên đã có tác dụng hướng dẫn nhận thức cũng như chỉ đạo thực phi
pháp luật.
Từ năm 1986, đất nước chuyển sang phát triển kinh tế thị trường, tình
hình bn lậu có xu hướng gia tăng. Đến năm 1999, trước yêu cầu của thực
tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội
khố 10, ngày 21/12/1999, Quốc hội đã thơng qua việc sửa đổi, bổ sung, sửa
đổi Bộ luật hình sự, tại Điều 153 của Bộ luật, tội buôn lậu được quy định


10

thành một tội độc lập (đã tách tội vận chuyển trái hàng hoá, tiền tệ qua biên
giới được quy định tại Điều 154 Bộ luật hình sự):
Như vậy, về mặt khách quan của tội buôn lậu được thể hiện ở hành vi
“bn bán trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, đá quý hoặc
những vật phẩm có giá trị khác.....”. Hành vi “bn bán trái phép qua biên
giới” là cấu thành cơ bản của tội buôn lậu, được xác định như sau:
- Buôn bán qua biên giới, trái với quy định về quản lý hải quan những
hàng hóa, tiền tệ, kim khí q, đá q có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên hoặc
hàng hóa là các vật phẩm thuộc di tích, lịch sử văn hóa hay hàng cấm có số
lượng lớn. Hành vi đó thường được thể hiện dưới một số hình thức như:

khơng khai báo, khai báo gian dối; giả mạo giấy tờ dùng trong xuất, nhập
khẩu; giấu hàng hố tiền tệ; khơng đi qua các cửa khẩu hoặc trốn tránh sự
kiểm tra, giám sát của Hải quan, Thuế vụ, Bộ đội biên phịng, Cơng an.....
- Khơng có đầy đủ các giấy tờ hợp lệ của các cơ quan có thẩm quyền
khi thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.
* Khái niệm về gian lận thương mại
Gian lận thương mại theo Từ điển tiếng Việt là "dối trá, lừa lọc" trong
hoạt động thương mại. Người có hành vi gian lận thương mại gọi là "gian
thương" tức là "người có nhiều mưu mơ lừa lọc", "kẻ buôn bán gian lận và
trái phép". Gian lận được coi là hành vi của con người cụ thể có lời nói hoặc
cử chỉ, hành động khơng đúng với bản chất của sự vật hiện tượng nhằm mục
đích đánh lừa người khác. Trong dân gian gian lận thương mại gắn liền với
thành ngữ "buôn gian, bán lận" và dùng để chỉ những thủ đoạn mánh khóe lừa
lọc khách hàng hoặc người khác để thu lời bất chính. Hành vi "buôn gian, bán
lận" trong dân gian được hiểu bao gồm một số thủ đoạn đơn giản như: hàng
xấu nói tốt, ít nói nhiều, rẻ nói đắt, cân đo điêu, bn bán hàng cấm, lén lút,
giấu giếm, lậu thuế … Hành vi gian lận thương mại trước hết phải là hành vi
gian lận được thể hiện trong lĩnh vực thương mại. Chủ thể của hành vi gian


11

lận thương mại là các chủ hàng, có thể là người mua hoặc người bán, cũng có
khi là cả người mua và người bán. Mục đích của hành vi gian lận thương mại
là nhằm thu lợi bất chính từ thực hiện trót lọt hành vi lừa đảo, dối trá.
Như vậy, gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là những hành vi
gian lận thương mại của chủ hàng trong hoạt động xuất khẩu để trốn tránh
việc kiểm soát và quản lý của Hải quan. Vấn đề này được Hội đồng Hợp tác
Hải quan (nay là Tổ chức Hải quan thế giới) chú ý từ những ngày mới thành
lập. Trong Bản khuyến nghị về giúp đỡ hành chính lẫn nhau do Hội đồng Hợp

