Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Yên Bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.56 KB, 107 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử ra đời của Ngân hàng thương mại gắn liền với lịch sử phát triển nền
sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong nền kinh tế luôn tồn tại hai nhóm người,
nhóm thứ nhất bao gồm những cá nhân và tổ chức đang có tiền nhưng tạm thời chưa
có nhu cầu sử dụng, nhóm thứ hai cá nhân và tổ chức đang có nhu cầu về vốn để
phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng không có vốn; Khi chưa có Ngân
hàng thì việc gặp gỡ của hai nhóm người trên là hết sức khó khăn. Trước nhu cầu
của nền kinh tế, Ngân hàng thương mại ra đời đã giải quyết được bài toán về vốn
cho nền kinh tế. Theo đó, Ngân hàng nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức có vốn
tạm thời nhàn dỗi để đầu tư cho vay những cá nhân, tổ chức đang có nhu cầu về vốn
để phục vụ sản xuất kinh doanh, tiêu dùng, đời sống…. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, các Ngân hàng thương mại ngày càng xâm nhập sâu sắc hơn
vào mọi hoạt động của nền kinh tế, trở thành một trung gian tài chính quan trọng
bậc nhất và là huyết mạch của nền kinh tế.
Trong hoạt động Ngân hàng lĩnh vực tín dụng là một mảng hoạt động quan
trọng bậc nhất, đem lại nguồn thu chủ yếu cho các Ngân hàng thương mại ở Việt
Nam. Hoạt động tín dụng có nhiều hình thức cho vay như là: cho vay ngắn hạn, cho
vay trung hạn và cho vay dài hạn. Trong phương thức cho vay trung và dài hạn thì
cho vay theo dự án đầu tư là một hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng thương
mại ở Việt Nam.
Thời gian qua, hình thức cho vay theo dự án đầu tư đã phát triển rất nhanh
nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho Ngân hàng. Để nâng cao hiệu quả và đảm bảo
an toàn cho hoạt động Ngân hàng, một nhiệm vụ đặt ra cấp thiết đối với các Ngân
hàng thương mại là phải làm tốt công tác thẩm định dự án nói chung và phân tích tài
chính dự án nói riêng. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng phân tích tài chính dự án
đầu tư luôn được các Ngân hàng coi trọng và từng bước hoàn thiện.
1
Tuy nhiên, thực tế công tác phân tích tài chính dự án đầu tư tại các Ngân hàng
thương mại nói chung và Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi
nhánh Yên Bái nói riêng thời gian qua cũng có một số điểm hạn chế, tiềm ẩn nhiều


rủi ro, chưa phát huy được hết vai trò quan trọng của nó trong hoạt động đầu tư cho
vay theo dự án đầu tư.
Xuất phát từ thực tế đó tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam –
Chi nhánh Yên Bái, đặc biệt là vai trò của công tác phân tích tài chính dự án đầu tư
và thực tế những bức xúc của chính tác giả và các đồng nghiệp trong nhiều năm gắn
bó với công tác tín dụng.
Qua nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn công tác trong lĩnh vực tín dụng của bản
thân, tôi quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính dự án
đầu tư tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Yên
Bái” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình. Đề tài nghiên cứu tập trung
đánh giá thực trạng công tác phân tích tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín
dụng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Yên Bái
trong những năm gần đây, tìm ra một số hạn chế trong công tác thẩm định, phân
tích tài chính dự án đầu tư. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm
hoàn thiện công tác hoạt động phân tích tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Yên Bái nói riêng và các Ngân hàng
thương mại nói chung, nhằm từng bước góp phần nâng cao chất lượng tín dụng
trong hoạt động đầu tư cho vay.
2. Mục đích nghiên cứu
+ Khái quát cơ sở lý luận khoa học về thẩm định, phân tích tài chính dự án đầu
tư trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại;
+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động phân tích tài chính dự án đầu tư
trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam –
Chi nhánh Yên Bái.
+ Đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài
chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam – Chi nhánh Yên Bái.
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Công tác thẩm định, phân tích tài chính dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng

của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Yên Bái.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận cơ bản dựa trên nền tảng của phương pháp duy vật biện
chứng kết hợp với phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp.
5. Kết cấu luận văn
Đề tài “Hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính dự án đầu tư tại Ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Yên Bái” có bố cục
ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về phân tích tài chính dự án đầu tư của
Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng phân tích tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Yên Bái
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính dự án đầu tư
của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Yên Bái
3
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DỰ
ÁN ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức kinh doanh có vai trò vô cùng
quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, với sự hiện hữu của Ngân hàng làm
cầu nối lưu chuyển vốn từ những chủ thể có tiền tạm thời nhàn dỗi đến các chủ thể
cần tiền để phục vụ hoạt động đầu tư phát triển sản xuất hay tiêu dùng đời sống.
Chúng ta có thể nhận được các khoản vay vốn để phục vụ đầu tư, phát triển sản xuất
kinh doanh, để mua nhà, mua ô tô mới hay trang trải chi phí học tập… bên cạnh đó,
Ngân hàng cũng là một địa chỉ tin cậy nếu như chúng ta mong muốn nhận được
những lời khuyên về việc đầu tư các khoản tiết kiệm hay việc lưu giữ và bảo quản
các giấy tờ có giá…
Đối với toàn bộ nền kinh tế, Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian

tài chính quan trọng bậc nhất. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu
hộ gia đình, hầu hết các doanh nghiệp và kể cả các cơ quan, tổ chức chính trị xã hội;
Mặt khác các NHTM còn là một kênh quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền
tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đối với toàn bộ nền kinh tế.
Có thể nói, NHTM là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, là trung
gian tài chính đóng vai trò cầu nối, dẫn vốn từ những người có tiền nhàn dỗi, tạm
thời chưa sử dụng đến tới những người thiếu vốn đang có nhu cầu về vốn để đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. NHTM là trung gian tài chính cung
cấp vốn cho nền kinh tế một cách nhịp nhàng, kịp thời và có hiệu quả.
Theo quy định hiện hành của Việt Nam: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín
dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác có liên quan. Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
Ngân hàng với nội dung thường xuyên chủ yếu là nhận tiền gửi dưới các hình thức,
4
hay nói cách khác là Ngân hàng thực hiện huy động vốn trong nền kinh tế để tạo ra
nguồn vốn của Ngân hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động được trong nền kinh tế các
Ngân hàng sẽ sử dụng số tiền này để cấp tín dụng quay lại nền kinh tế để đáp ứng vốn
cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh
hoặc tiêu dùng đời sống và Ngân hàng còn cung ứng các sản phẩm dịch vụ đối với nền
kinh tế.
NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với rất nhiều hoạt động đa dạng
trong đó có ba hoạt động chính đó là: hoạt động nguồn vốn, hoạt động sử dụng vốn
và hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính.
• Hoạt động nguồn vốn
Vốn chủ sở hữu: Nguồn vốn chủ sở hữu tuy không chiếm tỷ lệ lớn, nhưng có ý
nghĩa rất quan trọng và quyết định năng lực tài chính, quy mô hoạt động của
NHTM. Nó là nguồn vốn riêng có của NHTM khi được tạo lập và bổ sung trong
quá trình kinh doanh, bao gồm: vốn điều lệ và các quỹ Ngân hàng.
Vốn huy động: là tài sản bằng tiền của khách hàng mà NHTM đang tạm thời
quản lý và sử dụng. Đây là nguồn vốn chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong

