Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI CỦA NGÀNH HẢI QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.86 KB, 52 trang )

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG
BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI CỦA NGÀNH HẢI QUAN
3.1. Dự báo tình hình buôn lậu, gian lận thương mại trong thời gian tới
Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương Mại Thế giới (WTO), đánh dấu sự hội nhập toàn diện của nền kinh
tế nước ta với nền kinh tế thế giới. Việc trở thành thành viên WTO đã mở ra
những cơ hội lớn cho sự phát triển của nền kinh tế nhưng cũng đem lại
những thách thức to lớn mà chúng ta phải vượt qua để có thể tận dụng được
các cơ hội đó. Những thách thức đó bao gồm hàng loạt các cam kết mà chúng
ta phải thực hiện nhằm tạo thuận lợi cho thương mại: giảm dần hàng rào thuế
quan cũng như phi thuế quan, cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa công
tác của các cơ quan quản lý, nhất là các cơ quan quản lý tại các địa bàn giao
thương với nước ngoài. Việc thực hiện các cam kết về tạo thuận lợi cho
thương mại như vậy lại không thể tách rời việc tăng cường quản lý, chống
buôn lậu, chống gian lận thương mại nhằm chống thất thu cho ngân sách nhà
nước đồng thời tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh; bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ; chống khủng bố, đảm bảo an ninh, an toàn cho hệ thống
thương mại toàn cầu.
Việc nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu sắc vào nền kinh tế thế giới,
với việc mở ra ngày càng nhiều các cơ hội giao lưu quốc tế trong bối cảnh các
thủ tục hành chính ngày càng đơn giản, gọn, nhẹ đã đặt hoạt động phòng
chống buôn lậu, gian lận thương mại với những thách thức mới:
- Các đối tác thương mại ngày càng mở rộng, hầu hết các khu vực, các
trung tâm kinh tế lớn đều có quan hệ thương mại và đầu tư quan trọng với
Việt Nam, trong đó có những khu vực có mức độ rủi ro cao về buôn lậu, về
ma tuý, về khủng bố quốc tế. Do kết quả của thực hiện các cam kết quốc tế về
tạo thuận lợi cho thương mại, các thủ tục hành chính ngày càng đơn giản, gọn
1
11
nhẹ, việc kiểm tra thực tế hàng hoá tại các cửa khẩu ngày càng giảm. Việc
giảm tỷ lệ kiểm tra là một chủ trương đúng đắn theo chuẩn mực quốc tế, tuy


nhiên việc này đòi hỏi các hoạt động nghiệp vụ của cơ quan hải quan như:
kiểm tra sau thông quan hay kiểm soát hải quan phải đảm bảo hiệu quả cao
nhằm chống việc lợi dụng các quy định tạo thuận lợi vào mục đích gian lận.
- Bên cạnh các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá, các hoạt động xuất
nhập cảnh của phương tiện vận tải cũng như của hành khách tăng lên nhanh
chóng kể cả về đường biển, đường hàng không, đường bộ. Tình hình này tiềm
ẩn các nguy cơ rất lớn về buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, buôn bán,
vận chuyển ma tuý qua biên giới, không loại trừ cả việc vận chuyển vũ khí vì
mục đích khủng bố cũng như các mưu đồ chính trị, bạo loạn của các thế lực
phản động bên ngoài. Những vụ bắt giữ gần đây về ma tuý, về vũ khí tại Hải
quan Tân Sơn Nhất, TP Hồ Chí Minh, hay bắt giữ ma tuý, tiền giả tại biên
giới phía Bắc cho thấy nguy cơ đó là rất lớn.
- Các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại ngày càng mang tính
quốc tế hơn, xuất hiện nhiều phương thức, thủ đoạn có tính tổ chức, tinh vi
hơn, Có dấu hiệu cho thấy các hoạt động này có sự tiếp tay của các đối tác
nước ngoài nhất là trong việc chuyển giá trong hoạt động đầu tư, trong việc
xác nhận gửi nhầm hàng khi hàng hoá bị cơ quan hải quan phát hiện không
đúng với khai báo như đã nhiều lần xảy ra trong thực tế hoạt động của hải
quan cửa khẩu.
- Chính sách, chế độ quản lý về ưu đãi đầu tư, về ưu đãi cư dân biên
giới chưa nhất quán chưa đồng bộ, và nhất là chưa tổ chức thực hiện nghiêm
chỉnh. Việc thực hiện chế độ ưu đãi đối với cư dân biên giới, cư dân trong khu
kinh tế đặt biệt đã bị lợi dụng do các đối tượng buôn lậu thuê chứng minh thư
nhân dân, thuê địa chỉ của cư dân biên giới để mua hàng miễn thuế sau đó
gom lại đưa vào nội địa tiêu thụ; lợi dụng việc nhập khẩu ô tô miễn thuế tại
một số khu kinh tế thương mại đặc biệt sau đó bán vào nội địa để trốn thuế
2
22
với thủ đoạn lập hợp đồng tài chính thuê xe, hoặc lập dự án đầu tư vào địa
bàn khó khăn nhưng khi thực hiện lại thực hiện ở nơi khác…

- Về phương thức, thủ đoạn buôn lậu và gian lận thương mại sẽ đa
dạng và tinh vi hơn:
+ Trên tuyến biển: Các đối tượng buôn lậu tiếp tục lợi dụng mặt biển
rộng, có nhiều vịnh, bãi ngang, cửa sông để vận chuyển hàng lậu từ nước
ngoài vào Việt Nam; tiếp tục ngụy trang bằng cách thuê các phương tiện vận
tải của các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước hoặc lợi dụng tư cách pháp nhân
hợp pháp để buôn lậu.
+ Trên tuyến biên giới đường bộ: Hiện tượng lợi dụng biên giới đường
bộ kéo dài, hiểm trở, đi lại khó khăn để xé lẻ hàng lậu vượt qua biên giới vào
Việt Nam, sau đó tập kết và vận chuyên sâu vào nội địa để tiêu thụ. Tình
trạng lợi dụng chính sách cho phép cư dân biên giới được mua bán, trao đổi
hàng hoá dưới 2.000.000 VNĐ/1 người/1 ngày theo Quyết định 254/QĐ-TTg,
ngày 07/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ để buôn lậu vẫn tiếp tục diễn ra
trên toàn tuyến biên giới.
Thủ đoạn chủ yếu là lôi kéo, một bộ phận quần chúng nhân dân ở các
khu vực biên giới, hải đảo, ven biển, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn trực tiếp tham gia buôn lậu. Tiếp tục dùng các thủ đoạn kinh tế thâm
độc, gắn chặt trách nhiệm của người dân nghèo với hàng lậu bằng việc đặt cọc
số tiền tương ứng với trị giá số hàng mới cho vận chuyển. Vì vậy, người dân
tìm mọi cách để xé lẻ hàng lậu để đối phó, vận chuyển, khi bị bắt giữ thì họ
chống trả quyết liệt, nên việc xử lý rất khó khăn. Ngoài ra các đối tượng buôn
lậu còn xây dựng những kho hàng với quy mô lớn ở những khu vực dân cư
giáp biên giới, ven biển thành nơi tập kết hàng lậu. Vì vậy khi tiến hành các
hoạt động bắt giữ, xử lý chúng huy động nhân dân gây khó khăn cho các lực
lượng chức năng, trong đó cho cơ quan Hải quan.
3
33
+ Các hoạt động gian lận thương mại thời gian tới tiếp tục phát triển
theo hướng lợi dụng các sơ hở của chính sách quản lý kinh tế, quy trình thủ
tục Hải quan thông thoáng, năng lực kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà

nước nói chung, cơ quan hải quan nói riêng, các hành vi gian lận chủ yếu vẫn
là: Gian lận qua giá; gian lận xuất xứ; khai báo sai tên, phẩm chất, quy cách
hàng hóa; giả mạo hồ sơ, chứng từ....
+ Một điểm đáng chú ý cần quan tâm là sự tổ chức tương đối tinh vi,
chặt chẽ trong các tổ chức buôn lậu, gian lận thương mại và sự liên kết giữa
các tổ chức buôn lậu, gian lận thương mại ngày càng chặt chẽ với phạm vi
rộng lớn hơn. Sự liên kết thể hiện ở việc tổ chức các hành vi buôn lậu, gian
lận thương mại một cách chặt chẽ, phân công thực hiện một công đoạn cụ thể
cho mỗi thành viên trong quá trình thực hiện.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng chống buôn lậu
và gian lận thương mại của ngành Hải quan
3.2.1. Giải pháp về kinh tế - xã hội
Nhà nước cần nghiên cứu, rà soát nhằm hoàn thiện đồng bộ cơ chế,
chính sách tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các thành phần kinh tế, cá
nhân kinh doanh làm giàu chính đáng, động viên và phát huy mọi nguồn lực
sẵn có trong nhân dân vào phát triển kinh tế với những hình thức, quy mô
thích hợp. Ngoài việc tăng cường vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động của
các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước phát huy vai trò đầu tầu và
định hướng đối với nền kinh tế, cần tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện ra
đời và phát triển của những doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các địa phương, thời
gian vừa qua đã chứng minh sự năng động, vươn lên mạnh mẽ của loại hình
doanh nghiệp này cả về quy mô, ngành nghề và đóng góp cho ngân sách nhà
nước cũng như tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhà nước cần tiếp
tục có những ưu đãi hơn nữa cho các doanh nghiệp này như định hướng về
các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh; hỗ trợ các hoạt động tiếp thị, quảng bá
4
44
thương hiệu ra thị trường quốc tế cũng như cung cấp các thông tin về chính
sách pháp luật, chính sách và tập quán thương mại tại các thị trường; hỗ trợ
các nguồn vốn tín dụng ưu đãi,..

- Tiếp tục ưu tiên xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực biên
giới, hải đảo, ven biển; vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn:
Thực tế cho thấy, tại những khu vực này kinh tế và đời sống của nhân
dân gặp nhiều khó khăn, nên không ít quần chúng nhân dân đã phải làm nghề
“cửu vạn” chứa chấp, tiếp tay cho bọn buôn lậu hoặc trực tiếp buôn lậu. Vì
vậy cần làm tốt một số giải pháp cụ thể sau:
+ Có những chính sách phù hợp để phát triển sản xuất gắn với chế biến
và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo công ăn việc làm ổn định cho
người lao động;.
+ Giải quyết có hiệu quả chính sách xóa đói, giảm nghèo: Sự phân hoá
giàu nghèo là một tất yếu trong nền kinh tế thị trường và ngày càng có xu
hướng tăng lên giữa các vùng, nhất là ở khu vực biên giới, miền núi với miền
xuôi dẫn đến người lao động có xu hướng bỏ sản xuất, ruộng vườn để tham
gia buôn lậu với hy vọng sẽ có thu nhập cao, cải thiện cuộc sống.
+ Quan tâm đầu tư đồng bộ, có trọng điểm để xây dựng cơ sở hạ tầng
khu vực các tuyến biên giới, nhất là phát triển điện, đường, trường trạm phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội từng vùng; Tiếp tục phát triển giáo
dục, y tế, văn hoá thông tin để không ngừng đời sống tinh thần nhằm nâng
cao dân trí ở khu vực biên giới, các địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
- Tập trung đào tạo nghề cho người lao động và giải quyết tốt chính sách giải
quyết việc làm:
Đây là một trong những chính sách cơ bản nhất của hệ thống chính sách xã hội
góp phần trực tiếp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm nói chung và tệ nạn buôn
5
55
lậu nói riêng, ổn định tình hình xã hội. Hiện tại người lao động không có việc làm
chiếm một tỷ lệ đáng kể trên tổng số người đang ở độ tuổi lao động chưa kể số người
có việc làm nhưng không thường xuyên, hơn nữa phần lớn trong số này lại chưa được
đào tạo hướng nghiệp. Vì vậy cần tăng cường đầu tư hơn nữa cho việc xây dựng và

phát triển hệ thống các trường dạy nghề trên cả nước cũng như định hướng về nghề
nghiệp cho học sinh ngay từ khi còn trên ghế nhà trường. Nếu giải quyết được việc
làm, tạo ra được thu nhập ổn định đảm bảo đời sống của bản thân và gia đình họ sẽ góp
phần làm giảm tội phạm. Ngoài ra chính sách việc làm cần được quan tâm bởi nhiều
cấp, nhiều ngành trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sản xuất, dịch vụ để tạo ra nhiều
việc làm cho người lao động.
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu tranh chống buôn lậu
và gian lận thương mại của ngành Hải quan
* Hoàn thiện pháp luật Hải quan
- Sửa đổi quy định về địa bàn hoạt động hải quan:
Theo quy định tại điều 6 của Luật Hải quan thì địa bàn hoạt động bao
gồm các khu vực cửa khẩu đường bộ, ga đường sắt liên vận quốc tế, cảng biển
quốc tế, cảng sông quốc tế, cảng hàng không dân dụng quốc tế, các địa điểm
làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu, khu chế xuất, kho ngoại quan, kho bảo
thuế, khu vực ưu đãi hải quan, bưu điện quốc tế, các địa điểm kiểm tra hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu trong lãnh thổ và trên vùng biển thực hiện chủ
quyền của Việt Nam, trụ sở doanh nghiệp khi tiến hành kiểm tra sau thông
quan và các địa bàn hoạt động hải quan khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, địa bàn hoạt động của Hải quan bị bó hẹp, hạn chế trong
phạm vi khu vực cửa khẩu, cảng biển, cảng sông quốc tế và các địa điểm làm
thủ tục hải quan trong nội địa, trong khi hoạt động của tội phạm ngày càng
rộng, vượt ta khỏi biên giới quốc gia, vì vậy việc triển khai các hoạt động
nghiệp vụ kiểm soát hải quan, cũng như áp dụng các biện pháp điều tra gặp
nhiều khó khăn, vì hoạt động khám xét của Hải quan chỉ được tiến hành trong
6
66
địa bàn hoạt động hải quan. Vì vậy cần sớm sửa đổi, bổ sung Luật hải quan
theo hướng mở rộng phạm vi địa bàn Hải quan: Đó là địa bàn hoạt động hải
quan, nơi Hải quan tiến hành làm thủ tục hải quan, kiểm tra hải quan quy định
tại Điều 6 Luật hải quan hiện hành và khu vực kiểm soát Hải quan.