tác Hải quan quốc tế đưa ra ngày 5/12/1975 cũng đã đề cập vấn đề giúp đỡ
hành chính lẫn nhau về chống gian lận thương mại. Qua nhiều lần bổ xung,
thảo luận, đến 9/6/1977 định nghĩa về gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải
quan mới được Hội đồng Hợp tác Hải quan quốc tế đưa ra trong Cơng ước
quốc tế về hỗ trợ hành chính lẫn nhau trong ngăn chặn, trấn áp và điều tra các
vi phạm Hải quan - Công ước Nairobi. Khái niệm về gian lận thương mại
trong lĩnh vực Hải quan được Công ước Nairobi nêu ra như sau:
"Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là hành vi phạm pháp
luật Hải quan trong đó một cá nhân lừa dối Hải quan để nhằm lẩn tránh một
phần hoặc toàn bộ việc nộp thuế xuất nhập khẩu, việc áp dụng các biện pháp
cấm hoặc hạn chế do luật pháp Hải quan quy định, hoặc thu được một khoản
lợi nhuận nào đó qua việc vi phạm pháp luật này".
Về khái niệm này đã khái quát được hành vi gian lận thương mại trong
lĩnh vực Hải quan, hành vi đó được thể hiện bằng sự lừa dối thông qua hành
động lẩn tránh việc nộp thuế và tuân thủ pháp luật hải quan nhằm mục đích
thu được một khoản lợi nào đó. Thực tế, trong bối cảnh hoạt động thương mại
quốc tế ngày càng phát triển, song song với xu thế này là những hoạt động
gian lận thương mại cũng ngày càng phức tạp, tinh vi. Điều đó cho thấy, khái
niệm trên chưa thể hiện được một cách đầy đủ, chính xác hành vi gian lận
thương mại trong lĩnh vực hải quan. Vì vậy, tại hội nghị quốc tế lần thứ V về


12

chống gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan do Tổ chức Hải quan thế
giới triệu tập tại Brussels (Bỉ) từ ngày 9/10/1995 đến ngày 13/10/1995 đã xem
xét lại khái niệm về gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan và thống
nhất đưa ra một khái niệm mới như sau:
"Gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan là hành vi vi phạm các
điều khoản pháp quy hoặc pháp luật hải quan nhằm:

- Trốn tránh hoặc cố ý trốn tránh việc nộp thuế hải quan, phí và các
khoản khu khác đối với việc di chuyển hàng hoá thương mại và/hoặc:
- Nhận và có ý định nhận việc hồn trả trợ cấp hoặc phụ cấp cho hàng
hố khơng thuộc đối tượng đó và/hoặc:
- Đạt được hoặc cố ý đạt được lợi thế thương mại bất hợp pháp gây hại
cho các nguyên tắc và tập tục, cạnh tranh thương mại chân chính".
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt
động gian lận thương mại ngày càng đa dạng và tình tinh vi phức tạp hơn. Hội
nghị đã thống nhất phân chia các hình thức gian lận thương mại thành 16 loại:
1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của Hải
quan (thí dụ: Bn bán động vật q hiếm, sản phẩm văn hoá …)
2. Khai báo sai chủng loại hàng hoá.
3. Khai tăng, giảm giá trị hàng hoá.
4. Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ hàng hố (ví dụ: Nhà nước ta có
chính sách ưu đãi về thuế đối với hàng hoá của các nước ASEAN, Trung
Quốc,..).
5. Lợi dụng chế độ ưu đãi đối với hàng hoá gia công.
6. Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập (đây là hàng
hoá được miễn thuế xuất nhập khẩu nhưng đã sử dụng sai mục đích ).