tổng nguồn vốn của các NHTM. Vốn huy động bao gồm: tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá, kỳ phiếu, trái phiếu.
Nguồn vốn đi vay: Trong trường hợp vốn tự có và vốn huy động không đáp ứng
đủ nhu cầu kinh doanh, NHTM có thể vay vốn: Vay của NHNN dưới hình thức
chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá, cầm cố, tái cầm cố các thương phiếu,
vay theo hợp đồng tín dụng. Vay của các NHTM khác qua thị trường liên Ngân
hàng. Vay của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế.
• Hoạt động sử dụng vốn
Dự trữ: Trước tiên các NHTM phải dành một phần nguồn vốn dự trữ dưới các
hình thức: Dự trữ bắt buộc theo quy định của NHNN, dự trữ tiền mặt tại quỹ để
phục vụ thanh toán hàng ngày, tiền gửi tại các TCTD khác để phục vụ thanh toán;
dự trữ các giấy tờ có giá có thể chuyển thành tiền dễ dàng, đề phòng khi nhu cầu
thanh toán tăng lên đột ngột. Những khoản dự trữ của NHTM thường không mang
5
lại lợi tức hoặc mang lại lợi tức thấp nên các NHTM phải tính toán sao cho tài sản
dự trữ không quá lớn làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh cũng như không quá
nhỏ dẫn đến khó khăn về thanh khoản.
Tín dụng: Là nghiệp vụ cơ bản hàng đầu của NHTM trong đó NHTM thoả
thuận với khách hàng (qua hợp đồng tín dụng) để khách hàng sử dụng một khoản
tiền nhất định, có lãi suất và phải hoàn trả. Nghiệp vụ tín dụng mang lại lợi tức
nhiều nhất cho Ngân hàng nhưng cũng đồng thời tiềm ẩn các rủi ro rất lớn cho
NHTM nên các NHTM cần có nhiều sản phẩm tín dụng khác nhau để cung ứng cho
khách hàng và phải sử dụng kết hợp nhiều biện pháp để ngăn ngừa rủi ro.
Đầu tư: Là nghiệp vụ giúp NHTM phân tán rủi ro đồng thời tạo ra thu nhập:
Đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính. Đầu tư trực tiếp là hình thức Ngân hàng bỏ vốn
đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp hay tổ chức khác và trực tiếp tham gia quản
lý để tạo ra lợi nhuận. Đầu tư tài chính được thực hiện bằng cách: Đầu tư vào trái
phiếu chính phủ và trái phiếu kho bạc, với hệ số rủi ro bằng không. Đầu tư vào trái
phiếu, cổ phiếu công ty có lãi suất cao hơn song tỷ lệ rủi ro cao.
• Hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính

Các dịch vụ thanh toán thu, chi hộ cho khách hàng (chuyển tiền, thu hộ séc, dịch
vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh toán). Nhận bảo quản các tài sản quý giá, các
giấy tờ, chứng thư quan trọng. Ngoài ra, còn có các sản phẩm dịch vụ khác: tư vấn
tài chính, quản lý tiền mặt, dịch vụ cho thuê tài chính, tài trợ dự án đầu tư, phát
hành bảo lãnh, tài trợ thương mại, cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro (mua
bán ngoại tệ có kỳ hạn, quyền chọn, giao sau ), dịch vụ Ngân hàng điện tử (e-
banking), Ngân hàng tự động…
1.1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Cho vay là việc Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng vay với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Phân tích khách
hàng trong quan hệ cho vay này chính là phân tích cho vay. Bởi vì, cho vay là hoạt
động sinh lời lớn nhất song nó cũng chứa đựng, tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong hoạt
động NHTM, nên để có một món cho vay đạt chất lượng thì các NHTM thường đưa
6
ra một qui trình phân tích khách hàng chặt chẽ. Rủi ro từ cho vay có rất nhiều
nguyên nhân đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của Ngân hàng. Có
nhiều khoản cho vay mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy Ngân
hàng đến phá sản. Do vậy các Ngân hàng thường cân nhắc kĩ lưỡng, ước lượng khả
năng rủi ro và sinh lời khi quyết định cho vay.
Có nhiều cách phân loại cho vay, trong đề tài nghiên cứu tác giả xin đưa ra
cách phân loại cho vay theo đối tượng khách hàng. Theo cách phân loại này thì cho
vay bao gồm cho vay khách hàng doanh nghiệp, cho vay tổ chức tài chính và cho
vay khách hàng cá nhân.
Khách hàng doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
công ty hợp danh. Hình thức cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp rất đa dạng
như cho vay ngắn hạn theo món, vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án
đầu tư, cho vay hợp vốn,…
Khách hàng tổ chức tài chính bao gồm: các Ngân hàng khác, hợp tác xã tín
dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính,… Thường cho vay NHTM nhằm

đáp ứng các nhu cầu ngắn hạn của các Ngân hàng này và các giao dịch thường diễn
ra trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng.
Khách hàng cá nhân: là cá nhân có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo qui định của pháp luật. Đối tượng vay vốn
là những khách hàng có nhu cầu vốn để mua nhà, sửa chữa nhà, xây dựng nhà, mua
ô tô, mua các thiết bị gia dụng, thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh và đáp
ứng một số yêu cầu khác. Các phương thức vay vốn đa dạng như: cho vay từng lần,
cho vay trả góp, cho vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm, cho vay theo hạn mức, cho vay
thấu chi tài khoản tiền gửi, cho vay nghiệp vụ phát hành thẻ visa…
1.2. Phân tích tài chính DAĐT trong hoạt động cho vay của NHTM
1.2.1. Dự án đầu tư
Trong những năm gần đây, mặc dù thuật ngữ “Dự án đầu tư” thường được
nhắc đến và sử dụng nhiều nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa hoàn
7
chỉnh. Tuỳ theo từng giác độ xem xét, nghiên cứu mà người ta đưa ra các khái niệm
về dự án đầu tư khác nhau.
Có quan niệm cho rằng: Dự án đầu tư là một tập hợp hồ sơ, tài liệu trình bày
một cách chi tiết và hệ thống các hoạt động sẽ được thực hiện với các nguồn lực và
chi phí theo một kế hoạch chặt chẽ nhằm đạt được những hiệu quả cụ thể để thực
hiện những mục tiêu kinh tế – xã hội nhất định.
Theo quy định của Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý đầu tư và xây
dựng “Dự án đầu tư” là tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo
mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng
trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc
dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Đầu tư, theo nghĩa rộng, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại, để tiến hành
các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó
có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở

hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực xã hội sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả nhưng muốn tối đa hoá hiệu quả đầu tư thì
trước khi quyết định đầu tư nhất thiết phải có sự chuẩn bị thật cẩn thận, kỹ lưỡng và
nghiêm túc thể hiện qua việc lập dự án đầu tư trên cơ sở mọi thông tin liên quan đến
hoạt động đầu tư đã được thu thập đầy đủ và phân tích tỉ mỉ, khoa học, khách quan.
Thông thường dự án đầu tư bao gồm 3 giai đoạn:
• Giai đoạn 1: Chuẩn bị đầu tư
Giai đoạn này bao gồm các hoạt động chính như: nghiên cứu phát hiện các cơ
hội đầu tư; nghiên cứu tiền khả thi (sơ bộ lựa chọn dự án); nghiên cứu khả thi (lập
dự án, luận chứng kinh tế kỹ thuật) và hoạt động cuối cùng là thẩm định, đánh giá
dự án và quyết định đầu tư.
8
• Giai đoạn 2: Thực hiện đầu tư
Đây là giai đoạn cụ thể hoá nguồn hình thành vốn đầu tư và triển khai thực
hiện dự án gồm đàm phán ký kết hợp đồng, thiết kế và xây dựng công trình, lắp đặt
máy móc thiết bị và vận hành thử.
• Giai đoạn 3: Vận hành kết quả đầu tư (dự án đi vào hoạt động)
Trong 3 giai đoạn trên đây, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định
sự thành công hay thất bại ở hai giai đoạn sau, đặc biệt khi dự án đầu tư đi vào hoạt
động. Do đó, đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư vấn đề chất lượng, tính chính xác
của các kết quả nghiên cứu, tính toán và dự đoán là quan trọng nhất và vì thế công
tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng có vị trí rất quan trọng để
có được quyết định đầu tư đúng đắn.
1.2.2. Sự cần thiết phải phân tích tài chính DAĐT trong hoạt động cho vay của
NHTM
1.2.2.1. ý nghĩa của phân tích tài chính DAĐT
Như đã đề cập ở trên, việc phân tích dự án đầu tư là khâu cuối cùng trong giai
đoạn chuẩn bị đầu tư nhưng lại là khâu then chốt có tính chất quyết định việc Ngân
hàng có đồng ý cấp tín dụng hay từ chối cấp tín dụng, do đó quyết định sự thành

công hay thất bại của dự án đầu tư. Phân tích tài chính dự án đầu tư là một nội dung
kinh tế quan trọng trong thẩm định dự án đầu tư, nó nhằm đánh giá tính khả thi về
mặt tài chính của dự án và là cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội mà dự án
đầu tư đem lại khi thực hiện đầu tư dự án. Xuất phát từ quan điểm và mục tiêu khác
nhau, các chủ thể khác nhau sẽ có cách tiếp cận thẩm định dự án không giống nhau,
do vậy kết quả thẩm định cũng có ý nghĩa khác nhau đối với mỗi chủ thể.
1.2.2.2. Sự cần thiết phân tích tài chính DAĐT trong hoạt động cho vay của NHTM
Như trên đã đề cập, cho vay theo dự án đầu tư là loại hình cho vay phổ biến,
đem lại nguồn thu nhập ổn định cho NHTM. Với đặc điểm thời gian cho vay
thường là dài, chịu sự tác động của yếu tố khách quan, cũng như chủ quan đến hiệu
quả của dự án đầu tư, do vậy là khoản mục đầu tư tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong
danh mục đầu tư của các Ngân hàng thương mại. Do đó, Ngân hàng luôn phải giám
9
sát chặt chẽ hoạt động này để đảm bảo hoạt động hiệu quả nhưng an toàn. Để hạn
chế rủi ro trong cho vay dự án đầu tư đòi hỏi Ngân hàng phải làm tốt khâu thẩm
định dự án đầu tư, trong đó đặc biệt là phân tích tài chính dự án đầu tư, giúp Ngân
hàng phần nào dự báo được hiệu quả tài chính và tính khả thi của từng dự án để có
thể chọn lọc được các cơ hội đầu tư tốt, có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn và do
đó hạn chế được rủi ro phát sinh.
Ngược lại, nếu khâu thẩm định không kỹ, không triệt để, có thể dẫn đến quyết
định cho vay sai lầm, là một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng rủi ro tín
dụng trong Ngân hàng, khi đó dự án có thể sẽ không hiệu quả như dự kiến khiến
cho chủ đầu tư không có khả năng trả nợ Ngân hàng khi các kỳ hạn trả nợ đến hạn;
Điều đó làm cho nợ xấu của Ngân hàng gia tăng làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả kinh doanh của Ngân hàng như là: Chi phí dự phòng rủi ro phải trích có xu
hướng tăng lên, lợi nhuận của Ngân hàng giảm, đặc biệt ảnh hưởng đến uy tín của
Ngân hàng. Mặt khác, đối với chủ đầu tư dự án không hiệu quả sẽ phải gánh chịu
hậu quả rất nặng lề, cụ thể như là kinh doanh thua lỗ, tài chính kiệt quệ và có nguy
cơ dẫn đến phá sản doanh nghiệp. Khi đó xét trên phương diện toàn xã hội cũng bị
ảnh hưởng xấu như là thất nghiệp, mất ổn định và kinh tế chậm phát triển…. Do

vậy, thẩm định dự án là một hoạt động vô cùng cần thiết và có ý nghĩa rất quan
trọng trong hoạt động cho vay của Ngân hàng.
Với tư cách là nhà tài trợ vốn cho dự án, NHTM đặc biệt quan tâm đến
phương diện phân tích hoạt động tài chính dự án đầu tư của khách hàng có nhu cầu
vay vốn. Việc phân tích hoạt động tài chính dự án đầu tư sẽ giúp Ngân hàng biết
được dự án đầu tư có hiệu quả về mặt tài chính? Mức độ hiệu quả như thế nào? Khi
đó Ngân hàng sẽ nắm được các chỉ số cơ bản về tài chính của dự án như: Chỉ số
NPV - Giá trị hiện tại ròng của dự án, IRR - tỷ suất nội hoàn của dự án, thời gian
hoàn vốn của dự án….Trên cơ sở đó Ngân hàng sẽ xem xét quyết định đầu tư khi
dự án hiệu quả về tài chính. Vì thế, phân tích tài chính dự án đầu tư là một khâu hết
sức quan trọng luôn được các Ngân hàng chú trọng về cả nội dung và hình thức
thẩm định.
10
1.2.3. Quy trình và nội dung phân tích tài chính DAĐT
1.2.3.1.Quy trình phân tích tài chính DAĐT
Quy trình phân tích tài chính dự án đầu tư tại các NHTM có thể không hoàn
toàn giống nhau nhưng nhìn chung quy trình này thường diễn ra theo các bước như sau:
Sơ đồ 1.1: Quy trình phân tích tài chính dự án đầu tư của NHTM
1.2.3.2. Nội dung phân tích tài chính DAĐT
Trên cơ sở quy trình phân tích như vậy, Ngân hàng tiến hành phân tích tài
chính DAĐT với các nội dung chính như sau:
a. Xác định tổng vốn đầu tư và nguồn vốn tài trợ
Vốn đầu tư (dự trù) của dự án trước khi trình xin vay vốn Ngân hàng thường
đã được xét duyệt qua nhiều cấp như Hội đồng quản trị (đối với công ty cổ phần),
Hội đồng thành viên (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn) hoặc qua các bộ, ban
ngành có liên quan (đối với doanh nghiệp nhà nước). Tuy nhiên, việc xác định đúng
đắn mức vốn đầu tư của dự án là rất cần thiết và quan trọng đối với Ngân hàng để
tránh 2 khuynh hướng:
11
Xem xét lại dự báo

