Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

VAI TRÒ của NHÀ nước TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN hệ THỐNG tài CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.23 KB, 29 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH -
MARKETING
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Tên đề tài:
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN
HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng Viên HD: TS. Nguyễn Thị Mỹ Dung
Danh sách nhóm 6:
Trần Thị Thùy Linh
Lê Trung Hưng
Phạm Huỳnh Thanh Ngọc
Nguyễn Thu Thanh
Lưu Thị Bích Trang
Trần Công Khánh
Nguyễn Thị Hồng Liêm
Cao Văn Thịnh
Thành phố Hồ Chí Minh
CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU VỀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
1.1. Khái niệm hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính là tổng thể các hoạt động tài chính trong các lĩnh vực khác nhau
của nền kinh tế quốc dân, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau về việc hình thành và sử
dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế - xã hội hoạt động trong lĩnh vực đó.
1.2. Cấu trúc (các bộ phận cấu thành) của hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính được cấu thành từ 4 thành tố chính sau: thị trường tài chính, các
chủ thể tài chính, các công cụ tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính có thể được khái quát
qua sơ đồ sau:
SƠ ĐỒ: HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
 Các chủ thể tài chính:


 Tài chính công :
Tài chính công bao gồm quỹ công (hay quỹ ngân sách nhà nước), quỹ bảo hiểm xã
hội, các quỹ hỗ trợ tài chính. Trong đó, ngân sách nhà nước là khâu tài chính giữ vị trí
trung tâm và chủ đạo trong toàn bộ hệ thống tài chính vì nó chi phối và điều chỉnh các bộ
phận tài chính khác. Ngân sách Nhà nước ngắn liền với các chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước, đồng thời là phương tiện vật chất cần thiết để hệ thống chính quyền nhà nước thực
hiện được nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, ngân
sách Nhà nước còn có vai trò to lớn trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội, đó là
vai trò định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời
sống xã hội Để thực hiện được các vai trò đó, ngân sách nhà nước phải có các nguồn
vốn được tập trung từ các tụ điểm vốn thông qua các chính sách thu nhập (thuế, phí, lệ
phí, … ) thích hợp.
 Tài chính doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp là một bộ phận của hệ thống tài chính. Hệ thống các quan
hệ kinh tế dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình tạo lập và phân phối nguồn tài
chính và quỹ tiền tệ, quá trình tạo lập và chu chuyển nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm
phục vụ mục đích sản xuất để đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp đó.
Đặc điểm của tài chính doanh nghiệp. Hoạt động của tài chính doanh nghiệp:
- Luôn gắn liền và phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Bị chi phối bởi tính chất sở hữu vốn trong mỗi doanh nghiệp.
- Luôn bị chi phối bởi mục tiêu lợi nhuận.
 Các định chế tài chính trung gian :
Là những tổ chức kinh doanh tài chính tiền tệ, có nhiệm vụ tiết kiệm cho nền kinh tế
các chi phí giao dịch và chi phí thông tin, bao gồm các tổ chức tài chính chính thức và
các tổ chức tài chính không chính thức.
o Các tổ chức tài chính chính thức:
- Các Ngân hàng thương mại:
Trong số các tổ chức tài chính trung gian, hệ thống các ngân hàng thương mại
chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô và về thành phần các nghiệp vụ (có và nợ).

Hoạt động của NHTM bao gồm 3 lĩnh vực nghiệp vụ: nghiệp vụ nợ ( huy động
vốn), nghiệp vụ có (cho vay vốn), nghiệp vụ môi giới trung gian (dịch vụ thanh toán, đại
lý, tư vấn, thông tin, giữ hộ chứng từ và vật quý giá…).
Ở nước ta hiện nay, đa số các Ngân hàng hiện nay là Ngân hàng chuyển doanh do
Nhà nước cấp vốn hoạt động (Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng công thương, Ngân
hàng ngoại thương…), hệ thống các chi nhánh của chúng lại được bố trí theo địa giới
hành chính nên chưa phát huy được vai trò của mình do nội dung hoạt động bị hạn chế,
chất lượng và kỹ thuật phục vụ thấp, không có yếu tố cạnh tranh và không bám sát được
sự phát triển của thị trường. Để khắc phục cần sớm hình thành và phát triển các Ngân
hàng cổ phần đặc biệt là các Ngân hàng kinh doanh tổng hợp.
- Các Công ty tài chính:
Các công ty tài chính (CTTC) thu hút vốn bằng cách phát hành thương phiếu hoặc
cổ phiếu, trái phiếu và dùng tiền thu được để cho vay, đặc biệt thích hợp với các nhu cầu
của các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Quá trình trung gian tài chính của các CTTC có thể được mô tả bằng cách nói rằng
họ vay những món tiền lớn nhưng lại thường cho vay những món tiền nhỏ - một quá trình
hoàn toàn khác với quá trình của những ngân hàng thương mại, các Ngân hàng này phát
hành các món tiền gửi với số lượng tiền nhỏ và sau đó thường cho vay với món tiền lớn.
- Các quỹ tín dụng:
Các quỹ tín dụng là tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được thành lập chủ yếu
theo nguyên tắc góp cổ phần.
o Các tổ chức tài chính không chính thức:
Các tổ chức tài chính không chính thức tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau mà
trước hết và quan trọng nhất là các công ty bảo hiểm.
 Công cụ tài chính:
+ Các khoản vay của các ngân hàng với các tổ chức tài chính khác.
+ Trái phiếu chính phủ.
+ Tín phiếu kho bạc.
+ Trái phiếu đô thị.
+ Trái phiếu công ty.

+ Chứng chỉ tiền gửi.
+ Cổ phiếu….
 Thị trường tài chính
Thị trường tài chính theo cách hiểu chung nhất đó là nơi diễn ra quá trình trao đổi
mua bán các công cụ tài chính và các công cụ thanh toán.
Chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính là khơi thông dòng chảy vốn từ
người đang dư thừa có nhu cầu đầu tư sang người đang cần vốn. Hoạt động của thị
trường tài chính diễn ra khẩn trương sôi động, xét về bản chất thì những người kinh
doanh trên thị trường tài chính là rất quan trọng bởi vì hoạt động của họ làm nguồn vốn
được điều hòa có nghĩa là dòng chảy vốn sẽ chảy mạnh mẽ đến những ngành, lĩnh vực
làm ăn có hiệu quả và ngược lại nó cũng sẽ rút khỏi những lĩnh vực kém hấp dẫn. Như
vậy hoạt động trên thị trường tài chính sẽ góp phần lớn vào bình quân hóa tỉ suất lợi
nhuận đưa nền kinh tế tới mô hình tối ưu hơn.
Về phân loại thị trường tài chính thì có nhiều cách dựa theo các tiêu thức khác
nhau. Nếu căn cứ vào thời hạn các hàng hóa trên thị trường có thể chia thành thị trường
vốn và thị trường tiền tệ. Nếu căn cứ vào mức độ rộng rãi của các chủ thể tham gia có thể
chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, nếu căn cứ vào tiêu thức huy động vốn
của các chủ thể thì lại chia thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần.
 Cơ sở hạ tầng tài chính:
Cơ sơ hạ tầng tài chính: là khuôn khổ các luật lệ và hệ thống làm nền tảng cho các
bên lập kế hoạch, đàm phán và thực hiện các giao dịch tài chính. Bao gồm:
+ Hệ thống pháp luật và quản lý của nhà nước.
+ Nguồn lực và thông lệ giám sát.
+ Cung cấp thông tin.
+ Hệ thống thanh toán
1.3. Chức năng của hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính dẫn vốn từ những người thừa vốn đến những người thiếu vốn.
Điều này cải thiện mức sống kinh tế của mỗi người trong xã hội, bởi vì nó cho phép vốn
chuyển từ những người thiếu cơ hội đầu tư sinh lợi tới những người có những cơ hội như
vậy, nhờ thế đóng góp hiệu quả đang tăng lên trong nền kinh tế.