13

7. Lợi dụng các yêu cầu về giấy phép xuất nhập khẩu (thí dụ các loại
giấy phép theo nhu cầu chuyên ngành như hàng cho an ninh, quốc phòng, cho
y tế, văn hoá, xã hội …)
8. Lợi dụng chế độ quá cảnh đem dùng trong nước (ví dụ: hàng của
Lào, Trung Quốc vận chuyển qua lãnh thổ Việt Nam).
9. Khai báo sai về số lượng, chất lượng hàng hoá.
10. Lợi dụng chế độ mục đích sử dụng, bn bán trái phép hàng hố

được sử dụng nhất định (ví dụ: Hàng cho đồng bào bị bão lụt, cho các dân tộc
miền núi để xố đói giảm nghèo, hàng cho các cơ quan ngoại giao…).
11. Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc quy định bảo vệ
người tiêu dùng.
12. Buôn bán hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã.
13. Buôn bán hàng khơng có sổ sách
14. Làm giả, làm khống việc hồn hay truy hồn thuế Hải quan (thí dụ:
Làm giả chứng từ về hàng đã xuất …)
15. Kinh doanh "ma" để hưởng tín dụng thuế trái phép.
16. Thanh lý phá sản có chủ đích để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế (ví
dụ: Cơng ty đăng ký kinh doanh một thời gian ngắn, nợ thuế rồi tuyên bố phá
sản).
Nhìn chung, đối với các nước trên thế giới, tuỳ thuộc vào mức độ tác
hại, hậu quả của các hành vi gian lận thương mại đó mang lại cho xã hội sẽ bị
xử lý hành chính hay xử lí hình sự. Đối với nhiều nước như Mỹ, Nhật, Pháp
bên cạnh việc áp dụng các công ước quốc tế xử lý 16 hành vi này theo luật
Hải quan, cịn quy định trong Luật Hình sự các tội danh cụ thể tương ứng với
những hành vi đó. Hiện nay, một vấn đề mới trong gian lận thương mại mà
Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) cũng đang rất quan tâm đó là gian lận


14

thương mại trong chuyển tải hàng hoá xuất nhập khẩu. Chuyển tải là một
khâu cần thiết trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại, nhằm đưa
hàng hoá từ nơi này đến nơi khác nhưng phải đi qua một số địa điểm nhất
định nào đó. Tuy nhiên, đơi khi chủ hàng sử dụng hoạt động chuyển tải để che
giấu xuất xứ thực sự của hàng hố và đó là gian lận thương mại trong chuyển
tải. Do vậy, gian lận thương mại trong chuyển tải được hiểu như sau “Gian
lận trong chuyển tải là việc sử dụng một nước thứ 3 để giấu nguồn gốc thực

sự của hàng hoá, che mắt Hải quan của nước nhập khẩu”. Tại nước thứ 3,
người ta cung cấp các tài liệu giả hoặc có hoạt động gian dối nhằm thay đổi
nguồn gốc hàng từ xuất khẩu sang nước quá cảnh (hay nước thứ 3). Như vậy
đến khi nhập vào, họ tránh được hạn chế đặt ra của nước nhập như: hạn
ngạch, li xăng, chế độ ưu đãi.,…
Qua thực tế cho thấy, một số dạng gian lận thương mại qua chuyển tải
là :
- Hàng hoá đưa vào một cảng hoặc một kho ở nước chuyển tải ở đây
chúng có thể thay thế được nhãn rồi lại bốc lên tàu và xem như sản phẩm của
nước chuyển tải hoặc một số nước nào đó.
- Hàng đưa vào nước chuyển tải là hàng hoàn chỉnh hoặc bán sản phẩm
nhưng được khai là nguyên nhiên phụ kiện được coi là nguyên liệu để sản
xuất hoặc để chế biến và nghiễm nhiên trở thành sản phẩm của nước chuyển
tải.
- Hàng mang giấy tờ giả để chứng minh là hàng của nước thứ 3 trên
đường đi từ nước xuất hàng đến nước nhập hàng.
1.1.2. Mối quan hệ giữa buôn lậu và gian lận thương mại
Gian lận thương mại dù không phải là một tội danh trong Bộ luật hình
sự, nhưng các dấu hiệu đặc trưng của nó lại trùng hợp với tội buôn lậu và
buôn lậu cũng bao gồm gian lận thương mại.