về cầu
Xem xét lại kế hoạch
sản xuất kinh doanh
Đánh giá, quyết định
Phân tích các nguồn tài trợ cho dự án
Xem xét lại và phân tích kế hoạch tài chính của dự án
Dự báo, phân tích dòng tiền chi phí, dòng tiền thu nhập của dự án
Tính toán, phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án
Một là, Tổng vốn đầu tư dự trù quá thấp sẽ làm tăng hiệu quả giả tạo của dự
án nhưng không khả thi do gặp phải khó khăn thiếu vốn khi tiến hành đầu tư xây
dựng, mua sắm máy móc thiết bị …để đưa dự án vào hoạt động và do đó gây lãng
phí nguồn lực tài chính của chủ đầu tư.
Hai là, Tổng vốn đầu tư của dự án được chủ đầu tư dự trù quá cao làm ảnh
hưởng đến tỷ trọng tham gia vốn của Ngân hàng, có những dự án vô hình chung
Ngân hàng tham gia 100% vốn đầu tư vào dự án, dẫn đến trái quy định về cho vay
và tiềm ẩn khá nhiều rủi ro trong quá trình đầu tư tín dụng. Mặt khác, khi tổng đầu
tư đẩy lên cao làm giảm hiệu quả tài chính tính toán của dự án.
Tổng vốn đầu tư của dự án thường bao gồm: Vốn đầu tư vào tài sản cố định và
tài sản lưu động, vốn đầu tư phải đầy đủ các hạng mục chủ yếu như chi phí chuẩn bị
đầu tư, chi phí xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị, lãi vay trong thời gian thi công,
chi phí bảo hiểm thi công, dự phòng…
Sau khi xem xét tổng mức đầu tư của dự án, Ngân hàng cũng xem xét các
nguồn tài trợ cho dự án như vốn tự có, vốn hỗ trợ của nhà nước, vốn vay hoặc huy
động từ các nguồn khác.
Về cơ cấu vốn tham gia vào dự án đầu tư theo quy định của Ngân hàng thì chủ
đầu tư phải có tối thiểu 25% vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư. Trong bối cảnh
thị trường tài chính tiền tệ bất ổn như hiện nay, lãi suất cho vay đã đẩy lên ở mức
tương đối cao, do đó việc các doanh nghiệp dùng đòn bẩy tài chính nhiều là điều vô
cùng bất lợi vì khoản chi phí tài chính quá lớn sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
nhuận thu được của doanh nghiệp. Do vậy, trong giai đoạn hiện nay tỷ lệ vốn tự có

tham gia vào dự án đầu tư càng cao thì dự án càng thuận lợi và khả năng sinh lời
của dự án là cao.
Ngoài ra, để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu tư của dự án, vừa để tránh ứ đọng
vốn, các nguồn tài trợ cần được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà cả về thời
điểm có thể nhận được nguồn tài trợ và tính khả thi của nguồn tài trợ đó. Tính chắc
chắn của mỗi nguồn vốn phải có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế, chẳng hạn với
nguồn vốn tự có, Ngân hàng phải phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, tình
12
hình sản xuất kinh doanh để đảm bảo cân đối đủ nguồn vốn tự có cho dự án từ
nguồn tích luỹ hoạt động của doanh nghiệp, đối với nguồn vốn được nhà nước hỗ
trợ thì Ngân hàng thường xem xét các cam kết bảo đảm của các cấp có thẩm quyền,
nếu doanh nghiệp dự định sử dụng các nguồn vốn vay khác thì cần kiểm tra độ tin
cậy về khả năng cho vay, số lượng, điều kiện và thời hạn cho vay trên cơ sở cam kết
bằng văn bản.
Sau khi cân đối các nguồn vốn khả thi với nhu cầu vốn, Ngân hàng sẽ xác định
được số vốn Ngân hàng cần tài trợ và kế hoạch đầu tư của mình vào dự án.
b. Phân tích tính hợp lý của các bảng dự trù tài chính.
Trong nội dung này, Ngân hàng sẽ xem xét tính chính xác, hợp lý, hợp lệ của
các bảng dự trù tài chính được trình bày trong luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự
án. Nếu các giả định đưa ra chưa hợp lý hoặc độ chính xác của các số liệu đưa ra
trong các bảng dự trù tài chính thấp thì Ngân hàng sẽ dự báo, xây dựng lại các bảng
dự trù tài chính cho phù hợp trên cơ sở định mức kinh tế, kỹ thuật của ngành do nhà
nước hoặc các cơ quan chuyên môn công bố và dựa trên các kết quả thẩm định của
Ngân hàng về kỹ thuật, thị trường, tổ chức, kinh tế xã hội.
Các bảng dự trù tài chính thường được phân tích bao gồm:
- Bảng dự trù lãi, lỗ (doanh thu, chi phí)
- Bảng dự trù tổng kết tài sản (cân đối kế toán)
- Bảng dự trù lưu chuyển tiền tệ (cân đối thu chi)
Đây là cơ sở quan trọng để Ngân hàng thực hiện việc tính toán và phân tích
các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Nếu số liệu đưa ra trong các bảng dự trù

tài chính càng chính xác, hợp lý và gần sát với thực tế thì kết quả thẩm định càng
đáng tin cậy. Do vậy, các bảng dự trù tài chính thường được các Ngân hàng xây
dựng rất kỹ lưỡng.
c. Phân tích tài chính của DAĐT
Có nhiều phương pháp phân tích tài chính nhưng phương pháp thông dụng
nhất ở Việt Nam là phương pháp dòng tiền chiết khấu (discounted cash flow
method). Phương pháp này dựa trên các bước: Tính toán (dự báo) dòng tiền, lựa
13
chọn tỷ lệ chiết khấu, tính toán, phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính và phân
tích rủi ro để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.
* Bước 1: Dự báo dòng tiền cho các năm hoạt động của dự án
Với quan điểm của nhà đầu tư, người ta có thể chỉ quan tâm đến dòng tiền liên
quan đến chủ đầu tư tức là dòng vốn chủ sở hữu chi ra để đầu tư ban đầu (vốn tự có)
và dòng thu nhập do đầu tư còn lại sau khi đã cân đối tất cả các khoản chi phí gồm
cả chi phí trả nợ gốc, lãi vay và thuế.
Tuy nhiên, với quan điểm xem xét tính hiệu quả của tổng thể dự án (tổng đầu
tư) thì dòng tiền dự án phải là dòng tiền đầu tư chi ra ban đầu (tổng vốn đầu tư bao
gồm tất cả các nguồn vốn) và dòng thu nhập còn lại sau thuế nhưng trước khi trả nợ
gốc và lãi vay khi dự án đi vào hoạt động.
Một số điểm cần lưu ý trong quá trình tính toán dòng tiền là: Phân biệt dòng
tiền mặt và dòng các nguồn tài chính, tính toán khấu hao, thanh lý tài sản và xử lý
vốn lưu động ròng của dự án.
Trước hết, cần phân biệt dòng tiền mặt (cash flows) của dự án và dòng các
nguồn tài chính (financial sources). Khi phân tích dự án theo nguồn tài chính
(nguồn vốn chủ sở hữu), ta xem xét tất cả các nguồn tài chính liên quan đến công
nợ của chủ đầu tư như dòng thu khi góp vốn, vay nợ và dòng chi khi chia cổ tức, trả
nợ gốc và lãi, dòng các nguồn tài chính cho biết khả năng cân đối các nguồn tài
chính của dự án. Tuy nhiên, khi phân tích dòng tiền để đánh giá hiệu quả tài chính
của dự án, ta chỉ nên căn cứ vào dòng tiền mặt của dự án thực sự sẵn sàng cho việc
sử dụng (chia lãi, trả nợ hoặc tái đầu tư) không kể dòng tiền mặt đó từ nguồn tài