Sàng lọc, chuyển giao, phân tán rủi ro: là thu nhập, xử lý, cung cấp thông tin để
lựa chọn phương án đầu tư khả thi. Mua bảo hiểm, tái bảo hiểm cho dự án. Đa dạng hóa
danh mục đầu tư.
Đánh giá, giám sát và định hướng các hoạt động kinh tế: là giám sát trước khi cấp
vốn, trong khi sử dụng vốn và sau khi hoàn vốn
Vận hành hệ thống thanh toán qua tài khoản ngân hàng, thanh toán chuyển khoản,
thẻ tín dụng…
1.4. Vai trò của hệ thống tài chính:
- Khuyến khích tiết kiệm.
- Khuyến khích đầu tư.
- Thúc đẩy sản xuất và trao đổi hàng hóa.
- Tăng cường hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
- Cải thiện đời sống kinh tế xã hội.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ CHO SỰ CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA
NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
HIỆN NAY.
2.1. Cơ sở cho sự can thiệp của nhà nước.
Các nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới đã tranh luận khá gay gắt về vai trò của nhà
nước đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia, chủ yếu giữa hai quan điểm: nền
kinh tế tập trung dưới sự chỉ huy của nhà nước và nền kinh tế thị trường dựa vào thành
phần kinh tế tư nhân.
 Nền kinh tế tập trung dưới sự chỉ huy của nhà nước:
Thực tế đã chứng minh rằng nền kinh tế tập trung dưới sự chỉ huy của nhà nước là
thất bại. Thất bại này thể hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, đời sống nhân dân
không được cải thiện. Và thời kỳ nền kinh tế bao cấp ở Việt Nam đã minh chứng cho điều
đó.
Thời kỳ mà nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung kế hoạch hóa. Nhà nước lên
kế hoạch cho mọi hoạt động kinh tế. Thành phần kinh tế tư nhân bị cấm. Nông dân làm
việc trong các hợp tác xã. Và kết quả là: Từ năm 1976 đến 1980 thu nhập quốc dân tăng
rất chậm, thậm chí có năm còn giảm. Năm 1977 tăng 2,8%, 1978 tăng 2,3 %, 1979 giảm

2 %, 1980 giảm 1,4 %. Trong khi tốc độ tăng trưởng dân số cao làm cho thu nhập bình
quân đầu người giảm 14 %.
 Nền kinh tế thị trường tự do dựa vào thành phần kinh tế tư nhân
Trong giai đoạn đầu, kinh tế thị trường ở Châu Âu, cả Châu Á và đặc biệt là Mỹ tỏ
ra khá thành công. Lúc này những người theo trường phái thị trường tự do đã lớn tiếng
trong việc chỉ trích vai trò của nhà nước trong việc điều tiết can thiệp vào thị trường làm
mất đi tính hiểu quả của nó.
Nhưng đến năm 2007 cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã xảy ra mà ngòi nổ
đầu tiên xuất hiện ở Mỹ. Qua phân tích thì nguyên nhân của sự khủng hoảng này bắt
nguồn từ hệ thống tài chính lỏng lẻo cùng với các công cụ tài chính truyền thống. Các
nhà tài chính đã phát sinh ra các công cụ tài chính mới. Các công cụ này đã tạo nên tính
năng động cho thị trường, giúp nguồn tài chính được luân chuyển một cách hiệu quả.
Vừa mang lại lợi ích cho người tiết kiệm, vừa mang lại lợi ích cho nhà đầu tư. Nhưng
việc lơ là công tác giám sát các hoạt động này đã tích lũy những rủi ro cho hệ thống tài
chính, là yếu tố chính mang đến cuộc khủng hoảng trên.
 Nền kinh tế dưới sự rối ren về chính trị.
Từ những năm 1960 đến năm 1997, nền kinh tế Thái Lan phát triển rất nhanh và được
mệnh danh là “ con rồng nhỏ” Đông Á. Đứng vào hàng các nước có thu nhập trung bình,
tỷ lệ đói nghèo giảm đi đáng kể. Nhưng với chính sách” coi trọng thành thị, xem nhẹ
nông thôn” trong thời gian dài dẫn tới khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông
thôn ngày càng xa. Về chính trị, tầng lớp nông thôn không có tiếng nói. Và khơi mào là
chính sách dân túy của Thaksin đưa ra với mục đích cải thiện mức sống của tầng lớp bình
dân, nâng cao hiệu quả sản xuất của họ. Từ đó, sự đòi hỏi lợi ích của tầng lớp bình dân
phát triển mạnh mẽ, cuối cùng là phá vở hiện trạng kinh tế tự nhiên nông thôn ở Thái
Lan, mở ra nền kinh tế thị trường nông thôn. Điều này đã đem lại một sức ép to lớn đến
thể chế chính trị cầm quyền lúc bấy giờ. Thể chế cầm quyền này đã liên kết với nhau phát
động đảo chính lật đổ Thaksin. Tình trạng mong muốn lợi ích đối lập nhau căn bản giữa
người cầm quyền và phe đối lập không thể tiến hành hiệp thương, không nhượng bộ lẫn
nhau dẫn đến các cuộc biểu tình kéo dài như hiện nay. Những rối ren về chính trị, cho
thấy một khi nhà nước không làm chủ được đất nước sẽ kéo theo hệ lụy rất lớn: tổn thất

về chính trị, tổn thất về kinh tế một cách nặng nề.
Qua đó, có thể nhận thấy rõ vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và hệ
thống tài chính nói riêng. Sự can thiệp của nhà nước trong một mức độ nhất định sẽ thúc
đẩy hệ thống tài chính quốc gia ổn định, góp phần mang lại sự phát triển cho nền kinh tế,
bảo đảm sự hoạt động lành mạnh của toàn hệ thống, đảm bảo mọi quyền lợi của các chủ
thể trong nền kinh tế và giải quyết mọi vấn đề phát sinh do tác động của các nhân tố bên
ngoài, bên cạnh đó còn giúp cải thiện việc kiểm soát chính sách tiền tệ.
2.2. Kiến tạo thị trường
Chất lượng một thể chế và một môi trường kinh doanh có tầm quan trọng hàng
đầu cho sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy mà, Nhà nước tập trung xây dựng khuôn
khổ thể chế phù hợp, tạo điều kiện cho mọi người phát huy hết năng lực và sự sáng tạo
của mình mang lại lợi ích cho cá nhân và cho xã hội. Tạo ra một môi trường kinh doanh
bình đẳng theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp.
Pháp luật và cơ chế chính sách phải tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp phát
triển sản xuất. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở ra một không gian phát triển mới,
rộng mở. Tạo điều kiện để cá nhân và doanh nghiệp phát huy hết tiềm năng của mình khi
hội nhập một thị trường lớn.
2.3. Vai trò của Nhà nước trong việc phát triển hệ thống tài chinh Việt Nam
hiện nay
2.3.1. Vai trò của nhà nước đối với các tổ chức tài chính.
Tổ chức tài chính bao gồm: các tổ chức ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng
 Định nghĩa
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt
động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán.
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một