15

Theo nghiên cứu khoa học về tội phạm thì gian lận thương mại thực
chất là những hành vi, thủ đoạn cụ thể để gian dối nhằm có được lãi suất cao
trong kinh doanh, bn bán nói chung, nhưng nếu sự gian lận đó được thực
hiện để nhằm bn bán trái phép qua biên giới thì đó chính là các hành vi
trong mặt khách quan của tội buôn lậu.
Hội nghị Quốc tế lần thứ năm (1995) về chống gian lận thương mại của

Tổ chức Hải quan thế giới tại Brussels (Bỉ) đã xếp bn lậu vào trong các
hình thức gian lận thương mại, nhưng coi đó là loại hình gian lận thương mại
nguy hiểm, đặc biệt.
Công ước quốc tế Nairobi cũng đã đưa ra khái niệm buôn lậu và gian
lận thương mại nhằm che dấu sự kiểm tra, kiểm soát của Hải quan bằng mọi
thủ đoạn, mọi phương tiện trong việc đưa hàng hoá lén lút qua biên giới.
Trong Bộ Luật hình sự của nước ta đã ghi nhận tội bn lậu "….bn
bán trái phép, vận chuyển trái phép hàng hố qua biên giới…..", tổ chức Hải
quan thế giới phân loại các hành vi gian lận thương mại có hành vi "buôn bán
hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của Hải quan", “khai báo
sai chủng loại hàng hoá", "khai tăng, giảm giá trị hàng hoá".... Đây là những
hành vi buôn bán gian lận trái pháp luật mang tính chất giống như bn lậu.
"Bn lậu" từ trước đến nay được nhiều người biết đến hơn là "gian lận
thương mại". Gian lận thương mại là thuật ngữ mới xuất hiện, bao gồm nhiều
hành vi gian lận, trái pháp luật hơn bn lậu hay nói cách khác nội hàm của
nó rộng hơn nội hàm của bn lậu. Vì vậy hai thuật ngữ này thường đi kèm
với nhau "Buôn lậu và gian lận thương mại".
1.1.3. Nguyên nhân xuất hiện buôn lậu và gian lận thương mại
Buôn lậu và gian lận thương mại là hiện tượng kinh tế - xã hội xuất
hiện trong hoạt động lưu thơng hàng hố cùng với sự ra đời của hàng rào thuế
quan. Nếu như hoạt động lưu thơng hàng hố góp phần cân bằng quan hệ
cung - cầu trên thị trường thì những nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại và phát


16

triển của tình trạng bn lậu và gian lận thương mại là sự chênh lệch giá cả,
nhu cầu sử dụng hàng hoá ở các vùng địa lý khác nhau, do hành vi kiếm lời
bất chính, cạnh tranh trái pháp luật, không lành mạnh.
Doanh số bán lẻ trên thị trường xã hội là chỉ tiêu phản ánh nhu cầu tiêu

