Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Luận văn Tìm hiểu giá trị tâm linh của lễ hội truyền thống và đưa ra những giải pháp về hiện trạng công tác bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống xã Ngư lộc huyện hậu lộc tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.03 KB, 39 trang )

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÒNG VĂN HÓA HUYỆN HẬU
LỘC
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Tổng diện tích tự nhiên của Hậu Lộc 146,6km
2
, đứng thứ 19 về diện tích tự
nhiên trong 23 đơn vị huyện, thị của Thanh Hóa. Huyện Hậu Lộc diện tích tuy
nhỏ nhưng địa hình đa dạng, có đồi núi và thung lũng, có đồng chiêm trũng và
đồng cao vàm, có bãi bồi phù sa và cồn cát ven biển, có biển cả và hải đảo.
Hậu Lộc có đầy đủ 3 dạng địa hình, từ đồng bằng thuộc các xã Lộc Tân,
Thịnh Lộc, Xuân Lộc, Hoa Lộc, Phú Lộc đến vùng đồi núi thuộc các xã Triệu
Lộc, Tiến Lộc, Thành Lộc, Châu Lộc, Đại Lộc, Đồng Lộc và ven biển là các
xã Hòa Lộc, Hải Lộc, Minh Lộc, Ngư Lộc, Hưng Lộc, Đa Lộc
Huyện có hệ thống sông đào khá dày đặc. Hàng năm cung cấp nước tưới
cho nông nghiệp và thoát lũ vào mùa mưa. Do vậy tình trạng hạn hán và ngập
lụt ít khi xảy ra.
Hậu Lộc có khí hậu đặc trưng của khí hậu đồng bằng Thanh Hóa. Hậu Lộc
nằm ở tiểu vùng khí hậu ven biển. Khí hậu Hậu Lộc có nét riêng biệt của một
tiểu vùng ven biển nhưng những nét khác biệt đó không có gì lớn lắm so với đặc
điểm chung của vùng đồng bằng Thanh Hóa. Hậu Lộc thuộc loại hình nhiệt đới
gió mùa: nóng, ẩm, có mùa đông lạnh ít mưa kèm theo sương giá, sương muối,
mùa hè nóng mưa nhiều, có gió tây khô nóng. Nhưng vì gần biển nên mùa đông
đỡ lạnh và ít sương giá, sương muối hơn, mùa hè đỡ nóng hơn lại có gió đất gió
biển góp phần điều hòa khí hậu. Tổng nhiệt độ năm là 8.600
0
C, nhiệt độ thấp
nhất tuyệt đối từ 5-6
0
C, nhiệt độ cao nhất chưa qua 41
0


C. Đáng chú ý là khoảng
tháng 3-4 xuất hiện gió nồm đông, thỉnh thoảng có gió tây bắc xuất hiện gây trở
ngại cho mùa vụ.
Nhìn chung địa giới Hậu Lộc được phân định phù hợp với duyên cách tự
nhiên của sông núi. Phía Bắc sông Lèn, một nhánh của sông Mã chảy từ ngã ba
sông Bông đến cửa Sung, đây là đường biên giới tự nhiên giữa huyện Hậu Lộc
1
với hai huyện Hà Trung và Nga Sơn. Phía Tây và Nam Hậu Lộc giáp với huyện
Hoằng Hóa bởi núi Sơn Trang, sông Âu và sông Lạch Trường, phía Đông giáp
biển. Bờ biển Hậu Lộc thuộc loại bờ biển thấp, phẳng và lầy bùn. Núi Trường và
các đảo nhỏ (hòn Bò, hòn Súp, hòn Nẹ) tạo thành một cánh cung án ngữ sóng
gió mặt Nam và mặt Đông.
Hậu Lộc là một huyện có diện tích nhỏ, nhưng mật độ dân số cao ở Thanh
Hóa. Dân số của huyện tính đến năm 2009 là 163.971 người, mật độ 1.212
người/km
2
.
Thành phần dân tộc của huyện chủ yếu là người Kinh. Theo số liệu điều tra
1/4/2009 toàn bộ huyện có tất cả 163.971 nhân khẩu.
Do điều kiện tự nhiên để ổn định và phát triển sản xuất đã hình thành 3
vùng kinh tế là: Vùng đồi, vùng đồng bằng và vùng biển.
Trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế của Hậu lộc đã có bước tăng trưởng
khá. Giá trị tổng sản phẩm GDP năm 2005 đạt 755 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng
bình quân 5 năm (2000 - 2005) đạt 9,6%. Cơ cấu kinh tế năm 2005: Nông - Lâm
- Ngư nghiệp 55%, Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp 14,2%, Thương mại -
Dịch vụ 30,8%.
Đặc sản nổi tiếng của huyện trong và ngoài tỉnh với rượu Chi Nê (xã Cầu
Lộc), mắm tôm, mắm chua và hải sản khô Ngư Lộc.
Không chỉ kinh tế Hậu Lộc phát triển mà Giáo dục và đào tạo của Hậu Lộc
hiện nay cũng đang được quan tâm và phát triển rất mạnh. Huyện Hậu Lộc có tất