số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được
nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân
hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ đầu tư và công ty bảo hiểm.
 Vai trò của NN đối với các tổ chức tài chính:
- Nhà nước xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ quốc gia có ảnh hưởng to lớn đối với quá trình ổn định kinh tế -
xã hội. Do đó, việc hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia phải theo
chế độ và trật tự chặt chẽ. Ở Việt Nam, Luật Ngân hàng 1997 quy định: “Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam có nhiệm vụ quyền hạn xây dựng dự án tiền tệ quốc gia để trình chính
phủ xem xét trình Quốc Hội quy định và tổ chức thực hiện chính sách này”.
Độc lập với Chính phủ bởi NHTW là cơ quan quản lý, điều tiết tiền tệ và phát
hành tiền, hoạt động của nó tác động trực tiếp tới sự phát triển của nền kinh tế.
Chính phủ là cơ quan hành pháp, thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với nền
kinh tế. Do đó, Chính phủ phải nắm trong tay các công cụ kinh tế vĩ mô để sử dụng nó
một cách đồng bộ và phối hợp các công cụ nhằm vận hành nền kinh tế trôi chảy và hiệu
quả, cũng là để thực thi tốt nhiệm vụ của mình, mà thực chất là Chính phủ nắm NHTW
và thông qua NHTW tác động đến chính sách tiền tệ quốc gia.
Chính phủ có thể dễ dàng chỉ đạo và yêu cầu NHTW phối hợp chính sách tiền tệ
quốc gia với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả
của tổng thể các chính sách kinh tế tài chính đối với các mục tiêu vĩ mô trong từng thời
kỳ.
-Nhà nước sử dụng pháp luật làm công cụ quản lý và duy trì trật tự cho các hoạt
động Ngân hàng trong nền kinh tế.
Lĩnh vực Ngân hàng là nơi tích tụ và điều hòa nhiều loại nguồn vốn là nơi thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao và liên quan đến nhiều lợi
ích của nhiều loại chủ thể trong nền kinh tế. Đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng
và phát huy vai trò tích cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội, đòi hỏi Nhà nước
cùng đồng bộ những biện pháp trong đó có sử dụng pháp luật. Thể hiện các mặt:
Một là, ban hành các văn bản pháp luật quy định các điều kiện hoạt động Ngân
hàng: điều kiện, trình tự, thử tục cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD

phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Chính sách của nhà nước để
xây dựng các loai hình TCTD ghi nhận ở điều 4 luật các TCTD: 12/12/1997 gồm những
vấn đề:
Thống nhất quản lý với mọi hoạt động Ngân hàng, xây dựng các tổ chức tín dụng
hiện đại, đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế dân cư, góp
phần chính sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo an toàn hệ thống TCTD, bảo vệ lợi ích hành
pháp của người gởi tiền.
Đầu tư vốn và nguồn lực khác để phát triển các TCTD Nhà nước tạo điều kiện cho
các tổ chức này giữ vai trò trên thương trường tiền tệ.
Phát triển các ngân hàng chính sách hoạt động không những mục đích lợi nhuận
phục vụ nghĩa vụ và chính sách khác nhằm thực hiện chính sách kinh tế- xã hội và Nhà
nước.
Bảo hộ sở hữu, quyền và lợi ích hạnh pháp khác trong hoạt động của các TCTD
hợp tác nhằm tạo điều kiện cho người lao động tương trợ nhau trong sản xuất và đời
sống.
Sử dụng các ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân
với chính sách ưu đãi về vốn, lại suất và các điều kiện vay vốn.
Hai là, nhà nước sử dụng pháp luật làm công cụ bảo đảm an toàn cho các hoạt
động kinh doanh Ngân hàng tổng nền kinh tế vì hoạt động kinh doanh Ngân hàng còn
tiềm ẩn những rủi ro cao, Nhà nước ban hành các quy định nhằm hạn chế và kiểm soát
hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Cụ thể, điều 79 Luật các TCTD: Tổng dư nợ cho vay
đối với 1 khách hàng không vượt quá 15% vốn của TCTD trừ tổng hợp đối với các khoản
cho vay từ các nguồn vốn ủy thác của các tổ chức, cá nhân hay trường hợp vậy là TCTD
khác.
Ba là, nhà nước pháp luật làm công cụ ngã ngửa, giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong lĩnh vực Ngân hàng: Quy định về trình tự, thủ tục, cơ quan có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp Góp phần bảo vệ quyền lợi của tổ chức, cá nhân tham gia các quan hệ
xã hội trong lĩnh vực ngân hàng trong nền kinh tế.
- Nhà nước thành lập và sử dụng hệ thống Ngân hàng, TCTD Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân

Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng TMQD, Ngân hàng đầu tư phát triển, Ngân hàng
chính sách và các loại hình TCTD khác. Hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ Nhà nước
giáo nên các Ngân hàng, TCTD Nhà nước đóng vai trò là công cụ của nhà nước trong
việc thực hiện chính sách tiền tệ, tín dụng Ngân hàng của Nhà nước và giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân.
NHNN Việt Nam với tư cách là NHTW của hệ thống ngân hàng có quyền quyết định
cho vay, bảo lãnh cho các tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài, tạm ứng cho ngân sách
nhà nước để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước. Vai trò chủ đạo thể hiện ở
việc hệ thống Ngân hàng, TCTD nhà nước hoạt động trên tất cả các lĩnh vực Ngân hàng
với quy mô hoạt động nên ảnh hưởng sâu sắc đối với nền kinh tế và có tác động chi phối
đối với hoạt động Ngân hàng của các thành phần kinh tế khác.
-Nhà nước kích thích sự phát triển của các hệ thống Ngân hàng, TCTD Nhà nước
tạo môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, giám sát hoạt động của thị trường.
Luật NHNN hiện hành đã thể hiện rõ hơn sự tự chủ và tính độc lập của NHNN trong
việc thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, khẳng
định mối quan hệ chặt chẽ giữa hai chức năng quan trọng của một NHTW: thực thi chính
sách tiền tệ quốc gia và giám sát an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng. Cụ thể, Thủ
tướng Chính phủ, NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ thực hiện chính sách tiền
tệ quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị
trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ.
Đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng có thể được hình dung khái quát là quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước cũng như các quan hệ xã hội nảy sinh
từ hoạt động lưu thông tiền tệ, tín dụng, ngân hàng của các tổ chức đúng và chủ thể tham
gia vào lĩnh vực ngân hàng. Chính sự phát triển đa dạng và luôn biến đổi của các chủ thể
tham giao vào thị trường nên việc can thiệp vào các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng để
kiểm soát rủi ro và đề ra các quy định giới hạn lĩnh vực công việc và điều chỉnh kịp thời
nhằm bảo đảm trật tự trên thị trường tài chính.
Với xu thế phát triển cao của thị trường, ranh giới giữa các trung gia tài chính vấc thị
trường ngày càng mờ nhạt. Cụ thể, công ty bảo hiểm cũng có thể cho vay, quỹ đầu tư
cũng có thể tài trợ vốn cho dự án. Luồng vốn không được đổ vào kinh doanh mà vào việc