chính nào.
Khấu hao là một khoản chi phí cho các tài sản đã tạo ra trước đây, trong báo
cáo thu nhập của kế toán, khấu hao được khấu trừ vào chi phí để xác định lợi nhuận
chịu thuế nhưng để tính thu nhập ròng của dự án, khấu hao không phải là chi phí
bằng tiền nên không bị trừ khi tính toán dòng tiền mà được coi là một nguồn thu của
dự án. Khấu hao là một chỉ tiêu tài chính rất nhạy cảm có ảnh hưởng lớn đến tình
trạng tài chính của dự án, nếu dự án được tài trợ bằng vốn vay thì khấu hao là một
14
nguồn chủ yếu để trả nợ. Do đó, việc xác định phương pháp khấu hao hợp lý (nhanh
hay chậm, tăng dần, giảm dần hay đều) có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm
bảo hoạt động và khả năng trả nợ của dự án.
Khi kết thúc thời gian khấu hao, các tài sản vẫn có thể còn giá trị, khi đó ta cần
bổ sung giá trị thanh lý tài sản vào dòng thu của dự án. Đồng thời, nếu có sự thay
thế, bổ sung một phần giá trị tài sản (chẳng hạn máy móc thiết bị) thì phần đầu tư
thêm phải được tính vào dòng chi của dự án và dòng thu khi đó cũng sẽ tăng thêm
giá trị khấu hao của phần tài sản đầu tư bổ sung.
Về việc xử lý vốn lưu động ròng: Để dự án hoạt động, thời gian đầu cần phải
có một số vốn nhất định đầu tư vào các tài sản lưu động (tiền mặt, nguyên vật liệu,
tồn kho…), số vốn này cần được đưa vào để tính toán chi phí đầu tư và khi dự án
kết thúc, số vốn này phải được xem như là một khoản thu của dự án.
* Bước 2: Lựa chọn tỷ lệ chiết khấu thích hợp
Tỷ lệ chiết khấu là thuật ngữ mô tả giá trị thời gian của tiền, nó phản ánh chi
phí cơ hội của vốn đầu tư. Tỷ lệ chiết khấu còn có thể được hiểu là phần lợi nhuận
thích hợp để bù đắp rủi ro, việc xác định đúng tỷ lệ chiết khấu có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc phân tích tài chính dự án nhưng đây là vấn đề không đơn giản mà
là cả một nghệ thuật. Thông thường, tỷ lệ chiết khấu được xác định như sau:
+ Đối với chủ đầu tư: Tỷ lệ chiết khấu có thể chọn là tỷ suất sinh lời kỳ vọng
của chủ đầu tư về dự án hoặc chi phí sử dụng vốn bình quân WACC (tính trên cơ sở
bình quân gia quyền có trọng số theo cơ cấu vốn)
+ Đối với Ngân hàng: Có thể chọn tỷ lệ chiết khấu bằng lãi suất trái phiếu kho

bạc (được coi như độ rủi ro = 0) cộng với một tỷ lệ phần bù rủi ro tương ứng (theo
ngành nghề, lĩnh vực hoạt động hoặc tính chất của dự án) hoặc WACC hoặc lãi suất
cho vay cộng thêm một tỷ lệ dự phòng rủi ro nhất định.
* Bước 3: Tính toán và phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án
Các chỉ tiêu này có thể chia thành 3 nhóm:
- Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của dự án như NPV, IRR, B/C, PI…
- Các chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ của dự án như: Thời gian hoàn vốn đầu
15
tư, thời gian hoàn vốn vay, hệ số khả năng trả nợ…
- Các chỉ tiêu đánh giá độ rủi ro của dự án như: Điểm hoà vốn, độ nhạy…
* Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV- Net present value)
Chỉ tiêu này phản ánh thu nhập ròng của dự án được tính chuyển về mặt bằng
hiện tại gọi là giá trị hiện tại ròng hay hiện giá thu nhập ròng (Net present value -
ký hiệu là NPV) và được xác định theo công thức:
∑ ∑
= +
+

+
=
n
i
n
r
i
i
i
i
r
C

r
B
NPV
1 1
)1()1(
Trong công thức trên:
- Chỉ tiêu r: là tỷ suất chiết khấu
- Chỉ tiêu n: là số năm tính toán (gồm cả thời gian thi công)
- Chỉ tiêu B
i
: là khoản thu năm i (doanh thu, giá trị thanh lý TSCĐ và vốn lưu
động ròng thu hồi là các khoản thu của dự án).
- Chỉ tiêu C
i
: Là tổng các khoản chi phí của năm i. Chi phí đầu tư ban đầu, chi
phí hàng năm của dự án gồm cả chi phí tạo ra TSCĐ ở các thời điểm trung gian
(nhưng không bao gồm chi phí khấu hao) được tính vào C
i
.
Trong thực tế NPV còn có thể được tính theo công thức:

=
+
+−=
n
i
i
i
r
T

CNPV
1
0
)1(
Trong đó:
- Chỉ tiêu r: là tỷ suất chiết khấu
- Chỉ tiêu n: là số năm tính toán (không tính thời gian thi công)
- Chỉ tiêu C
0
là vốn đầu tư ban đầu (nếu vốn đầu tư được thực hiện trong nhiều
năm thì giá trị vốn đầu tư phải được quy về năm gốc để tính toán).
- Chỉ tiêu T
i
là thu nhập ròng ở cuối năm thứ i (thực chất T
i
= B
i
- C
i
)
Kết quả tính toán NPV có thể xảy ra 3 trường hợp như sau:
+ Trường hợp: NPV<0, khi đó ta kết luận dự án không hiệu quả về mặt tài
chính, thu nhập ròng của dự án không đủ bù đắp chi phí và dự án độc lập bị bác bỏ.
+ Trường hợp: NPV= 0, khi đó ta kết luận dự án hòa vốn về mặt tài chính, thu
16
nhập ròng của dự án chỉ đủ bù đắp chi phí và dự án có thể được chấp nhận.
+ Trường hợp: NPV> 0, khi đó ta kết luận dự án có hiệu quả về mặt tài
chính, thu nhập ròng của dự án đủ bù đắp chi phí đầu tư và có lãi, dự án có thể được
chấp nhận.
Các dự án loại trừ nhau có NPV dương cao nhất sẽ là dự án được chọn.