- Bổ sung quy định của Luật hải quan về việc lực lượng Hải quan
chuyên trách phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới áp dụng các biện pháp nghiệp vụ đặc thù trong công tác nghiệp vụ:
Theo quy định tại quyết định 65/2004/QĐ-TTg ngày 19/4/2004 của
Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế hoạt động của lực lượng Hải quan
chuyên trách phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên
giới (gọi tắt là lực lượng kiểm soát Hải quan). Theo đó lực lượng kiểm soát
hải quan được trao quyền tiến hành các biện pháp nghiệp vụ đặc thù như điều
tra nghiên cứu nắm tình hình; xây dựng cơ sở bí mật; trinh sát nội tuyến; trinh
sát ngoại tuyến; trinh sát kỹ thuật,... Tuy nhiên những biện pháp này mới
được quy định trong quyết định của Thủ tướng Chính phủ, do vậy cần phải
được quy định cụ thể trong Luật hải quan - văn bản quy phạm pháp luật có giá
trị pháp lý cao hơn và là cơ sở pháp lý quan trọng trong thực thi nhiệm vụ của
cơ quan Hải quan.
* Hoàn thiện pháp luật hình sự
- Theo nội dung của Điều 153, Điều 154 Bộ luật hình sự thì người nào
buôn bán hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trị giá từ
100 triệu đồng trở lên; hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành
chính về hành vi của hai điều này hoặc tại một trong các Điều
155,156,157,158,159,160 và 161 của Bộ luật hình sự hoặc đã bị kết án về một
trong các tội này, chưa xóa án tích mà còn vi phạm thì cũng bị coi là phạm
tội. Việc định lượng giá trị hàng hóa, tiền tệ phạm pháp là 100 triệu đồng
hoặc trốn thuế từ 50 triệu đồng trở lên (theo Điều 161 Bộ luật hình sự) bị coi
là tội phạm không phù hợp với thực tiễn hiện nay. Vì trên thực tế phần lớn
7
77
(khoảng 80%) các vụ vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan đều có giá
trị hàng hóa từ 100 triệu đồng trở lên hoặc đa số các vụ vi phạm do lực lượng
kiểm tra sau thông quan phát hiện số thuế ẩn lậu đều trên 50 triệu đồng. Vì
vậy, đối với các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên

giới và tội trốn thuế cần phải quy định lại định lượng giá trị hàng hóa, số thuế
ẩn lậu làm căn cứ xử lý hình sự.
Bên cạnh đó, việc xác định hành vi buôn bán trái phép qua biên giới là
nguy hiểm "đáng kể" hay "không đáng kể" trong thực tế không chỉ phụ thuộc
rất nhiều vào giá trị kinh tế của hàng hoá buôn lậu, mà nó còn phụ thuộc rất
nhiều vào việc xem xét đánh giá tổng hợp các yếu tổ chủ quan, khách quan
của tội phạm và điều kiện kinh tế, chính trị xã hội nơi xảy ra tội phạm. Trên
thực tế, nhiều trường hợp giá trị của hàng hoá buôn lậu chưa phản ánh đầy đủ
chính xác mức độ nguy hiểm và hậu quả của các hành vi buôn bán trái phép
qua biên giới đã gây ra (trường hợp hàng hóa là các mặt hàng cấm). Vì vậy,
cùng với việc quy chuẩn giá trị kinh tế của hàng hóa phạm pháp theo tinh thần
điều luật quy định, các cơ quan chức năng cần có quy định hướng dẫn cụ thể
về số lượng, chủng loại hàng hoá và khung hình phạt tương ứng với các
trường hợp buôn bán trái phép qua biên giới các loại hàng cấm. Riêng các loại
hàng cấm khó quy định về số lượng và giá trị kinh tế như: một số loại văn hoá
phẩm đồ trụy hoặc các vật phẩm có giá trị về văn hoá, lịch sử…, cần quy định
đó là những tình tiết tăng nặng chuyển khung và phải chịu hình phạt nặng hơn
so với hình vi buôn bán, tàng trữ các loại hàng cấm đó trong thị trường nội
địa.
- Hiện nay, việc phân biệt hành vi vi phạm hành chính hay vi phạm
hình sự đối với các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới và hành vi trốn thuế đang có nhiều quan điểm và cách xử lý khác nhau ở
các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung và trong ngành Hải quan nói riêng. Vì
8
88
vậy, kiến nghị các cơ quan chức năng cần hướng dẫn cụ thể Điều 153, Điều
254 Bộ luật hình sự.
* Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự quy định thẩm quyền điều tra
của Hải quan
- Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các hoạt động

buôn lậu, gian lận thương mại có chiều hướng gia tăng với những phương
thức thủ đoạn đa dạng, tinh vi hơn. Với đặc thù trong quá trình thực thi nhiệm
vụ của mình, khi phát hiện tội phạm nếu không cho phép cơ quan Hải quan có
quyền tạm giữ người, bắt giữ người, nếu để người đó xuất cảnh thì việc điều
tra, truy tố sẽ gặp khó khăn. Do vậy, Bộ luật tố tụng hình sự cần bổ sung quy
định cho cơ quan Hải quan có quyền bắt người, tạm giữ người để kịp thời
ngăn chặn người phạm tội bỏ ra nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động điều tra sau này.
- Hiện nay, Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự
cho phép các đơn vị thuộc ngành hải quan thực hiện điều tra đối với vụ án
buôn lậu, bao gồm: Tại cơ quan Tổng cục là Cục Điều tra chống buôn lậu,
Cục Kiểm tra sau thông quan; Cục Hải quan tỉnh, thành phố và Chi cục Hải
quan. Tuy nhiên, lại không quy định đơn vị chuyên trách hoặc chủ trì, đầu
mối thống nhất trong toàn Ngành Hải quan về công tác điều tra. Đây là một
trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế kết quả điều tra các vụ án buôn lậu
trong những năm qua. Để nâng cao hiệu quả của công tác này cần thiết phải
quy định cụ thể thẩm quyền điều tra của các đơn vị Hải quan, trong đó Cục
Điều tra chống buôn lậu là đơn vị chủ trì, đầu mối, hướng dẫn, kiểm tra, đôn
đốc việc thực hiện công tác điều tra một cách thống nhất trong toàn Ngành
Hải quan.
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nêu trên cần sửa đổi, bổ
sung các văn bản quy định về xử phạt hành chính để làm căn cứ xác định rõ
9
99
ràng một hành vi vi phạm pháp luật hải quan là vi phạm hành chính hay vi
phạm hình sự.
3.2.3. Triển khai thực hiện công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ Hải
quan có hiệu quả
Trước hết, phải khẳng định công tác thu thập, xử lý thông tin là không
chỉ là nhiệm vụ của hệ thống các đơn vị chuyên trách thuộc lực lượng kiểm