mua bán trên thị trường vốn.
Năm từ 2009 đến 2011 Ngân hàng Nhà nước vừa đưa ra nhiều luật, dự thảo, thông tư
hướng dẫn điều kiện, hồ sơ, trình tự và thủ tục góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín
dụng. Dự thảo quy định kỹ lưỡng và có phần chặt chẽ hơn về điều kiện để các ngân hàng
góp vốn mua cổ phần các ngân hang góp vốn mua cổ phần dưới dạng công ty liên doanh,
liên kết hoặc dưới dạng doanh mục đầu tư.
Việc kiểm soát và hạn chế các ngân hàng thương mại thành lập công ty con, công ty
liên kết là cần thiết để tránh tình trạng thông qua các công ty liên kết lách luật cho vay
nội bộ lẫn nhau. Điều này cũng giúp cho hệ thống ngân hàng tránh được rủi ro khi
đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh khác.
2.3.2. Vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng tài chính
tại Việt Nam
 Tìm hiểu về cơ sở hạ tầng tài chính:
Là những nền tảng để qua đó các doanh nghiệp, nhà đầu tư, cá nhân thực hiện các
giao dịch tài chính với các định chế tài chính trung gian và thị trường tài chính.
Các thành phần của cơ sở hạ tầng tài chính:
- Hệ thống pháp luật
- Hệ thống giám sát
- Hệ thống thông tin
- Hệ thống thanh toán
- Hệ thống dịch vụ chứng khoán
- Nguồn nhân lực,…
 Vai trò của Nhà nước đối với việc xây dựng cơ sở hạ tầng tài chính:
Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng tài chính ổn
định, có nền tảng vững chắc; hay nói khác hơn là tạo ra khung pháp lý – Cơ sở hạ tầng
pháp lý cho sự phát triển của hệ thống tài chính, bao gồm ban hành các văn bản pháp
luật, tổ chức kiểm tra giám sát, đảm bảo thông tin được cung cấp đầy đủ đến các chủ thể
tài chính….
Đây chính là nền tảng để qua đó các doanh nghiệp, nhà đầu tư, cá nhân lập kế hoạch
và thực hiện các giao dịch tài chính với các định chế tài chính và thị trường tài chính.

Qua đó, hỗ trợ và thúc đẩy sự hoạt động hiệu quả của hệ thống tài chính.
Thật vậy, một khung pháp lý vững chắc sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể trong thị
trường hoạt động suôn sẻ, có niềm tin vào sự quản lý cũng như định hướng của Nhà
nước. Từ đó, góp phần thúc đẩy sản xuất, tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế, ổn định
an sinh xã hội.
Ngoài ra, trong thời kỳ khủng hoảng thì vai trò này càng thể hiện rõ hơn tầm quan
trọng của mình, một đất nước có nền tảng pháp luật tài chính hợp lý và chặt chẽ sẽ có thể
hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả từ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, có thể
nói rằng khung pháp lý này chính là bức tường thành bảo vệ nền kinh tế phát triển và
đứng vững trước những tác động bên ngoài.
Đặc biệt, với mục tiêu can thiệp và đảm bảo sự ổn định tài chính cũng như giải
quyết các vấn đề ngoại tác, thông tin bất cân xứng, tâm lý ỷ lại thì các quy định của Nhà
nước cần tập trung giải quyết các vấn đề:
- Quy định cấu trúc: Gồm các quy định các loại hình hoạt động, sản phẩm tài chính,
phạm vi hoạt động của các định chế tài chính.
- Quy định an toàn: Gồm các quy định thuộc về quản trị bên trong của các định chế
tài chính (tỷ lệ nợ, vốn, sinh lời…)
- Quy định bảo vệ các nhà đầu tư: Gồm các quy định bảo vệ quyền lợi các nhà đầu
tư, ngăn chăn các hành vi lợi dụng chức quyền, mua bán thông tin nội gián, gian
lận.
Bên cạnh đó, để đáp ứng những vai trò quan trọng đã nêu thì các quy định, văn bản
pháp lý trong hệ thống pháp luật tài chính phải đảm bảo được những yêu cầu sau:
- Phân định được quyền hạn trách nhiệm và phạm vi hoạt động của các chủ thể, các
định chế tài chính. Mang lại lợi ích kinh tế cho toàn xã hội.
- Phải hợp lý, chặt chẽ và đảm bảo sự hoạt động đồng bộ, không chồng chéo giữa
các khâu trong hệ thống tài chính.
- Hơn hết, phải phù hợp với yêu cầu, tiềm lực thực tế của đất nước, đảm bảo sự
công bằng, nhất quán, nghiêm minh; công khai, minh bạch.
- Ngoài ra, tùy theo tình hình kinh tế mà hệ thống pháp luật phải dần hoàn thiện để
giải quyết được những vấn đề phát sinh ngoài dự định và chưa được quy định

trong các văn bản luật.
 Cơ sở hạ tầng tài chính và vai trò của Nhà nước Việt Nam hiện nay:
 Tổng quan về hệ thống pháp luật tài chính:
Thứ nhất, hệ thống luật pháp Việt Nam được đánh giá là tương đối đầy đủ để hệ thống
tài chính hoạt động.
Đối với thị trường tài chính: Để chuyển giao quyền sử dụng các nguồn tài chính,
các công cụ chủ yếu được sử dụng trên thị trường tài chính là các loại chứng khoán. Trên
cơ sở đó, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ để điều
chỉnh các hoạt động trên thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói
riêng như ban hành luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán, luật lưu ký chứng khoán
quy định về các quy trình hoạt động, các điều kiện tham gia giao dịch trên thị trường…
Mặt khác, Nhà nước còn ban hành các văn bản dưới luật quy định chức năng, nhiệm vụ
và phạm vi hoạt động của các tổ chức tài chính (ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương
mại, các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm
Đối với Tài chính công: hiên nay Nhà nước đã ban hành luật ngân sách nhà nước,
ngoài ra còn được điều chỉnh đồng thời bằng nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Mục
đích của luật ngân sách nhà nước nhằm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng
cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và
sử dụng ngân sách nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả
ngân sách và tài sản của Nhà nước, tăng tích lũy nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Với mục
đích nêu trên, luật này quy định về lập, chấp hành, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, quyết
toán ngân sách nhà nước và về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước các cấp. Thật
vậy, luật ngân sách nhà nước của Việt Nam đã quy định cụ thể về tình hình thu, chi ngân
sách và xử lý các vấn đề về bội chi ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, Nhà nước còn đưa
ra các luật thuế góp phần làm tăng nguồn thu ngân sách, tăng GDP cho nền kinh tế.
Đối với Tài chính doanh nghiệp: Các quy định về việc thành lập, điều kiện đăng ký
kinh doanh, quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các doanh nghiệp tham gia thị trường được
đưa ra cụ thể trong Luật doanh nghiệp. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động của mình, các