dùng thực đã được thực hiện của tồn xã hội. Cịn chỉ số giá cả, và theo đó là
sự biến động của nó là chỉ tiêu phản ánh tương quan giữa hai đại lượng hàng
hố và sức mua. Nói cách khác đó là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ cung cầu
về hàng hoá. Hiểu được bản chất kinh tế của vấn đề này, các nhà sản xuất tìm
cách tiết kiệm chi phí, hạ giá thành trên cơ sở cải tiến mẫu mã hấp dẫn, phù
hợp thị hiếu sử dụng, nâng cao chất lượng sản phẩm, bán ra với giá thị trường
chấp nhận, nhằm quay vòng vốn nhanh, thu lợi nhuận cao. Để làm được
những điều này không phải là việc dễ dàng và lại nhất là trong điều kiện cạnh
tranh gay gắt hiện nay. Một trong những hiện tượng cạnh tranh, kinh doanh
để kiếm lời nhưng trái pháp luật là lao vào "buôn lậu và gian lận thương mại".
Một số nhà kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, dù ở mức độ khác nhau
đã tìm đủ mọi cách luồn lách để thắng trong cuộc chạy đua " một vốn bốn
lời", chạy theo lối sống giàu sang nhưng lại không đủ khả năng làm giàu hợp
pháp mà kinh doanh một cách bất hợp pháp để kiếm lời nhanh và dễ dàng.
Lợi ích cá nhân của họ đặt lên quá cao mà khơng nghĩ đến lợi ích tập thể, lợi
ích quốc gia. Từ đó mà bn lậu và gian lận thương mại ngày càng nảy sinh
và phát triển, hành vi buôn lậu và gian lận thương mại ngày càng tinh vi, diễn
biến ngày càng phức tạp là điều bức xúc đối với xã hội hiện nay.
Nhu cầu sử dụng hàng hoá ở các vùng địa lý khác nhau và hàng hố có
chất lượng cao, giá thấp hơn ở nơi này sẽ có xu hướng chuyển sang nơi khác
có hàng hố với chất lượng thấp hơn, giá cao hơn. Đây cũng là quy luật cạnh
tranh trong lưu thơng hàng hố. Tuy nhiên trong một số trường hợp để bảo vệ
sản xuất nội địa Nhà nước phải dùng đến hàng rào thuế quan (thậm chí thuế
rất cao), gian thương tìm mọi thủ đoạn để tàng trữ buôn bán, vận chuyển hàng


17

hoá qua biên giới, cũng như lợi dụng mọi khe hở để gian lận số lượng, chủng
loại, đánh lẫn hàng hố … để trốn thuế kiếm lời bất chính. Một số loại hàng

hố nhà nước cấm bn bán vì lý do bảo vệ an ninh quốc phịng, trật tự an
tồn xã hội, bảo vệ sức khỏe cộng đồng (ma túy, vũ khí, rác thải…), trên thực
tế một số loại hàng hóa cấm nhu cầu vẫn có nên giá cao, việc bn bán trái
phép những hàng hố này mang lại lợi nhuận rất cao lại càng thúc đẩy gian
thương buôn bán để kiếm lời bất chính. Hoặc có những loại hàng hố bn
bán phải có phải được sự cho phép của nhà nước (hàng hóa đã qua sử dụng,
biệt dược,…) vẫn bị gian thương tìm mọi cách để bn bán kiếm lời.
Đối với mỗi quốc gia tuỳ thuộc quy định của pháp luật, chính sách
quản lý kinh tế, yêu cầu bảo hộ nền sản xuất nội địa và khả năng quản lý khác
nhau thì quy mơ, tính chất, mức độ bn lậu và gian lận thương mại cũng
khác nhau. Buôn lậu và gian lận thương mại gắn bó rất chặt chẽ với các tệ nạn
tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội khác. Trong xu thế tồn cầu hóa
hiện nay thì những tệ nạn này khơng ngừng gia tăng và diễn biến ngày càng
phức tạp.
1.1.4. Ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại
đối với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước
* Hậu quả đối với nền kinh tế
Buôn lậu, gian lận thương mại có tác hại rất lớn đối với nền kinh tế,
những thành tựu của công cuộc đổi mới mà đất nước đang tiến hành. Buôn
lậu, gian lận thương mại có nguy cơ kìm hãm tốc độ phát triển của nền kinh
tế, tạo thành một lực cản lớn đối với q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước.
Hàng hoá nhập lậu là hàng gian lận, trốn thuế sẽ làm mất tính cân bằng
trong cạnh tranh thương mại giữa hàng nội và hàng ngoại, đồng thời làm thất
thu thuế xuất, nhập khẩu và các sắc thuế khác dẫn đến thất thu cho ngân sách
nhà nước. Thuế quan đánh trên hàng hố xuất, nhập khẩu, nhằm mục đích làm