soát hải quan mà còn là nhiệm vụ của toàn ngành Hải quan. Để thực hiện
công tác này có hiệu quả cần tập trung thực hiện một số công việc cụ thể sau:
- Rà soát, nghiên cứu toàn bộ công tác thu thập thông tin của toàn ngành
Hải quan, đặc biệt chú trọng đến việc thu thập, phân loại, hệ thống hóa và
quản lý tốt thông tin nghiệp vụ thu thập được từ các hoạt động nghiệp vụ
hàng ngày của ngành, nhất là từ các hoạt động thông quan, kiểm tra trong và
sau thông quan. Các thông tin này phải được cập nhật đầy đủ, kịp thời. Cần
nghiên cứu sớm có biện pháp về kiện toàn tổ chức, về cơ chế hoạt động để
công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ Hải quan này được tiến hành
nghiêm chỉnh, có hiệu quả ở từng cấp và từng lĩnh vực nghiệp vụ của Ngành.
- Cần nghiên cứu xây dựng các cơ sở dữ liệu thông tin bổ sung cho hệ
thống cơ sở dữ liệu lấy từ hoạt động thông quan của ngành, trong đó có thông
tin về hoạt động, về quá trình chấp hành pháp luật của doanh nghiệp hoạt
động xuất, nhập khẩu, hành khách xuất, nhập cảnh; thông tin về các vi phạm
pháp pháp luật hải quan; thông tin về các đối tác thương mại; thông tin về các
chế độ, chính sách quản lý nhà nước về hải quan; thông tin về hàng hóa xuất
nhập khẩu… và nhiều thông tin nghiệp vụ khác. Để đảm bảo yêu cầu này cần
hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin bao gồm cả hệ thống máy móc
và chương trình quản lý, trong đó các chương trình tích hợp quản lý thông tin
và hệ thống các tiêu chí để phân loại, tổng hợp và đánh giá thông tin là
chương trình quan trọng nhất. Đây cũng chính là cốt lõi của hệ thống quản lý
10
1010
rủi ro nhằm phân loại các đối tượng chấp hành tốt và chấp hành không tốt
pháp luật về hải quan để áp dụng các biện pháp kiểm tra, kiểm soát phù hợp.
- Nghiên cứu ban hành các văn bản quy định chế độ thu thập, quản lý và
sử dụng thông tin nghiệp vụ với các chế tài nghiêm ngặt, đảm bảo các hệ
thống thông tin luôn được cập nhật, sống động theo sát tình hình thực tế, đồng
thời thông tin nghiệp vụ đó phải được đưa vào ứng dụng trong quá trình thực
thi các biện pháp nghiệp vụ của ngành hải quan, đảm bảo cho quá trình ra

quyết định quản lý phải dựa vào thông tin nghiệp vụ đã được xử lý có định
hướng, giúp cho việc ra các quyết định quản lý được chuẩn xác. Đồng thời
thông tin nghiệp vụ đã sử dụng phải được đánh giá, phản hồi về hiệu quả sử
dụng trở lại bổ sung kịp thời cho cơ sở dữ liệu thông tin chung phục vụ cho
việc xử lý và sử dụng thông tin nghiệp vụ tiếp theo.
- Đẩy mạnh triển khai các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan để
hỗ trợ cho công tác thu thập thông tin như : Tổ chức thực hiện công tác điều
tra nghiên cứu nắm tình hình thường xuyên tại tất cả các địa bàn nhằm phát
hiện đối tượng trọng điểm, các xu hướng buôn lậu, gian lận thương mại mới
nảy sinh, những phương thức thủ đoạn và quy luật hoạt động buôn lậu. Cần
tập trung điều tra nghiên cứu nắm tình hình đối với những tuyến và ngành
hàng trọng điểm, những khu vực nổi cộm về hoạt động buôn lậu, gian lận
thương mại những lĩnh vực nhạy cảm mà đối tượng dễ lợi dụng. Xác định đối
tượng trọng điểm đưa vào diện sưu tra và quản lý đối tượng sưu tra có hiệu
quả. Củng cố, xây dựng mạng lưới cơ sở bí mật hoạt động hiệu quả tại các địa
bàn trọng điểm, trên cơ sở đó hình thành hệ thống theo dõi, nắm tình hình,
quản lý địa bàn có chiều sâu, thống nhất từ Tổng cục tới Cục Hải quan tỉnh,
thành phố và các Chi cục Hải quan.
- Cần sớm ban hành các văn bản pháp lý dưới hình thức thông tư liên
tịch giữa Bộ Tài chính và các Bộ, Ngành có liên quan (Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công thương, Bộ Y tế, Bộ Quốc
11
1111
Phòng, Bộ Công An, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Thông tin và truyền thông,
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, ....) để trao đổi các thông tin nghiệp
vụ cần thiết theo nhu cầu phục vụ xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin
Hải quan và các hoạt động nghiệp vụ của ngành Hải quan. Bên cạnh đó cũng
cần sớm nghiên cứu và đề xuất Chính phủ cho phép cử cán bộ Hải quan ra
nước ngoài làm công tác thu thập thông tin (Hải quan các nước trên thế giới
gọi là Tùy viên Hải quan) để có thể chủ động hơn với nguồn thông tin từ