doanh nghiệp còn được hỗ trợ bằng các chế độ kế toán, kiểm toán được quy định trong
luật kế toán. Qua đó, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp hoạt động ổn định, góp phần
tăng doanh thu, tạo công ăn việc làm cho những người lao động, cải thiện mức sống…
Đối với các định chế tài chính trung gian: Các định chế tài chính trung gian có thể
kể đến là các tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm,… hoạt động dựa trên các điều luật
quy định trong luật các tổ chức tín dụng, luật bảo hiểm, … Tiêu biểu nhất chi phối trong
lĩnh vực ngân hàng là vấn đề về lãi suất. Theo đó, nhiều chính sách quy định về mức lãi
suất đã ra đời, tùy theo thức trạng nền kinh tế đất nước mà Nhà nước đưa ra các mức lãi
suất huy động và cho vay phù hợp. Ngoài ra, luật bảo hiểm đã góp phần đảm bảo quyền
lợi của những người tham gia bảo hiểm, tránh tình trạng bị các công ty bảo hiểm lợi
dụng, chiếm dụng tiền của khách hàng.
Thứ hai, các văn bản pháp luật ngày càng được điều chỉnh theo hướng hoàn thiện hệ
thống tài chính, đáp ứng yêu cầu đặt ra của các chủ thể hoạt động tài chính. Cụ thể:
Trong năm 2013, có nhiều Luật của ngành Tài chính chính thức có hiệu lực như: Dự
án Luật Quản lý thuế (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT; Luật Dự trữ Quốc gia; Luật
Giá; Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí (sửa đổi). Các Nghị định quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Luật cũng được Bộ Tài chính chủ trì soạn thảo và trình Chính phủ
ban hành, tạo hành lang pháp lý trong quá trình thực hiện.
- Luật Giá được Quốc hội Khóa XIII, Kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012 và chính
thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2013; luật DTQG được Quốc hội thông qua ngày
22/11/2012 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2013 tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho thực hành
tiết kiệm chống lãng phí trong quản lý, sử dụng NSNN, vốn nhà nước, tài sản nhà nước,
lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước; quản lý, khai thác và sử dụng tài
nguyên; hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân;
qua đó tạo ra chuyển biến tích cực trong nhận thức về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân lao động, trong sản xuất và đời sống, thu
được những kết quả đáng khích lệ về tiết kiệm trong một số lĩnh vực.
 Hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam
Về mô hình hệ thống giám sát tài chính

HTQSTC Việt Nam đi theo mô hình giám sát phân tán, nghĩa là các cơ quan quản
lý và giám sát được thành lập và vận hành nhằm giám sát một loại định chế tài chính và
khu vực thị trường nhất định trên tổng thể thị trường tài chính (TTTC). Hai cơ quan cấp
bộ là Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cùng với Ủy ban Giám
sát tài chính quốc gia (UBGSTCQG) và Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là những tổ chức
giám sát độc lập, chịu trách nhiệm trước Chính phủ về thực hiện các chức năng giám sát
của mình trên TTTC.
Với chức năng tư vấn cho Chính phủ về điều phối giám sát trên TTTC,
UBGSTCQG có quan hệ phối hợp trực tiếp với Bộ Tài chính và NHNN nhằm nắm bắt
được diễn biến hoạt động giám sát trên cả 3 lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán;
được yêu cầu 2 cơ quan quản lý này cũng như các định chế tài chính thuộc thẩm quyền
quản lý của NHNN và Bộ Tài chính cung cấp thông tin phục vụ giám sát; có trách nhiệm
đưa ra những khuyến nghị về xử lý vi phạm đối với tổ chức và cá nhân tham gia 3 lĩnh
vực trên.
NHNN và Bộ Tài chính có mối quan hệ phối hợp chéo trong quản lý và giám sát
những ngân hàng thương mại (NHTM) có sở hữu vốn nhà nước do Bộ Tài chính chịu
trách nhiệm quản lý. Đồng thời, hai tổ chức này còn có mối quan hệ mật thiết liên quan
đến việc phát hành trái phiếu kho bạc, cũng như thực hiện các chính sách tài chính công
và chính sách tiền tệ có liên quan đến việc sử dụng các trái phiếu này.
Hoạt động ngân hàng chịu sự giám sát trực tiếp của Cơ quan Thanh tra, Giám sát
Ngân hàng (NHNN). Trong khi đó, thị trường bảo hiểm chịu sự giám sát trực tiếp của
Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) chịu
trách nhiệm giám sát trực tiếp đối với thị trường chứng khoán (TTCK).
Cấu trúc trên cho thấy mô hình giám sát phân tán đang được duy trì trên TTTC
Việt Nam, xu hướng chuyên biệt hóa công tác giám sát theo chức năng đã bắt đầu được
hình thành.
Hiệu lực giám sát của các cơ quan giám sát tài chính
Trong thời gian qua, trước những thách thức trong yêu cầu phát triển bền vững
kinh tế - xã hội, các cơ quan giám sát chuyên ngành của Việt Nam đã có sự cải cách về
mọi mặt (tổ chức, công cụ, nhân lực và chính sách). Tuy nhiên, hiệu lực giám sát của

HTGSTC hiện hành vẫn bộc lộ khá nhiều tồn tại và hạn chế:
Thứ nhất, HTGSTC của Việt Nam đã gặp nhiều vấn đề trước xu thế phát triển của
các tập đoàn tài chính trong thời gian qua. Hiện nay, ngoài tập đoàn tài chính bảo hiểm
Bảo Việt còn có hơn 10 tổ chức tín dụng hoạt động theo mô hình tập đoàn tài chính (ngân
hàng – chứng khoán – bảo hiểm; hoặc ngân hàng – bảo hiểm; hoặc ngân hàng – chứng
khoán), chiếm khoảng dưới 50% thị phần TTTC (UBGSTCQG, 2012). Các định chế này
không ngừng mở rộng quy mô hoạt động, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đan xen
giữa các sản phẩm tài chính đa dạng và phức tạp.
Thứ hai, Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý các yêu cầu về giám sát
các sản phẩm tài chính mới theo xu hướng tích hợp. Xu hướng này là sự đan xen giữa
nhiều sản phẩm tài chính để ra đời những sản phẩm tài chính mới, ví dụ như bảo hiểm
liên kết ngân hàng - bancassuarance hay assurfinance khiến cho việc xác định cơ quan
giám sát nào chịu trách nhiệm giám sát trở nên hết sức phức tạp. Hệ quả từ việc “từ chối”
giám sát có thể sẽ gây ra rủi ro nghiêm trọng, còn hệ quả từ việc giám sát chồng chéo, tuy
giảm được rủi ro nhưng lại làm lãng phí nguồn lực xã hội, gây ra sự thiếu hiệu quả trong
giám sát.
Thứ ba, đã xuất hiện nhiều hạn chế trong việc chia sẻ thông tin và sự phối hợp
giữa các cơ quan trong nhiệm vụ giám sát thị trường. Điều này làm hạn chế khả năng
giám sát của toàn hệ thống.
Thứ tư, hành lang pháp lý cho hoạt động giám sát tài chính còn chưa đồng bộ và
thiếu đầy đủ. HTGSTC chưa hoàn chỉnh, thống nhất (có sự phân tách giữa Luật Ngân
hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng với Luật Chứng khoán, Luật Bảo hiểm). Các
luật này đều đề cập tới vấn đề giám sát an toàn, bảo vệ người tiêu dùng, quản trị rủi ro và
công bố thông tin của các tổ chức dưới quyền. Vì xây dựng tách bạch nhau nên các quy
định liên quan đến các đối tượng trên có thể trùng lắp hoặc thiếu nhất quán với nhau.
Luật giám sát theo chuyên ngành không cho phép tổ chức giám sát có sự độc lập và
quyền lực cũng như sự minh bạch trong việc phát hiện, xử lý các vi phạm có ảnh hưởng
tới sự an toàn hệ thống khi đồng nhất chức năng xây dựng chính sách với chức năng triển
khai thực hiện các hoạt động giám sát.
Thứ năm, về kỹ thuật và hạ tầng công nghệ, ở Việt Nam chưa có quy định chung