Trong giới hạn Ngân sách, việc lựa chọn tổ hợp các dự án có thể phải sử
dụng thêm chỉ tiêu cân đối lợi ích - chi phí (B/C).
* Chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR: Internal rate of return), còn được gọi là
suất thu lợi nội tại, tỷ suất nội hoàn hay suất thu hồi nội bộ.
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR là mức lãi suất nếu dùng nó làm tỷ suất chiết
khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì
tổng thu sẽ cân bằng tổng chi, hay nói cách khác là tỷ suất chiết khấu mà tại đó
NPV = 0.
IRR có thể được xác định theo các phương pháp sau:
+ Sử dụng chương trình phần mềm vi tính chẳng hạn như chương trình excel
thuộc phần mềm microsolf office (nếu có).
+ Thử dần các giá trị của tỷ suất chiết khấu trong công thức tính NPV, giá trị
nào của r làm cho NPV = 0 thì chính là IRR cần tìm. Phương pháp này mất nhiều
thời gian và có tính mò mẫm.
+ Xác định IRR qua vẽ đồ thị: Lập hệ trục tọa độ, trên trục hoành biểu thị
các giá trị của tỷ suất chiết khấu r, trên trục tung biểu thị các giá trị NPV tương ứng,
biểu diễn các toạ độ điểm tìm được trên đồ thị ta có một đường cong, đường cong
này cắt trục hoành tại một điểm, tại đó NPV = 0 và điểm đó chính là điểm r = IRR.
phương pháp này yêu cầu phải vẽ rất chính xác hoặc sử dụng các chương trình phần
mềm trên máy tính.
+ IRR được xác định bằng phương pháp nội suy tức là phương pháp xác định
một giá trị cần tìm giữa 2 giá trị đã chọn: r
1
tạo ra NPV
1
>0 và r
2
tạo ra NPV2<0. khi
đó, việc nội suy IRR được thực hiện theo công thức:
17

)(
)(
21
1
121
NPVNPV
NPV
rrrIRR

−+=
Dự án có IRR cao hơn mức lãi suất giới hạn (lãi suất cho vay, tỷ suất chiết
khấu hay tỷ suất lợi nhuận mong đợi) thì sẽ được lựa chọn. Nếu là các dự án loại trừ
nhau thì người ta sẽ chọn dự án căn cứ vào vốn đầu tư của dự án lớn hay nhỏ và có
thể kết hợp thêm chỉ tiêu NPV.
* Chỉ tiêu cân đối lợi ích - chi phí (B/C)
Chỉ tiêu cân đối lợi ích - chi phí (Benefit - Cost Ratio) được xác định bằng tỷ số
giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra tính về thời điểm hiện tại hoặc tương lai.Trong
thực tế, người ta thường quy các giá trị này về thời điểm hiện tại để tiện so sánh.
Công thức xác định B/C:
Trong đó: B
i
: Doanh thu hay lợi ích năm i
C
i
: Chi phí năm i
PV(B) : Giá trị hiện tại của các khoản thu
PV(C) : Giá trị hiện tại của các khoản chi phí
Như vậy về thực chất chỉ tiêu này và chỉ tiêu NPV tương đối tương đồng:
nếu NPV> 0 thì B/C> 1 hay nói cách khác dự án được chấp nhận và ngược lại.
* Chỉ số doanh lợi:

Chỉ số doanh lợi PI (Profit Index) cũng tương tự như chỉ tiêu B/C và được
xác định theo công thức:
Trong đó: B
i
: Doanh thu hay lợi ích năm i
18
0
1
)(
C
CB
PI
n
i
ii

=

=
)(
)(
)1(
1
)1(
1
0
0
CPV
BPV
r

C
r
B
C
B
n
i
i
i
n
i
i
i
=
+
+
=


=
=
C
i
: Chi phí năm i
n : Số năm tính toán không tính thời gian thi công.
Co : Chi phí đầu tư ban đầu
Dự án cũng được chấp nhận nếu chỉ tiêu PI> 0 và chỉ tiêu PI càng cao càng tốt.
* Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư
Thời gian thu hồi vốn đầu tư (thời gian hoàn vốn đầu tư) là thời gian hoạt động
cần thiết của dự án để thu hồi đủ số vốn đầu tư ban đầu. Đó chính là thời gian để

hoàn trả số vốn đầu tư ban đầu bằng thu nhập ròng của dự án.
Thời gian thu hồi vốn giản đơn được xác định như sau:
- Theo phương pháp cộng dồn:

=
⇒≥+
T
i
i
IVDW
1
0
)(
Trong đó: t : Năm thu hồi vốn đầu tư
(W+D)
i
: khoản thu hồi năm i gồm lợi nhuận ròng và khấu hao
IV
o
: tổng vốn đầu tư ban đầu
- Theo phương pháp trừ dần, vốn đầu tư ban đầu được trừ bằng các khoản thu
hồi hàng năm dần cho tới 0.
0)(
⇒≤+−
TT
DWIV
Vì tiền có giá trị về mặt thời gian nên thời gian thu hồi vốn tính theo các
phương pháp trên (thời gian thu hồi vốn giản đơn) chưa phản ảnh chính xác hiệu
quả đầu tư của dự án. Để khắc phục hạn chế này, người ta xác định chỉ tiêu thời
gian thu hồi vốn đầu tư có tính đến giá trị thời gian của tiền.

- Theo phương pháp cộng dồn:

=
⇒≥+
T
i
iPV
IvDW
1
0
)(
- Theo phương pháp trừ dần:
Nếu iv
i
là vốn đầu tư phải thu hồi ở năm i thì ∆
i
= iv
i
- (w+d)
i
là số vốn đầu tư
còn lại chưa thu hồi được của năm i phải chuyển sang năm (i+1) để thu hồi tiếp, ta
19
có iv
i+1
=∆
i
(1+r) hay iv
i
=∆

i-1
(1+r). khi ∆
i
→ 0 thì i → t.
Thời gian thu hồi vốn đầu tư được xác định theo phương pháp cộng dồn hoặc
trừ dần xét về bản chất chỉ là một.
Ngoài hai phương pháp này, thời gian thu hồi vốn đầu tư còn được xác định
theo tình hình hoạt động của từng năm hoặc bình quân của cả đời dự án.
Trong thực tế, thời gian hoàn vốn đầu tư thường được tính như sau:
t = t năm + 12(iv
o
- iv
t
)/(iv
t+1
- iv
t
) tháng
Trong đó: iv
o
: Tổng vốn đầu tư
iv
t
< iv
o
(luỹ kế dòng tiền chiết khấu gần sát TVĐT nhất)
iv
t+1
> iv
o