ngoài nước.
3.2.4. Giải pháp về đào tạo và sử dụng cán bộ trong hoạt động phòng chống
buôn lậu, gian lận thương mại
Hiệu quả của hoạt động phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại phụ
thuộc rất lớn vào năng lực, trình độ của cán bộ làm công tác tại các khâu
nghiệp vụ trong quy trình thủ tục hải quan, cán bộ thuộc lực lượng kiểm tra
sau thông quan và kiểm soát hải quan. Để nâng cao năng lực, trình độ của cán
bộ cần thực hiện một số biện pháp pháp sau:
- Ngành Hải quan thống nhất ban hành bản mô tả chức danh công việc
trong tất cả các lĩnh vực chuyên môn của ngành. Trên cơ sở đó mới tiến hành
rà soát, đánh giá tổng thể yêu cầu của từng bộ phận công tác về số lượng, chất
lượng cán bộ. Từ đó mới có kế hoạch tổng thể về đào tạo, đào tạo lại; tuyển
dụng mới và điều động luân chuyển cán bộ cho phù hợp với từng lĩnh vực
chuyên môn nghiệp vụ trong đó có lĩnh vực kiểm tra sau thông quan và kiểm
soát hải quan.
- Công tác đào tạo và đào tạo lại: Cần phải xây dựng kế hoạch đào tạo
bài bản, dài hạn và có lộ trình thực hiện cụ thể. Trước mắt tiếp tục quan tâm
đầu tư cho hoạt động đào tạo các nghiệp vụ: Xác định trị giá; phân loại hàng
hóa; Thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan (tình báo hải quan); quản lý
rủi ro; nghiệp vụ kiểm soát hải quan (theo quyết định 65/2004/QĐ-TTg); kỹ
năng thẩm vấn; kỹ thuật kiểm tra phương tiện vận tải (ô tô, máy bay, tàu
12
1212
thủy); kiểm tra sau thông quan; kỹ năng kiểm tra chứng từ thương mại và
nhận biết chứng từ giả; thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực hải
quan...
Bên cạnh đó, cần đổi mới quy mô và phương pháp đào tạo: Thực tiễn
công tác đào cho thấy mô hình đào tạo theo các khu vực theo từng nhóm địa
bàn đặc thù với số lượng học viên vừa phải; đào tạo về lý thuyết kết hợp với
thao tác thực hành ngay tại các địa điểm làm thủ tục hải quan, trên hồ sơ hải

quan; kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện đã mang lại kết quả rất tích cực.
Đối với cán bộ làm công tác điều tra, ngành Hải quan cần phối hợp với
các cơ sở đào tạo của các ngành Công an, Quân đội để nâng cao năng lực điều
tra, trinh sát của cán bộ hải quan. Đối với cán bộ thuộc lực lượng kiểm tra sau
thông quan cấn bổ sung thêm các kiến thức về kế toán, kiểm toán. Ngoài ra
cần tăng cường bổ sung kiến thức về ngoại ngữ, công nghệ thông tin - là
những kỹ năng cần thiết của cán bộ Hải quan trong điều kiện hội nhập quốc
tế.
- Xây dựng chế độ công tác chuyên trách, chuyên sâu dựa trên chế độ
luân chuyển hợp lý: Ổn định đội ngũ cán bộ theo hướng chuyên môn hóa là
hết sức quan trọng trong hoạt động nghiệp vụ của ngành Hải quan. Do đặc thù
của ngành Hải quan là thường xuyên luân chuyển, dẫn đến sự xáo trộn về cán
bộ, cá biệt có một số địa phương tiến hành luân chuyển không phù hợp về
chuyên môn dẫn đến tình trạng lúng túng thậm chí còn sai sót trong thực thi
nhiệm vụ dẫn đến tạo sơ hở cho hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại. Do
vậy nếu tiến hành luân chuyển cán bộ thì chỉ thực hiện luân chuyển trong lĩnh
vực chuyên môn của cán bộ đó.
- Cần có cơ chế chính sách khen thưởng, chính sách tiền lương thoả đáng
đối với cán bộ công chức làm nhiệm vụ chống buôn lậu và gian lận thương
mại. Riêng về chính sách về tiền lương cho cán bộ, công chức nhà nước hiện
nay còn nhiểu điểm bất hợp lý, nhất là trong tình hình lạm phát, giá cả leo
13
1313
thang hiện nay. Tuy thời gian qua Nhà nước nhà nước có nhiều nỗ lực trong
việc cải cách chính sách tiền lương, nhưng sự chuyển biến chưa đáng kể do
điều kiện kinh tế của nước ta còn nhiều khó khăn. Vì vậy cần có những chính
sách khen thưởng thỏa đáng, đó là động viên cả bằng tinh thần và vật chất cho
những thành tích đạt được của từng đơn vị, từng cá nhân. Thời gian tới Nhà
nước nên tiếp tục cho ngành Hải quan thực hiện cơ chế khoán chi dựa trên số
thuế mà ngành thu cho ngân sách nhà nước. Trên cơ sở đó, ngành Hải quan

nghiên cứu đề xuất với Bộ Tài chính cho cơ chế tăng thêm thu nhập cho cán
bộ thuộc lực lượng chống buôn lậu, gian lận thương mại để cán bộ yên tâm
công tác.
- Ngành Hải quan cần quan tâm thường xuyên giáo dục ý thức trách
nhiệm, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn luyện ý chí và ý thức chấp hành
pháp luật cho cán bộ Hải quan nói chung và cán bộ làm công tác chống buôn
lậu, gian lận thương mại nói riêng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
việc tuân thủ quy định, quy trình nghiệp vụ, phát hiện và xử lý nghiêm minh
các hành vi sai phạm của cán bộ công chức. Thực hiện nghiêm túc quy định
về về chống tham nhũng để phòng ngừa, ngăn chặn tiêu cực trong hoạt động
phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại.
3.2.5. Nâng cao hiệu quả phối hợp trong hoạt động phòng chống buôn lậu
và gian lận thương mại
* Phối hợp giữa các lực lượng trong ngành Hải quan
- Tăng cường phối hợp điều tra giữa cơ quan Hải quan cấp trên và cơ
quan Hải quan cấp dưới: Thời gian vừa qua công tác phối hợp này thực hiện
chưa được tốt. Việc phối hợp cung cấp thông tin về tội phạm và các hành vi vi
phạm; phối hợp trong điều tra, bắt giữ, xử lý giữa các đơn vị Hải quan trong
ngành hạn chế, nhiều vụ việc buôn lậu, gian lận thương mại có liên đới trách
nhiệm của cán bộ do Hải quan địa phương quản lý, do vậy trong một số
trường hợp các đơn vị này không có thiện chí trong công tác phối hợp, thậm
14
1414
chí gây khó khăn, cản trở các hoạt động điều tra, xác minh. Cá biệt, có đơn vị
không cung cấp các hồ sơ, tài liệu liên quan đến vụ việc theo yêu cầu của Cục
Điều tra chống buôn lậu, cho đến khi có văn bản bản chỉ đạo của Lãnh đạo
Tổng cục Hải quan mới tổ chức thực hiện.
- Tăng cường phối hợp giữa lực lượng Kiểm tra sau thông quan và lực
lượng kiểm soát hải quan:
Trong thực tiễn công tác nghiệp vụ hiện nay, lực lượng kiểm tra sau