về giám sát hệ thống tài chính tổng quát. Hiện tại, mới chỉ có hệ thống các chỉ tiêu giám
sát từ xa theo CAMELS (hệ thống giám sát từ Mỹ, ra đời năm 1978) được Thanh tra ngân
hàng thuộc NHNN áp dụng nhằm đánh giá các ngân hàng thương mại và quỹ tín dụng
nhân dân. Đối với ngành bảo hiểm và chứng khoán thì vẫn chưa có hệ thống chỉ tiêu
giám sát hiệu quả. Tuy nhiên, ngay cả hệ thống CAMELS của NHNN cũng bị đánh giá là
chưa đầy đủ.
Thứ sáu, về hiệu lực của các cơ quan giám sát chuyên ngành trong giám sát tài
chính cũng còn nhiều tồn tại. Cụ thể:
- Đối với thanh tra NHNN: Giám sát ngân hàng hiện nay của cơ quan thanh tra NHNN
hiện nay chỉ đơn thuần dựa trên bộ chỉ số định lượng CAMELS, chưa có phân tích sâu về
rủi ro liên quan tài sản nợ, tài sản có. Trên thế giới, Ủy ban Basel đã công bố bộ 25
nguyên tắc cơ bản về thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả. So sánh với hoạt động giám
sát của cơ quan thanh tra NHNN thì việc giám sát ngân hàng tại Việt Nam còn rất nhiều
chỉ tiêu đang trong giai đoạn xúc tiến hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu đưa ra trong bộ 25
nguyên tắc của BASEL.
Đối với thanh tra UBCKNN: Hoạt động thanh tra - giám sát chưa thường xuyên liên tục,
chế tài xử phạt xử phạt còn thấp, dẫn đến vi phạm tái diễn. Hạ tầng công nghệ phục vụ
công tác thanh tra giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, trong khi các hành vi vi phạm
ngày càng tinh vi và phức tạp. Cơ chế phối hợp giữa các đơn vị thuộc UBCKNN trong
công tác giám sát chưa cao, việc phân định chức năng giám sát giữa các đơn vị chưa rõ
ràng và chồng chéo.
Đối với Cục quản lý, giám sát bảo hiểm: Hoạt động thanh tra giám sát nhiều khi còn
mang tính tình huống. Công tác thanh tra giám sát được thực hiện chủ yếu là giám sát từ
xa thông qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp mà thiếu thanh tra tại chỗ một cách
chuyên nghiệp. Thanh tra bảo hiểm mới chỉ thực hiện thanh tra mang tính “chọn mẫu”
ngẫu nhiên các doanh nghiệp bảo hiểm và chủ yếu tập trung trong lĩnh vực bảo hiểm phi
nhân thọ. Trong khi đó, ngày nay đã xuất hiện thêm một loại hình bảo hiểm có tính chất
ngân hàng mới cần phải có phương pháp và nội dung thanh tra cụ thể, đặc biệt là các chỉ
tiêu về rủi ro.
Thứ bảy, còn thiếu vắng nội dung giám sát an toàn vĩ mô. Tại Việt Nam, bắt đầu từ

năm 2009, UBGSTCQG đã triển khai việc thu thập các chỉ tiêu giám sát an toàn vĩ mô và
vi mô; tuy nhiên, vấn đề này vẫn khá mới mẻ đối với không chỉ riêng Việt Nam. Phát
triển nội dung giám sát an toàn vĩ mô trở thành một vấn đề được quan tâm lớn của các
nước trên thế giới.
Với những tồn tại trên, hệ thống tài chính Việt Nam đang phải đối mặt với các rủi ro
tiềm năng và dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường hay sự thay đổi về
chính sách. Điều này cho thấy, cần có những giải pháp khả thi trong ngắn hạn và dài hạn
trong việc xây dựng một HTGSTC đủ hiệu lực để giải quyết triệt để các tồn tại.
 Đánh giá hiệu quả thực thi cơ sở hạ tầng pháp lý và hệ thống giám sát của
Nhà nước.
 Các ưu điểm:
Hệ thống pháp luật được ban hành về cơ bản đã đảm bào được tính toàn diện trên
các lĩnh vực tài chính.
Ngày càng hoàn thiện về hình thức cũng như nội dung các quy định, tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế trong hệ thống tài chính hoạt động suôn sẻ, tạo ra giá trị thặng
dư cho nền kinh tế và ổn định an sinh xã hội.
Thường xuyên đổi mới cũng như ban hành thêm nhiều điều luật, chính sách phù
hợp với tình hình thực tế, giải quyết những vấn đề nảy sinh trong hoạt động tài chính.
 Một số hạn chế:
Hệ thống pháp luật tài chính còn thiếu tính đồng bộ, nhất quán, còn tình trạng
chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật hiện hành.
Một số văn bản vẫn còn lạc hậu, chưa phù hợp với thực trang hiện tại, chưa giải
quyết được những vấn đề nảy sinh đột xuất.
Ngoài ra, sự quản lý, giám sát nêu ra trong các quy định còn lỏng lẻo, vẫn còn
nhiều sơ hở tạo cơ hội cho các thành phần tiêu cực trong xã hội lách luật, tham nhũng,
chiếm đoạt tài sản của nhà nước và người dân.
2.3.3. Vai trò của Nhà nước đối với thị trường tài chính
Thị trường tài chính hình thành theo hai con đường: hình thành tự phát và hình thành dưới sự
can thiệp của Chính phủ. Dù hình thành theo cách nào đi nữa, thì Nhà nước cũng có vai trò nhất
định trong việc hình thành và phát triển thị trường tài chính. Vai trò của Nhà nước đối với thị trường