(luỹ kế dòng tiền chiết khấu bắt đầu vượt TVĐT)
* Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn vay
Với trường hợp dự án có sử dụng nguồn vốn vay, người ta thường tính thêm
chỉ tiêu thời gian hoàn vốn vay tương ứng với số vốn vay để đầu tư dự án. Nếu dự
án vay vốn để đầu tư phải trả ngay bằng toàn bộ lợi nhuận thuần và khấu hao hàng
năm kể từ khi dự án đi vào hoạt động, tiền lãi vay phải trả hàng năm được khấu trừ
khi tính lợi nhuận thuần thì thời gian thu hồi vay trong trường hợp này tính tương tự
như thời gian thu hồi vốn đầu tư giản đơn.
Đối với chủ đầu tư, dự án có thời gian hoàn vốn đầu tư dài hơn đời dự án
(thời gian hoạt động của dự án) sẽ không được lựa chọn. Với các dự án đầu tư khác,
chủ đầu tư sẽ lựa chọn dự án có thời gian hoàn vốn đầu tư ngắn nhất hoặc phù hợp
nhất với các kế hoạch đầu tư, kinh doanh của mình.
Ngân hàng thương mại với tư cách là nhà tài trợ cho dự án quan tâm nhiều
hơn tới thời gian hoàn vốn vay. Nhưng điều này cũng không có nghĩa là Ngân hàng
không quan tâm tới thời gian hoàn vốn đầu tư vì chỉ khi dự án khả thi, có hiệu quả,
có lợi nhuận cho chủ đầu tư thì việc đầu tư của chủ đầu tư mới có ý nghĩa và khi đó
Ngân hàng mới cho vay và có khả năng thu hồi được vốn. Do vậy, trong số những
dự án có thời gian hoàn vốn đầu tư hợp lý, Ngân hàng lựa chọn dự án có thời gian
hoàn vốn vay ngắn nhất nhưng tối đa bằng thời gian vay vốn dự kiến. Để dễ so
20
sánh, Ngân hàng có thể lập thêm bảng cân đối lịch trả nợ (lịch trả nợ có thể giả định
đều hoặc không đều tuỳ thuộc vào thoả thuận của Ngân hàng và chủ đầu tư) để xác
định khả năng trả nợ vốn vay trong thời gian vay dự kiến.
* Chỉ tiêu hệ số khả năng trả nợ
Tổng nguồn trả nợ
KNTN =
_________________________________________
Tổng nợ phải trả (gốc và lãi, phí)
Nếu hệ số khả năng trả nợ ≥1 thì dự án có khả năng hoàn trả vốn vay.
* Điểm hoà vốn:

Khả năng sinh lời và độ an toàn của dự án thường được thể hiện qua chỉ tiêu
điểm hòa vốn. Điểm hoà vốn là điểm tại đó doanh thu vừa đủ trang trải các khoản
chi phí bỏ ra tức là tổng doanh thu = tổng chi phí, dự án không có lãi nhưng cũng
không bị lỗ. Có 2 phương pháp xác định điểm hoà vốn:
+ Phương pháp đại số:
X= F/(P-V)
Trong đó: X: Là sản lượng hoà vốn
P: Là giá bán 1 sản phẩm
V: Là biến phí tính cho 1 đơn vị sản phẩm
F: Là tổng định phí
+ Phương pháp đồ thị: Xác định giao điểm của đường biểu diễn doanh thu và
đường biểu diễn chi phí.
Người ta có thể tính 3 loại điểm hoà vốn sau:
+ Điểm hoà vốn lý thuyết (hoà vốn lãi lỗ): Tính giống như công thức nêu
trên chỉ khác ở chỗ tổng định phí chỉ được tính cho một năm của đời dự án.
+ Điểm hoà vốn tiền tệ (hoà vốn hiện giá dòng tiền) là điểm mà tại đó dự án
bắt đầu có tiền để trả nợ vay (kể cả dùng khấu hao) cách tính giống như điểm hoà
vốn lý thuyết nhưng định phí trừ khấu hao.
+ Điểm hoà vốn trả nợ là điểm mà tại đó dự án có đủ tiền để trả nợ vốn vay
và đóng thuế thu nhập. Cách tính giống như điểm hoà vốn tiền tệ nhưng định phí trừ
khấu hao cộng nợ gốc và thuế thu nhập phải trả trong năm.
21
Điểm hoà vốn có thể được tính cho cả đời dự án hoặc tính cho từng năm.
Chỉ tiêu này cho biết mức sản lượng hoặc doanh thu thấp nhất để đảm bảo bù
đắp được chi phí bỏ ra (Sản lượng hoà vốn hoặc doanh thu hoà vốn). Nếu sản lượng
hoặc doanh thu thực tế của cả đời dự án lớn hơn sản lượng hoặc doanh thu hoà vốn
thì dự án có lãi và ngược lại. Do đó, điểm hoà vốn càng nhỏ thì độ an toàn của dự
án càng cao, thời gian thu hồi vốn càng ngắn.
d. Phân tích rủi ro của dự án
Dự án đầu tư thường có thời gian hoạt động khá dài (dự án trung và dài hạn)

nên chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như biến động thị trường, giá cả, tỷ giá, lạm
phát… để phân tích rủi ro của dự án qua việc xem xét sự thay đổi của các chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả tài chính của dự án do tác động của các yếu tố liên quan, Ngân
hàng thường tiến hành phân tích theo 2 phương pháp cơ bản là phân tích độ nhạy và
phân tích kịch bản (tình huống).
* Phân tích độ nhạy của dự án:
Thực chất của việc phân tích này là đánh giá mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố đến hiệu quả tài chính của dự án và xem nhân tố nào ảnh hưởng lớn nhất,
qua đó có những giải pháp thích hợp để hạn chế tác động tiêu cực, phát huy tác
động tích cực của các nhân tố đối với dự án. Thông thường, hiệu quả tài chính của
dự án chịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố: Chi phí đầu tư, giá bán sản phẩm, giá
nguyên vật liệu chính, sản lượng, tỷ giá…
* Phân tích kịch bản (tình huống)
Trong phương pháp này sẽ phân tích ảnh hưởng đồng thời của nhiều yếu tố
để đánh giá mức độ an toàn của dự án. Kịch bản được đưa ra gồm những trường
hợp có khả năng xảy ra lớn nhất kết hợp đồng thời các giả thiết về mức độ thay đổi
các yếu tố. Chẳng hạn: giá bán giảm 10%, sản lượng giảm 5%, chi phí tăng 10% …
Nếu với những phương án tính toán độ nhạy hay kịch bản ứng với giả thiết
có khả năng xảy ra nhiều nhất mà dự án vẫn có hiệu quả thì dự án sẽ được chấp
nhận.Với các trường hợp khác, Ngân hàng có thể cân nhắc thêm các chỉ tiêu khác
hoặc đề xuất biện pháp thích hợp để hạn chế trường hợp xấu có thể xảy ra.
22
e. Đánh giá và ra quyết định tài trợ
Từ những tính toán và phân tích nêu trên, Ngân hàng sẽ xem xét, đối chiếu các
chỉ tiêu tính toán được với các tiêu chuẩn, định mức, dự báo hay các nghiên cứu
khác để ra quyết định tài trợ hay không tài trợ cho dự án.
Mỗi chỉ tiêu, mỗi phương pháp phân tích, đánh giá hiệu quả tài chính của dự
án đều có những ưu nhược điểm và những giới hạn chấp nhận nhất định. Vì vậy, khi
áp dụng cần hết sức linh hoạt để tránh quyết định đầu tư sai lầm nhưng cũng tránh
bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt. Thông thường, quyết định đầu tư hay tài trợ chỉ được đưa ra