thông quan gặp khó khăn trong hoạt động xác minh thông tin, tài liệu đối với
một số vụ việc phức tạp, thông thường, đây là những vụ việc cần phải tiến
hành kiểm tra trực tiếp hồ sơ, chứng từ, sổ sách kế toán tại trụ sở doanh
nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế hồ sơ doanh nghiệp đăng ký làm thủ tục với cơ
quan Hải quan đã được chế biến, làm sạch; hàng hóa nhập khẩu có khi đã
được tiêu thụ hết, không lưu giữ tại kho hàng; bên cạnh đó thời gian quy định
cho hoạt động kiểm tra sau thông quan tại doanh nghiệp là không nhiều (năm
ngày), do vậy trước khi tiến hành kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp, cần thiết
phải tiến hành các hoạt động thu thập, xác minh thông tin tài liệu từ các
nguồn khác nhau để củng cố hồ sơ, chứng cứ, nhận định về hành vi vi phạm
của Doanh nghiệp mà trong một số trường hợp chỉ có thể thực hiện được
thông qua việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ đặc thù theo quyết định
65/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, hiện nay lực lượng
kiểm tra sau thông quan chưa có đội ngũ cán bộ có kiến thức, kinh nghiệm
chuyên sâu trong lĩnh vực điều tra. Do vậy cần tích cực phối hợp với lực
lượng kiểm soát Hải quan để nâng cao hiệu quả của công tác nghiệp vụ.
Ngoài ra, hai lực lượng này cần tăng cường phối hợp trao đổi thông tin nghiệp
vụ ở các cấp để phục vụ công tác quản lý rủi ro nói chung và đấu tranh chống
buôn lậu, gian lận thương mại nói riêng; thông tin ở các khâu trong thông
quan và sau thông quan là những nguồn thông tin đầu vào quan trọng trong
hoạt động thu thập, xử lý thông tin mà cụ thể là thông tin từ các hoạt động
15
1515
kiểm tra sau thông quan là căn cứ đánh mức độ chính xác thông tin ở khâu
trong thông quan. Nội dung thông tin cần chuyển giao kết quả kiểm tra sau
thông quan, bao gồm: Địa điểm kiểm tra (trụ sở Hải quan hay trụ sở doanh
nghiệp), hành vi vi phạm của doanh nghiệp, phương thức cụ thể, mặt hàng vi
phạm, các đối tượng có liên quan,...
* Tăng cường phối hợp giữa Hải quan với các lực lượng chức năng khác
Như đã phân tích tại chương 2, công tác phối hợp trong hoạt động

phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại giữa ngành Hải quan và các lực
lượng chức năng tuy có nhiều kết quả tích cực song có nơi, có lúc sự phối hợp
còn thiếu chặt chẽ, còn chồng chéo, thậm chí vô hiệu hoá hoạt động của nhau.
Do vậy, trước hết ngành Hải quan cần phải chủ động phối hợp thực hiện tốt
các nội dung quy chế hợp tác đã ký kết với Bộ đội biên phòng, Tổng cục cảnh
sát và sắp tới là quy chế hợp tác với lực lượng Quản lý thị trường, ưu tiên tập
trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
- Phối hợp chặt chẽ trong hoạt động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền
địa phương trong việc xây dựng kế hoạch, phương án đấu tranh chống buôn
lậu, gian lận thương mại trên từng tuyến, từng địa bàn; phân công trách nhiệm
rõ ràng, cụ thể trong phối hợp sử dụng lực lượng, phương tiện.
- Thường xuyên trao đổi thông tin về tình hình buôn lậu, gian lận thương
mại: Tình hình bắt giữ, xử lý, phương thức thủ đoạn cần lưu ý, đối tượng -
mặt hàng trọng điểm,.....; dự báo, đánh giá xu hướng vi phạm dựa trên phân
tích biến động của tình hình thị trường. Trên cơ sở đó sẽ giúp các ngành Hải
quan tập hợp, phân tích về những nguyên nhân, những yếu tố khách quan và
chủ quan tạo điều kiện hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại làm căn cứ
xây dựng phương án phòng ngừa có hiệu quả.
Ngoài ra, ngành Hải quan cần làm tốt công tác phối hợp với ngành thuế
nội địa trong các hoạt động phối hợp thu thuế, chống gian lận thuế và thường
xuyên trao đổi thông tin về đối tượng nộp thuế để việc xây dựng hồ sơ doanh
16
1616
nghiệp phục vụ công tác phân tích, đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của
doanh nghiệp.
3.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động phòng chống buôn lậu và
gian lận thương mại
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, xu thế hợp tác trở nên phổ
biến, là nhu cầu bức thiết không chỉ đối với Hải quan Việt Nam mà còn là nhu
cầu của Hải quan các nước trên thế giới. Để triển khai có hiệu quả công tác

này cần thực hiện tốt một số biện pháp cụ thể sau:
- Thực hiện tốt việc hợp tác với Hải quan các nước, vùng lãnh thổ trên
cơ sở các thỏa thuận hợp tác song phương đã ký kết và phát huy vai trò đầu
mối của Hải quan Việt nam tại Văn phòng tình báo khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương (RILO A/P):
+ Nghiên cứu phát triển mối quan hệ từ những hoạt động trao đổi thông
tin theo từng vụ việc sang việc chủ động trao đổi thường xuyên hơn các thông
tin về chính sách pháp luật, chính sách thương mại, điều chỉnh - thay đổi về
chính sách thuế, thông tin về các phương thức thủ đoạn buôn lậu gian lận
thương mại mới (có khả năng xảy ra ở nước bên kia), thông tin phục vụ đấu
tranh chống gian lận qua giá,..... để phục vụ việc tổng hợp, phân tích tạo ra
các sản phẩm thông tin, phổ biến chuyển giao tới đơn vị có liên quan phục vụ
công tác nghiệp vụ.
+ Hiện nay, ngành Hải quan có giao nhiệm vụ cho Hải quan các tỉnh
biên giới thực hiện mối quan hệ hợp tác với Hải quan cùng cấp nước láng
giềng có chung đường biên giới thuộc ba nước Trung Quốc, Lào, Campuchia.
Duy trì và tiếp tục phát triển kênh trao đổi trao đổi thông tin tác nghiệp phục
vụ công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại ở cấp Chi cục Hải quan và
cấp Cục Hải quan tỉnh. Tuy nhiên, để tạo thuận lợi và giao quyền chủ động
hơn nữa cho địa phương trong công tác này, ngành Hải quan cần ban hành
một quy định nội bộ về phân cấp trong việc quyết định đối với từng nội dung
17
1717
thông tin cần trao đổi phù hợp với tình hình thực tiễn trong mối quan hệ hợp
tác với Hải quan của từng nước.
+ Tranh thủ đề nghị Hải quan các nước hỗ trợ tập huấn, chia sẻ kỹ năng,
kinh nghiệm trong công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại để nâng cao
năng lực cho cán bộ, công chức thừa hành.
- Chủ động kết nối với Hải quan các nước, vùng lãnh thổ khác để xúc
tiến và nâng tầm mối quan hệ thông qua việc ký kết và thực hiện có hiệu quả