tài chính là rất quan trọng và cần thiết, nhằm giúp thị trường đạt được sự ổn định và hiệu quả, từ đó
tạo nên sự tăng trưởng phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Thứ nhất, Nhà nước tạo khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của thị trường tài chính.
Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của
thị trường tài chinh. Hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành là cơ sở pháp lý điều chỉnh các hành
vi của nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức trung gian tài chính, giải quyết tranh chấp và xử lý
các vi phạm trong hoạt động của thị trường tài chính. Có một số nhóm quy chế được ban hành đó
là:
+ Quy chế pháp lý đối với các tác nhân tham gia vào thi trường
+ Quy chế pháp lý về phát hành mua bán các loại chứng khoán.
+ Quy chế về tổ chức thị trường nhằm xây dựng quy chế tổ chức thị trường.
Thứ hai, Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật cùng các cơ quan chuyên trách thực hiện
chức năng quản lý, giám sát, điều hành các hoạt động của thị trường tài chính.
+ Thanh tra những điểm nghi vấn hoặc sai lệch trong hoạt động phát hành, niêm yết chứng
khoán và công bố thông tin.
+ Thanh tra các hoạt động giao dịch tại trụ sở giao dịch chứng khoán.
+ Thanh tra về khả năng tài chính và các hoạt động của tổ chức tài chính, các tổ chức kinh
doanh, dịch vụ chứng khoán
Vì vậy, việc Nhà nước tạo ra khuôn khổ pháp lý rõ ràng, cụ thể cho hoạt động của thị
trường tài chính và duy trì chế độ xã hội ổn định giúp:
+ Bảo đảm cho sự an toàn trong môi trường đầu tư trên thị trường tài chinh
+ Hạn chế được các mặt tiêu cực của thị trường
+ Bảo vệ lợi ích cho mọi tác nhân kinh tế tham gia thị trường.
+ Cũng cố lòng tin của chủ thể cần nguồn tài chính và chủ thể cung ứng nguồn tài chính.
+ Tạo ra sức hút đối với nguồn tài chính không chỉ trong nước mà còn từ nước ngoài.
Thúc đẩy thị trường tài chính phát triển ở phạm vi rộng hơn.
Thứ ba, Nhà nước tạo môi trường kinh tế cho thị trường tài chính hình thành và phát triển.
Để thúc đẩy sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa, đảm bảo lưu thông tiền tệ được ổn
định, Nhà nước có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hóa,
đa phương hóa các quan hệ đối ngoại.

Chính sách tác động rất lớn đến các quá trình hình thành và phát triển của thị trường tài
chính nhất là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ góp phần kiềm chế lạm phát, tạo công cụ
cho thị trường tài chính, ổn định và phát triển kinh tế.
Thứ tư, Nhà nước tạo cơ sở hạ tầng cho thị trường tài chính
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ sở vật chất cho thị trường: hệ
thống máy móc, thiết bị, trụ sở làm việc, nơi giao dịch của thị trường tài chính: Sở giao dịch
chứng khoán, Ngân hàng Nhà nước…
Cung cấp thông tin cơ bản về thị trường tài chính: Tổng cục Thống kê, trung tâm thông tin
tín dụng CIC, website của Ngân hàng nhà nước…
Thứ năm, Nhà nước tạo con người cung cấp cho thị trường tài chính
Thị trường tài chính hình thành và phát triển không thể thiếu yếu tố con người. Với cơ chế
hoạt động phức tạp,thị trường tài chính đòi hỏi hệ thống nhân viên ưu tú, được trang bị đầy đủ
kiến thức chuyên môn, kinh tế, thương mại, luật pháp, ngoại ngữ, thành thạo thực hành Để có
được đội ngũ nhân viên như vậy thì cần có chí phí đào tạo lớn, kế hoach đào tạo bài bản, khoa
học lấy từ nguồn Ngân sách Nhà nước đó là các trường Đại học công như Đại học kinh Tế
TPHCM, Đại học Ngân hàng, Đại học Tài chính & Marketing…
 Thực trạng vai trò của Nhà nước đối với thị trường tài chínhViệt Nam
Về vai trò tạo khuôn khổ pháp lý và giám sát thị trường tài chính
- Chính sách tài chính trong một số lĩnh vực còn chậm được ban hành và triển khai một cách
đồng bộ, cơ chế phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính quốc gia còn thiên về chiều rộng…,
nên hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
- Các quy định mới nhằm đảm bảo an toàn của hệ thống tài chính đã được bổ sung nhưng so với
chuẩn mực quốc tế vẫn còn khoảng cách. Gia tăng nợ xấu đã được kiểm soát nhưng tỷ lệ nợ
xấu vẫn ở mức cao. Rủi ro phát sinh từ việc đầu tư đan xen giữa các định chế trên thị trường tài
chính, nhất là giữa ngân hàng và chứng khoán, cũng như rủi ro phát sinh từ sở hữu chéo vẫn
đang là những thách thức lớn.
- Hiện tại, công tác giám sát thị trường tài chính được phân nhiệm cho nhiều cơ quan như: Ngân
hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Cục Quản lý giám sát bảo hiểm (Bộ Tài
chính), Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Thanh tra nhà nước… việc này dẫn đến nhiều
chồng chéo trong quá trình giám sát. Đặc biệt, việc giám sát các rủi ro chéo còn yếu do thiếu sự

phối hợp giữa các cơ quan liên quan.
• Các định chế tài chính do NHNN quản lý là các tổ chức tín dụng bao gồm: NHTM
nhà nước, ngân hàng TMCP, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh, văn
phòng đại diện của các tổ chức tín dụng nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính và khoảng quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng chính sách.
• Các định chế tài chính do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quản lý là Sở giao dịch
chứng khoán, các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán
• Các định chế tài chính khác do Chính phủ và Bộ tài chính quản lý là những định chế
có sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và các công ty bảo hiểm bao gồm: Quỹ bảo
hiểm xã hội, các công ty bảo hiểm; các quỹ có nguồn gốc ngân sách như Quỹ đầu tư phát
triển, Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương
- Cơ chế giám sát còn nặng về giấy tờ hành chính.
Về vai trò tạo môi trường kinh tế và cơ sở hạ tầng cho thị trường tài chính
Với chính sách điều hành hợp lý, kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ linh
hoạt, lạm phát đã bắt đầu có xu hướng giảm, một số chỉ số vĩ mô như thanh khoản hệ thống, tỷ giá,
cán cân thanh toán đang dần ổn định, lãi suất có xu hướng ngày càng giảm tạo môi trường kinh tế
ổn định thúc đẩy thị trường tài chính phát triển.
Chỉ số CPI năm 2013 thấp nhất so với 10 năm trở lại đây. Các năm trước chỉ số CPI tăng như
sau: năm 2004 tăng 9,5%; năm 2005 tăng 8,4%; năm 2006 là 6,6%; năm 2008 là 19,89%; năm 2011
là 18,13%, năm 2012 là 6,81%, 2013: 6,04% (Nguồn: Tổng cục Thống kê).
Trần lãi suất huy động dưới 6 tháng giảm từ 10% năm 2012 xuống còn 7% năm 2013, lãi suất
cho vay giảm phổ biến ở mức 12%/năm (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).
Các chỉ số giá chứng khoán năm 2013 đều tăng so với cuối năm 2012. Tính đến thời điểm 24-
12-2013, VN-Index tăng 22,2%, HNX-Index tăng 19,32%. Sự gia tăng của các chỉ số chứng khoán
trong năm 2013 đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nước có mức độ phục hồi mạnh nhất
thế giới. Mức vốn hóa thị trường năm 2013 cũng tăng so với năm 2012, đạt khoảng 964.000 tỉ đồng
(tăng 199.000 tỉ đồng so với cuối năm 2012), tương đương 31% GDP. (Nguồn: Uỷ ban chứng
khoán nhà nước)
Với vai trò là cơ quan quản lý, điều hành thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) rất
chú trọng công tác xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ cho hoạt động của thị trường và công tác phát