trên cơ sở đã đánh giá kỹ lưỡng tổng thể một tập hợp các chỉ tiêu hiệu quả có xét
đến đặc điểm của từng của dự án.
1.3. Hoạt động phân tích tài chính DAĐT trong hoạt động cho vay của NHTM
1.3.1. Hoạt động phân tích tài chính DAĐT
Hoạt động phân tích tài chính dự án đầu tư là một khâu trong việc thẩm định
cho vay đối với DAĐT. Quá trình phân tích tài chính DAĐT có thể nói là một công
việc tương đối khó, khá phức tạp vì nó đòi hỏi người phân tích phải thường xuyên
cập nhật kiến thức tổng hợp nhiều lĩnh vực. Do đó việc hoàn thiện hoạt động phân
tích tài chính DAĐT trong quá trình thẩm định cho vay tại NHTM là việc các
NHTM phải luôn cập nhật, bổ sung các phương pháp, nhân tố vào quá trình phân
tích tài chính DAĐT để làm cho việc phân tích tài chính DAĐT ngày một chính xác
hơn và phản ánh sát với thực tế hơn. Công việc này đòi hỏi phải thường xuyên, liên
tục theo thời gian và những biến động của thị trường, nhằm mục đích từng bước
nâng cao chất lượng phân tích tài chính DAĐT trong hoạt động cho vay tại NHTM.
Việc phân tích tài chính DAĐT được coi là có chất lượng khi nó đạt được mục
tiêu phân tích, thẩm định khoản vay của Ngân hàng đồng thời thoả mãn được nhu
cầu của khách hàng.
Mục tiêu phân tích tài chính dự án của Ngân hàng là xem DAĐT có hiệu quả
về mặt tài chính không? Từ đó quyết định cho vay hay không cho vay, nếu có cho
vay thì số lượng cho vay là bao nhiêu, thời hạn cho vay và lãi suất cho vay như thế
nào, phương thức giải ngân và thu nợ ra sao…
23
Trong khi đó, khách hàng đánh giá chất lượng phân tích tài chính DAĐT, chất
lượng thẩm định của Ngân hàng thông qua thời gian thẩm định và các tiện ích mà
công tác thẩm định mang lại cho khách hàng:
- Thời gian thẩm định hợp lý khi nó đủ để Ngân hàng đánh giá tính hiệu quả
của dự án, nhưng cũng phải phù hợp, đáp ứng được các nhu cầu vốn kịp thời cho
hoạt động đầu tư hay kinh doanh của khách hàng bởi trong cơ chế thị trường thì vấn
đề thời cơ là hết sức quan trọng đối với khách hàng trong bối cảnh thị trường cạnh
tranh gay gắt như hiện nay.

- Các tiện ích mà Ngân hàng có thể mang lại cho khách hàng qua công tác
thẩm định là những đề xuất, tư vấn của Ngân hàng đối với khách hàng về hướng
phát triển dự án (mở rộng hay thu hẹp) hoặc cơ cấu nguồn vốn của dự án (điều
chỉnh tỷ trọng một số nguồn vốn tăng hay giảm).
1.3.2. Các yếu tố phản ánh việc hoạt động phân tích tài chính DAĐT
Hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính DAĐT với mục tiêu làm cho việc
phân tích tài chính DAĐT được chất lượng hơn, sát với thực tế hơn. Chất lượng
thẩm định tài chính DAĐT được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu, trong đó có những chỉ
tiêu có thể định lượng được nhưng cũng có những chỉ tiêu không thể định lượng
được. Dưới đây là một số chỉ tiêu:
Thứ nhất là: Thời gian phân tích tài chính DAĐT, thời gian thẩm định là một
chỉ tiêu có thể định lượng được. Thời gian thẩm định quá ngắn sẽ không đủ cho
Ngân hàng có thể đánh giá được chính xác hiệu quả của dự án để có được quyết
định cho vay đúng đắn nhưng thời gian thẩm định quá dài có thể làm lỡ cơ hội đầu
tư hay kinh doanh của khách hàng và do đó bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt của Ngân hàng.
Vì vậy, cần phân biệt các loại dự án khác nhau về độ lớn, lĩnh vực, tính chất để có
những quy định cụ thể về thời gian thẩm định tối đa cần thiết.
Thứ hai là: Các chỉ tiêu có tính định lượng như chất lượng thẩm định, doanh
số cho vay, thu nợ, tỷ lệ nợ quá hạn, giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ…
phản ánh chất lượng tín dụng cho vay trung và dài hạn cũng gián tiếp phản ảnh chất
lượng thẩm định tài chính DAĐT của Ngân hàng, chất lượng thẩm định tốt thì sẽ có
24
quyết định cho vay đúng đắn và do đó kết quả cho vay có chất lượng, thể hiện Ngân
hàng có khả năng thu đủ nợ gốc, nợ lãi đúng hạn với lãi suất hợp lý có lãi cho Ngân
hàng nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả cho dự án. Hay nói cách khác, doanh số cho vay,
thu nợ, tỷ lệ nợ quá hạn, giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ… cũng cho thấy
công việc phân tích tài chính dự án đã phát huy hiệu quả như thế nào.
Thứ ba là: Những chỉ tiêu không thể định lượng được có thể kể đến việc lựa
chọn hệ thống các chỉ tiêu và phương pháp phân tích tài chính DAĐT cần áp dụng
đối với từng loại dự án cho phù hợp. Mỗi dự án có những đặc thù khác nhau nên

cần áp dụng những chỉ tiêu và phương pháp phân tích tài chính không giống nhau.
Tuy nhiên, cần nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu tương đương cho những dự
án tương tự nhau về số tiền, lĩnh vực ngành nghề,…
Ngoài ra, chất lượng phân tích tài chính DAĐT còn thể hiện ở tính khoa học,
chính xác, khách quan, toàn diện và sâu sắc của báo cáo thẩm định, sự phù hợp của
các dự báo, kết quả thẩm định phân tích trong quá trình đánh giá so với các kết quả
thực tế khi dự án đi vào hoạt động.
Kết quả phân tích tài chính DAĐT có chất lượng còn cung cấp cho khách hàng
nhiều tiện ích như tư vấn về kế hoạch kinh doanh, phương án nguồn vốn… góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của dự án, mang lại lợi ích cho nhà đầu tư và trên
cơ sở đó cho cả Ngân hàng trong việc thu đầy đủ cả gốc và lãi cho vay đối với dự
án đầu tư.
Để đảm bảo chất lượng việc phân tích tài chính dự án đầu tư, Ngân hàng cần
tuân thủ chặt chẽ quy trình và nội dung phân tích tài chính DAĐT đồng thời đảm
bảo các nhân tố tích cực và hạn chế các nhân tố tiêu cực ảnh hưởng tới chất lượng
phân tích tài chính dự án đầu tư.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động phân tích tài chính DAĐT
Hoạt động phân tích tài chính DAĐT của Ngân hàng thương mại chịu tác
động của rất nhiều yếu tố. Các nhân tố về phía Ngân hàng thương mại gồm có: Con
người, phương pháp và chỉ tiêu thẩm định, thông tin, tổ chức điều hành, trang thiết
25

×