các bản ghi nhớ chung; thỏa thuận phối hợp, hợp tác,...
3.2.7. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, phương tiện hỗ trợ cho hoạt động
chống buôn lậu và gian lận thương mại
Nghiên cứu thực tế cho thấy các hoạt động buôn lậu, gian lận thương
mại ngày càng tinh vi, liều lĩnh với quy mô ngày càng lớn với nhiều phương
thức, thủ đoạn khác nhau. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ,
các phương tiện kỹ thuật hiện đại như thông tin liên lạc, giao thông vận tải
luôn được cải tiến và ngày càng hiện đại, chẳng hạn đối với tuyến biển, các
đối tượng buôn lậu luôn có nhu cầu sử dụng các phương tiện liên lạc hiện đại,
các loại tầu, ca nô có tốc độ lớn để vô hiệu hóa các lực lượng chống buôn lậu
có nhiệm vụ kiểm soát trên biển (trong đó có lực lượng hải quan). Bên cạnh
đó các thủ đoạn gian lận thương mại, trốn thuế ngày càng đa dạng hơn như:
Trà trộn, cất giấu các loại hàng hóa không khai báo tại những vị trí khó kiểm
tra trong container, trên phương tiện (trong những bộ phận được gia cố bổ
sung tinh vi),.... Vì vậy cần nghiên cứu đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
hiện đại phục vụ công tác kiểm tra, kiểm soát công khai trong quá trình làm
thủ tục hải quan và trang bị cho lực lượng chuyên trách chống buôn lậu, gian
lận thương mại, cụ thể:
- Hình thành các địa điểm kiểm tra hải quan tập trung, đầu tư trang thiết
bị các phương tiện kiểm tra, kiểm soát hiện đại, giảm thiểu đến mức thấp nhất
việc kiểm tra thủ công đối với hàng hóa, hành lý xuất, nhập khẩu, phương tiện
18
1818
vận tại xuất nhập cảnh như: Máy soi container, camera, cân điện tử,......nhằm
tạo thông thoáng trong quá trình làm thủ tục Hải quan nhưng vẫn làm tốt công
tác kiểm soát và chống buôn lậu, gian lận thương mại.
- Rà soát, nâng cấp để sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị hiện có,
trang bị bổ sung các trang thiết bị hiện đại công tác phòng, chống buôn lậu,
gian lận thương mại phù hợp với đặc thù của từng tuyến địa bàn:
+ Rà soát, đánh giá hiệu quả sử dụng thực tế số tàu thuyền ca nô hiện có

của ngành Hải quan (cả mặt nghiệp vụ và kỹ thuật sử dụng); đánh giá nhu cầu
thực tế để xây dựng phương án cụ thể về quy hoạch sử dụng đáp ứng yêu cầu
nghiệp vụ thông qua việc đầu tư sửa cải tạo, nâng cấp số hiện có; đề xuất
đóng mới trên cơ sở đó bố trí điều động sử dụng theo hướng tập trung xây
dựng những biên đội tầu mạnh trong công tác kiểm soát chống buôn lậu trên
biển.
+ Trang bị các phương tiện có tính cơ động cao phù hợp với tuyến địa
bàn đường bộ do đặc thù địa hình phức tạp, đi lại khó khăn như: ô tô đặc
chủng, xe máy phân khối lớn, các phương tiện liên lạc, kỹ thuật chuyên
dùng,...
+ Trang bị hệ thống camera, máy soi (hành lý, cơ thể), máy ngửi, chó
nghiệp vụ,.... và một số thiết bị khác phù hợp với địa bàn tuyến hàng không,
bưu điện
+ Bổ sung đầy đủ vũ khí và công cụ để hỗ trợ cho công tác đấu tranh
chống buôn lậu như: áo giáp - mũ chống đạn, dùi cui điện, roi điện....
Về kinh phí phục vụ công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại: Về
cơ bản hiện nay, quy định hiện hành về kinh phí đảm bảo này tương đối phù
hợp, đầy đủ về nội dung chi và mức chi. Tuy nhiên, trên thực tế việc thanh
quyết toán còn gặp nhiều khó khăn về thủ tục chi, tức là phải đảm bảo yêu cầu
về hồ sơ, chứng từ hợp lệ, đặc biệt là đối với một số khoản chi đặc thù như:
19
1919
Chi xây dựng, sinh hoạt cơ sở bí mật, cộng tác viên của cơ quan hải quan; chi
phí sinh hoạt của đối tương bị tạm giữ; chi thuê phương tiện theo dõi, truy bắt
đối tượng (trong một số tình huống do quá gấp nên khó có thể hoàn thiện
được chứng từ theo quy định);.... Do vậy cần nghiên cứu và quy định cụ thể
đối với từng trường hợp để tháo gỡ khó khăn, thuận tiện trong việc thực hiện
góp phần nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận
thương mại.
3.2.8. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho quần

chúng nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp
Để công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan
có hiệu quả thì cần có sự tham gia tích cực của quần chúng nhân dân và cộng
đồng doanh nghiệp thông qua việc tăng cường và làm tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật, quy định, quy trình thủ tục với những hình thức,
biện pháp và nội dung phù hợp để quần chúng nhân dân và cộng đồng doanh
nghiệp:
- Thấy được phương thức, thủ đoạn và tác hại nhiều mặt của buôn lậu và
gian lận thương mại đối với lợi ích chung của xã hội, trong đó có lợi ích của
cá nhân, của doanh nghiệp đồng thời thấy rằng xã hội ổn định, kinh tế phát
triển, môi trường kinh doanh lành mạnh thì đời sống của chính mình hiệu quả
kinh doanh mới được nâng cao và ngày càng phát triển.
- Nắm và hiểu rõ các quan điểm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước; nắm vững mục tiêu nhiệm vụ, biện pháp chống buôn lậu và gian lận
thương mại từ đó có trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với đất
nước:
+ Không tiếp tay cho buôn lậu và gian lận thương mại như: vận chuyển,
tàng trữ, mua hàng lậu; biết mà không báo cho cơ quan Hải quan,... cho mượn
tư cách pháp nhân để gian lận không vi lợi ích trước mắt mà trực tiếp thực
hiện các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại.
20
2020
+ Doanh nghiệp cần tích cực đầu tư nâng cao trình độ kỹ thuật, cải tiến
tổ chức quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ người lao động để tăng năng
suất, hạ giá thành và nâng cao chất lượng hàng hoá góp phần cạnh tranh với
hàng hóa ngoại nhập lậu hoặc giá rẻ do gian lận, trốn thuế.
- Thấy được hình thức xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi
phạm pháp luật hải quan đồng thời cũng thấy được việc Nhà nước ưu tiên, ưu
đãi đối với các Doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật trong quá trình hoạt
động, qua đó giúp nâng cao ý thức tự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp,