triển thị trường tiền tệ. NHNN đã xây dựng phần mềm để thực hiện các giao dịch thị trường tiền tệ
giữa NHNN với các tổ chức tín dụng là thành viên thị trường như nghiệp vụ đấu thấu tín phiếu kho
bạc, nghiệp vụ thị trường mở và một phần nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu và cho vay cầm cố
giấy tờ có giá. Các thông tin thị trường thu thập được qua kênh này cũng là căn cứ để NHNN xây
dựng phương án điều hành chính sách tiền tệ phù hợp trong từng thời kỳ. Từ năm 2002, NHNN bắt
đầu vận hành hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, đây là hệ thống thanh toán trực tuyến
online hiện đại phục vụ hoạt động thanh toán, bù trừ giữa các thành viên, xây dựng trung tâm thông
tin tín dụng CIC.
Nhiệm vụ xây dựng và phát triển một thị trường tiền tệ an toàn, lành mạnh và minh bạch về
thông tin luôn là mục tiêu hướng tới của NHNN. Chính vì vậy, công tác thu thập, phân tích và công
bố thông tin về hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng nói chung cũng như thông tin về thị trường
tiền tệ nói riêng luôn được NHNN hết sức coi trọng. Các thông tin hoạt động của toàn thị trường
cũng như thông tin về từng thành viên tham gia thị trường là cơ sở quan trọng đối với NHNN trong
việc ra các quyết sách và xây dựng phương án điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với từng thời
kỳ. Mặt khác, các thông tin về hoạt động của thị trường như doanh số, lãi suất và kỳ hạn giao dịch
cũng được NHNN cung cấp thường xuyên, kịp thời thông qua các phương tiện thông tin, đặc biệt là
qua website NHNN cũng là những thông tin hữu ích để các thành viên thị trường trong việc hoạch
định chiến lược kinh doanh của mình.
 Giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước đối với thị trường tài chính
Xây dựng những thể chế mới cần thiết cho sự phát triển của thị trường tài chính
Cần rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp lý. Trên cơ sở tham chiếu thông lệ quốc tế vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam để có sự điều chỉnh phù hợp, phát triển các thể chế còn đang khuyết, nhằm
đảm bảo tính đồng bộ của khung pháp lý, tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia thị trường chủ
động hoạt động trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, song vẫn đảm bảo các yêu cầu thận trọng,
an toàn đối với khu vực tài chính, với vấn đề ổn định vĩ mô và phát triển kinh tế.
Hoàn thiện các chế tài xử phạt, gắn kết được lợi ích với rủi ro ở mức nhất định. Đẩy mạnh việc
hợp tác, tư vấn, nghiên cứu để hoàn thiện môi trường pháp lý cho thị trường nói chung và dịch vụ
nói riêng như dịch vụ uỷ thác, giao dịch các công cụ phái sinh thúc đẩy sự phát triển của thị
trường vốn theo chiều sâu trên cơ sở đa dạng hóa sự tham gia của các các định chế tài chính trong
và ngoài nước.

Rà soát mô hình tổ chức kinh doanh vốn, chứng khoán, các tổ chức tự quản, các quỹ đầu tư; Sửa
đổi Luật Chứng Khoán, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, xây dựng Luật
Kiểm toán độc lập cũng như các quy định về chào bán, niêm yết, giao dịch, quản lý các giao dịch
vốn cho phù hợp với với lộ trình WTO.
Việt Nam chưa có một cơ quan giám sát vĩ mô đủ thẩm quyền để có thể cảnh báo, ngăn ngừa và
xử lý hữu hiệu các loại rủi ro của thị trường tài chính, do đó cần phải có sự phối hợp của các cơ
quan này để giám sát chung hệ thống tài chính, cũng như phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô và
chính sách giám sát an toàn tài chính, xây dựng mô hình giám sát hợp nhất, thay vì mô hình phân
tán như hiện nay. Việc có một “nhạc trưởng” thực sự trong giám sát hệ thống tài chính mới có thể
dần khắc phục những bất cập hiện tại, nâng cao hiệu quả giám sát tài chính tiền tệ.
Xây dựng thể chế hài hòa các tiêu chuẩn quốc tế
Các cơ quan hoạch định chính sách, cơ quan giám sát tài chính phải tăng cường trách nhiệm,
nâng cao năng lực, kịp thời nhận dạng và xử lý rủi ro phát sinh; lành mạnh hóa hệ thống tài chính
và xây dựng một mô hình giám sát hữu hiệu, hạn chế sở hữu chéo giữa 3 khu vực: Ngân hàng –
Chứng khoán – Doanh nghiệp chấm dứt lợi ích nhóm tháo túng trên thị trường vốn tín dụng ngân
hàng… để giúp khơi thông tín dụng cho nền kinh tế.
Từng bước áp dụng các chuẩn mực Basel III tại Việt Nam là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng
cường năng lực hoạt động, giảm thiểu rủi ro đối với các ngân hàng thương mại và nâng cao năng
lực cạnh tranh trong thị trường tài chính quốc tế, tạo điều kiện cho các ngân hàng Việt Nam có thể
mở rộng thị trường trong thời gian tới.
Công khai, minh bạch hóa thông tin trên thị trường
Hiện vẫn chưa có hệ thống lưu trữ thông tin tín dụng và tổ chức xếp loại tín dụng đủ độ tin
cậy, do đó Ngân hàng nhà nước cần từng bước nâng cao chất lượng của Trung tâm thông tin tín
dụng (CIC). Sự phát triển của thị trường vốn khiến cả cơ hội đầu tư và rủi ro đầu tư đều tăng lên.
Nhà đầu tư có nhiều cơ hội lựa chọn hơn nhằm thu lợi cao hơn từ khoản đầu tư này, song rủi ro
trong đầu tư cũng tăng lên vì họ không hiểu hết những chủ thể sử dụng vốn của mình. Những thông
tin về chỉ số tín nhiệm của các DN, các ngành trong nền kinh tế sẽ giúp các nhà đầu tư có định
hướng tốt hơn mỗi khi ra quyết định đầu tư.
Thị trường vốn phát triển, đòi hỏi phải quan tâm đến tính minh bạch của thị trường, tạo dựng
được lòng tin để thu hút những chủ thể cung cấp vốn và những chủ thể có nhu cầu sử dụng vốn

tham gia thị trường, làm cho thị trường có thể phát huy tối đa vai trò của nó.
Tái cấu trúc thị trường vốn gắn với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế
Bên cạnh đó, công tác tái cơ cấu các Tổ chức tín dụng cần thực hiện các giai đoạn tiếp theo
nhằm giữ vững sự an toàn của hệ thống, lành mạnh hóa nền kinh tế góp phần thực hiện Đề án tái cơ
cấu tổng thể nền kinh tế, đồng thời NHNN cần tập trung chỉ đạo triển khai quyết liệt, đồng bộ các
nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong các Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP của
Chính phủ thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đẩy mạnh hỗ trợ tín dụng
cho 5 lĩnh vực ưu tiên… Ngoài ra, ưu tiên tập trung đẩy mạnh hỗ trợ hoạt động Công ty Quản lý tài
sản Việt Nam (VAMC) để việc xử lý nợ xấu có hiệu quả; đôn đốc, giám sát việc thực hiện cơ cấu lại
các tổ chức tín dụng; kiểm soát chặt chẽ tỷ giá và thị trường vàng.
Cơ cấu lại Thị trường chứng khoán (TTCK) đảm bảo sự phát triển đồng bộ, cân đối giữa thị
trường cổ phiếu, trái phiếu, thị trường các công cụ phái sinh, từng bước nâng cao vai trò của TTCK

×