18


tăng giá của hàng nhập khẩu, bảo vệ và kích thích sản xuất nội địa. Vì vậy,
hàng nhập lậu - gian lận trốn thuế đã phá vỡ cạnh tranh lành mạnh giữa hàng
nội và hàng ngoại nhập. Hàng ngoại nhập lậu vào thị trường do trốn thuế nhập
khẩu nên giá rẻ hơn, chất lượng cao hơn hàng nội do có công nghệ sản xuất
tiên tiến, thiết bị khoa học hiện đại. Trong khi đó, những doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất trong nước vẫn phải nhập khẩu và chịu thuế một số nguyên vật liệu,
trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, họ còn phải nộp các khoản thuế
khác như: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp… Mặt khác, hệ
thống công nghệ kỹ thuật trong một số lĩnh vực sản xuất hiện vẫn còn đang
lạc hậu, không đồng bộ, năng suất và hiệu quả thấp, hàng hố khơng phù hợp
thị hiếu người tiêu dùng, nên khơng đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại ngay
trên chính thị trường của mình.. Theo quy luật cung - cầu và giá trị hàng hố
trên thị trường thì cuộc cạnh tranh giữa hàng nội và hàng nhập thì hàng nhập
lậu do giá rẻ hơn, chất lượng cao hơn, làm cho hàng nội không tiêu thụ được
trên thị trường dẫn đến đọng vốn, thiếu nợ vốn. Điều này dễ làm cho các
doanh nghiệp sản xuất đứng trước nguy cơ phá sản, nhất là những doanh
nghiệp và những ngành công nghiệp non trẻ, mới ra đời. Đây thực sự là mối
đe dọa đời sống của hàng nghìn cơng nhân trong các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất trong nước.
Cạnh tranh giữa hàng nội và hàng nhập lậu không chỉ gây thiệt hại cho
người sản xuất, mà còn ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Hàng ngoại tràn ngập
thị trường với giá rẻ tạo nên thị hiếu, tâm lý ưa dùng hàng ngoại. Tuy hàng
ngoại với giá rẻ hơn giá thành hàng nội là do trốn được thuế nhưng rất bấp
bênh vì khơng phải lúc nào nhập hàng cũng trốn được thuế. Mặt khác, các
hoạt động tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, gian thương mại của các lực
lượng chức năng sẽ làm cho nguồn hàng khan hiếm, vì vậy trong từng thời kỳ
sẽ nẩy sinh cơn sốt về giá, về hàng, làm đảo lộn sự ổn định giá cả trên thị
trường. Với cạnh tranh đó, kết cục tất yếu là hàng ngoại lấn át hàng nội địa,
phá vỡ thế bình ổn giá cả, sản xuất trong nước bị đình đốn. Nhập lậu hay xuất



19

lậu cũng gây thiệt hại như nhau về kinh tế, bởi nhập lậu ồ ạt biến nước ta
thành thị trường tiêu thụ hàng hố của nước ngồi, đặc biệt là hàng dư thừa, ế
ẩm. Cịn xuất lậu hàng hố, đặc biệt là ngun liệu, khống sản, nhiên liệu
thơ, các mặt hàng chiến lược, hàng quốc cấm sẽ làm cho tài lực của đất nước
cạn kiệt. Hậu quả rõ nhất làm mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm
chệch hướng phát triển của nền kinh tế.
Mặt khác, buôn lậu và gian lận thương mại còn làm cho đất nước thất
thu lớn về thuế xuất, nhập khẩu và các sắc thuế khác gây ảnh hưởng đến quá
trình cân đối thu - chi ngân sách của Nhà nước, làm thất thoát ngoại tệ mạnh
ra ngoài biên giới.
* Hậu quả về mặt văn hố - xã hội
Bn lậu, gian lận thương mại gây nên những hậu quả phức tạp và
nặng nề về mặt văn hoá - xã hội. Đây là một trong những yếu tố làm gia tăng
giữa giàu và nghèo, tạo đà cho việc thuê mướn, bóc lột sức lao động. Một số
tư thương đánh mất khuynh hướng tạo việc làm, chỉ mải mê làm giàu thông
qua buôn lậu, gian lận thương mại. Hiện tượng buôn lậu xuất hiện đã lôi kéo
một lực lượng lao động khá lớn tham gia vào đội quân “cửu vạn” mang vác
hàng qua biên giới. Lực lượng đó khơng chỉ bao gồm lao động tại chỗ, mà
cịn có cả lao động từ nơi khác đến làm cho sản xuất bị bng lỏng, tình hình
trật tự an toàn xã hội cũng bị biến động. Thành phần lao động bị tiền thuê
mướn cám dỗ, có cả trẻ em ở tuổi đến trường, bỏ sản xuất, bỏ học hành làm
“cửu vạn”. Đây là đội ngũ tiếp tay và bao che cho bn lậu, có những làng
thuộc khu vực biên giới đường bộ người dân ở đây bỏ cả sản xuất, coi việc
mang vác, vận chuyển “thuê” hàng hoá nhập lậu là một nghề để sinh sống.
Tệ nạn buôn lậu, gian lận thương mại là nguyên nhân làm suy thoái đạo
đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến thuần phong, mỹ tục và truyền thống văn hố
dân tộc. Những kẻ bn lậu không từ một thủ đoạn nào để thu được nhiều lợi