góp phần hạn chế được tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại.
- Tích cực cộng tác, hợp tác với cơ quan Hải quan trong việc góp phần
xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh. Từ thực tiễn quản lý cũng như
kinh nghiệm trong quá trình hợp tác với cộng đồng doanh nghiệp cho thấy,
không phải các cơ quan quản lý nhà nước mà chính là các doanh nghiệp mới
có đầy đủ thông tin nhất về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp khác có
cùng lĩnh vực kinh doanh, ngành hàng kinh doanh nói chung và mức độ chấp
hành pháp luật Hải quan, pháp luật thuế nói riêng. Vì vậy việc cộng tác với cơ
quan Hải quan là bảo vệ quyền lợi chính đáng của chính doanh nghiệp mình,
góp phần xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh.
21
2121
KẾT LUẬN
Buôn lậu, gian lận thương mại là một hiện tượng kinh tế - xã hội, tồn
tại ở tất cả các nền kinh tế với trình độ phát triển khác nhau trên thế giới,
trong đó có nước ta. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới, nhất là từ khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) thì tình hình buôn lậu, gian lận thương mại ngày càng gia tăng về quy
mô với nhiều phương thức, thủ đoạn phức tạp, tinh vi và có xu hướng lợi
dụng những sơ hở, bất cập của hệ thống pháp luật, chính sách thương mại và
những tồn tại, yếu kém chưa theo kịp với tiến trình cải cách của các cơ quan
quản lý nhà nước nói chung và của ngành Hải quan nói riêng. Bên cạnh đó,
quá trình toàn cầu hóa về kinh tế cũng làm quy mô của các hoạt động buôn
lậu, gian lận thương mại cũng mở rộng, có tính tổ chức cao hơn với phạm vi
quốc tế như rửa tiền, vi phạm sở hữu trí tuệ, hàng giả,,... Ngoài ra sự xuất hiện
các hình thức bảo hộ mới như hàng rào kỹ thuật, vấn đề môi trường, vệ sinh
an toàn thực phẩm,... cũng đã làm xuất hiện các hình thức gian lận mới, tinh
vi hơn. Vì vậy công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại ngày
càng trở nên cấp bách hơn đối với mỗi quốc gia. Ngoài chủ trương, cách thức,
biện pháp để thực hiện có hiệu quả trong phạm vi mỗi quốc gia thì xu hướng

hợp tác quốc tế để phối hợp đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại
cũng trở nên phổ biến và đa dạng hơn với các hình thức song phương và đa
phương.
Nghiên cứu đề tài “Hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận
thương mại của ngành Hải quan - Thực trạng và giải pháp”, luận văn đã
hoàn thành những mục tiêu trong nghiên cứu và có những đóng góp sau:
1. Hệ thống hóa và làm rõ những cơ sở lý luận về hoạt động phòng
chống buôn lậu và gian lận thương mại. Đồng thời để làm rõ những vấn đề lý
luận, luận văn đã nghiên cứu thực tiễn hoạt động phòng chống buôn lậu và
22
2222
gian lận thương mại ở một số nước để rút ra một một số bài học kinh nghiệm
có ý nghĩa thực tiễn với nước ta hiện nay.
2. Luận văn đã làm rõ chủ trương, chính sách của Nhà nước và biện
pháp của ngành Hải quan về phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Từ đó luận văn đã đi sâu phân tích tình hình phòng chống buôn lậu và gian
lận thương mại ở nước ta trong thời gian qua. Đó là cơ sở đề xuất những giải
pháp trong chương 3.
3. Qua nghiên cứu thực trạng hoạt động phòng chống buôn lậu và gian
lận thương mại của ngành Hải quan từ năm 2002 đến nay, luận văn đã đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này, đó là:
- Thực hiện tốt các giải pháp về kinh tế - xã hội, coi đây là một trong
những nhân tố quyết định trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động phòng
chống buôn lậu và gian lận thương mại
- Chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan về đấu tranh chống
buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan.
- Triển khai thực hiện công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ Hải
quan có hiệu quả để phục vụ công tác quản lý hải quan nói chung và hoạt
động phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại nói riêng.
- Về đào tạo và sử dụng cán bộ trong hoạt động phòng chống buôn lậu,

gian lận thương mại.
- Nâng cao hiệu quả phối hợp trong hoạt động phòng chống buôn lậu và
gian lận thương mại.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động phòng, chống buôn lậu
và gian lận thương mại.
- Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, phương tiện hỗ trợ cho hoạt động
chống buôn lậu và gian lận thương mại.
23
2323
- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho quần chúng
nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp.
Để tăng thêm tính khả thi của các giải pháp nêu trên, luận văn có một
số kiến nghị sau:
- Cần tạo lập cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa ngành Hải quan và các cơ
quan chức năng có liên quan đến hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có Luật Hải quan, cần được thể
chế hóa gắn với chế tài phù hợp trong việc xử lý các tình huống cụ thể.
- Đẩy mạnh cải cách, hiện đại hóa hoạt động Hải quan phù hợp với thông
lệ quốc tế để ngành Hải quan ngày càng làm tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.

24
2424
PHỤ LỤC 1
GIẢI THÍCH MỘT SỐ TỪ NGỮ TRONG LUẬN VĂN
1. Luật hải quan đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005:
- Hàng hóa : bao gồm hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu, quá cảnh; hành
lý, ngoại hối, tiền Việt Nam của người xuất cảnh, nhập cảnh; vật dụng trên
phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; kim khí quí, đá quí, cổ

vật, văn háo phẩm, bưu phẩm, các tài sản khác xuất khẩu, nhập khẩu, quá
cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt động Hải quan.
- Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh bao gồm tất cả các động
sản có mã số và tên gọi theo quy định của pháp luật được xuất khẩu, nhập
khẩu, quá cảnh hoặc trong địa bàn hoạt động Hải quan.
- Kiểm tra hải quan: là việc kiểm tra hồ sơ hải quan, các chứng từ liên
quan và kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải do cơ quan hải quan
thực hiện.
- Giám sát hải quan là biện pháp nghiệp vụ do cơ quan hải quan áp
dụng để đảm bảo sự nguyên trạng của hàng hóa, phương tiện vận tải đang
thuộc đối tượng quản lý của hải quan.
- Kiểm soát hải quan là các biện pháp tuần tra, điều tra hoặc biện pháp
nghiệp vụ khác do cơ quan hải quan áp dụng để phòng, chống buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp
luật hải quan.
2. Quyết định số 65/2004/QĐ-TTg ngày 19/4/2004 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động của lực lượng Hải quan
chuyên trách phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên
giới; Thông tư 102/2005/TT-BTC ngày 21/11/2005 của Bộ Tài chính hướng
25

×