nhuận bất chính, đồng tiền bất chính đã làm hại những người đi buôn lậu, làm


20

nẩy sinh các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè… ảnh hưởng nghiêm trọng
đến nhân các con người, làm cho đạo đức của nhiều kẻ bị tha hoá. Khơng chỉ
có thế, bn lậu và gian lận thương mại bao giờ cũng dẫn đến tiêu cực, tham
nhũng dễ dẫn đến tha hố một bộ phận cán bộ cơng chức của Nhà nước. Thực
tế cho thấy những ngành chức năng trong hoạt động chống buôn lậu, gian
thương mại; trong điều hành, thực thi chính sách thương mại hoặc liên quan
đến hoạt động thương mại nếu không vững vàng sẽ bị lôi kéo, mua chuộc và
trở thành nô lệ của đồng tiền. Do bị lôi kéo bởi khoản lợi nhuận khổng lồ,
gian thương tìm mọi mánh khoé, mọi thủ đoạn để móc nối với một số cán bộ
Nhà nước bị tha hoá, biến chất. Do bị sự cám dỗ của đồng tiền mà họ đã lợi
dụng vị trí, quyền lực nhà nước giao cho để cấu kết với buôn lậu, tiếp tay và
bao che cho các buôn lậu, gian lận thương mại và hình thành những đường
dây phức tạp, khó phát hiện,
Hàng nhập lậu tuồn vào thị trường nội địa bất hợp pháp trong đó cịn có
nhiều tài liệu phản động, văn hố đồi trụy, thậm chí có cả vũ khí của những
phần tử thù địch từ nước ngoài chuyển về. Một bên là bọn buôn lậu hám lợi
và phi nghĩa, một bên là các thế lực thù địch ln có ý đồ làm thay đổi bản
sắc văn hoá dân tộc, từ đó làm thay đổi bản chất của dân tộc được hình thành
từ trong quá trình đấu tranh chống lại áp bức bóc lột và phát triển sản xuất.
Bọn bn lậu lợi dụng triệt để quá trình mở cửa để tăng cường chống phá ta
trên mặt trận văn hoá - xã hội bằng các thủ đoạn tuyên truyền lối sống thực
dụng, coi trọng đồng tiền, ấn hành các sản phẩm văn hoá, phủ nhận quá khứ
của dân tộc, ca ngợi lối sống hưởng thụ, chúng tuồn vào nước ta băng hình,
tác phẩm văn hố đồi truỵ, phản động,…Cho nên những tác hại do buôn lậu
gây ra không chỉ thuần tuý về kinh tế, mà nó cịn ảnh hưởng đến văn hoá - xã

hội, xâm hại thuần phong mỹ tục của đất nước.



×