cả 5 trường THPT và một trung tâm Giáo dục thường xuyên, mỗi xã đều có ít
nhất 1 trường Trung học cơ sở và 1 trường tiểu học cơ sở. Các trường đang
không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Các trường THPT là trường THPT
Hậu Lộc 1, trường THPT Hậu Lộc 2, trường THPT Hậu Lộc 3, trường THPT
Hậu Lộc 4, trường THPT Đinh Chương Dương.
Trước sự đổi mới và phát triển của huyện, Phòng văn hóa huyện đã cùng
hình thành và phát triển. Trước đây khi mới ra đời phòng văn hóa Thể thao và
Du lịch có tên là phòng Văn hóa thông tin, nhân viên của phòng chỉ có một
2
người đảm đương công việc. Khi đất nước thống nhất, xã hội phát triển và văn
hóa có sự hội nhập, Phòng Văn hóa thông tin không chỉ kiêm một mảng văn hóa
mà còn hướng tới phát triển mọi mặt, phòng Văn hóa thông tin được đổi tên
thành Phòng Văn hóa Thể thao và Du lịch được bố trí thêm nhân sự để đáp ứng
nhu cầu hội nhập và phát triển đất nước. Phòng Văn hóa Thể thao và Du lịch đã
có tới 5 nhân viên và đều có bằng cấp đại học, đã được biên chế. Hiện nay
phòng Văn hóa Thể thao và Du lịch của huyện Hậu Lộc đang hoạt động rất tốt
góp phần cho huyện ủy ngày càng vững mạnh.
1.2. Chức năng hoạt động của cơ quan tiếp nhận
Địa điểm thực tập là phòng Văn hóa Thể thao và Du lịch của huyện Hậu
Lộc. Phòng văn hóa đóng trong Ủy ban nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh
Hóa. Ủy ban nhân dân huyện Hậu Lộc dặt tại trung tâm huyện là thị trấn Hậu
Lộc. Nơi đây là trung tâm văn hóa, kinh tế, xã hội của huyện. Ủy ban nhân dân
huyện cách quốc lộ 1A khoảng 5km, cách biển đông khoảng 8km. đây là nơi đầu
não của huyện trong mọi hoạt động.
Phòng Văn hóa huyện Hậu Lộc nằm ở khu nhà hai tầng, được đặt ở vị trí
nhìn thẳng ra mặt đường, rất dễ quan sát. Phòng Văn hóa gồm có hai văn phòng:
Văn phòng của trưởng phòng Văn hóa Thể thao và Du lịch và một văn phòng
của nhân viên. Nhìn chung, văn phòng của trung tâm văn hóa rất rộng rãi,
thoáng mát với vị trí đặt ở tầng hai nên khá yên tĩnh để làm việc. trong phòng có
đầy đủ cơ sở vật chất, tài liệu để tạo mọi điều kiện cho việc nắm bắt tình hình

văn hóa của địa bàn huyện.
Trưởng phòng Văn hóa huyện là ông Hoàng Ngọc Hải. Ông đã có nhiều
năm kinhg nghiệm trong công tác quản lý văn hóa. Hoàng Ngọc Hải đã có trên
20 năm kinh nghiệm về vấn đề văn hóa của huyện Hậu Lộc. Với một trưởng
phòng có nhiều năm kinh nghiệm và có bằng cấp đại học như trưởng phòng văn
hóa đã và đang dẫn dắt văn hóa trong huyện phát huy được tiềm năng sức mạnh,
đồng thời điều đó cũng góp phần cho nền kinh tế của huyện phát triển.
3
Phòng Văn hóa huyện là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân huyện
Hậu Lộc. Phòng Văn hóa và thông tin có tư cách pháp nahan, có con cấu và tài
khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế về công tác của Ủy
ban nhân dân huyện; đồng thời chịu sự hướng dẫn, kiểm tra thanh tra về chuyên
môn, nghiệp vụ của Sở Văn hóa, thông tin và du lịch, Sở Thông tin và truyền
thông.
Phòng Văn hóa và thông tin huyện có chức năng tham mưu cho Ủy ban
nhân dân huyện Hậu Lộc quản lý nhà nước về: Văn hóa, gia đình; thể dục thể
thao; du lịch; báo chí; xuất bản; bưu chính và chuyển phát; viễn thông và
internet; công nghệ thông tin; cơ sở hạ tầng thông tin; phát thanh và các dịch vụ
công cộng thuộc chức năng nhiệm vụ được giao trên địa bàn huyện; thực hiện
một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện Hậu
Lộc, cụ thể:
a. Nhiệm vụ và quyền hạn thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước được giao
- Trình ủy ban nhân dân huyện ban hành quyết định, chỉ thị; kế hoạch dài
hạn và từng năm; đề án, chương trình phát triển ngành theo chức năng, nhiệm vụ
của phòng trên địa bàn; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện cải cách hành
chính, xã hội trong lĩnh vực nhà nước được giao.
- Trình chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện dự thảo các văn bản về lĩnh vực
quản lý nhà nước được giao thuộc thẩm quyền ban hành của chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện.
- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch,

đề án, chương trình đã được phê duyệt; hướng dẫn, thông tin tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật về quản lý, hoạt động phát triển sự nghiệp ngành, lĩnh
vực; văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin và truyền thông; chủ trương xã hội hóa
hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, chống bạo lực trong gia đình.
- Giúp Ủy ban nhân dân huyện thẩm định, đăng ký, cấp các loại giấy phép
thuộc các lĩnh vực được giao theo quy định của pháp luật và theo phân công,
phân cấp của Ủy ban nhân dân huyện.
4
- Giúp Ủy ban nhân dân huyện quản lý nhà nước đối với tổ chức kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân; hướng dẫn và kiểm tra hoạt động các hội và tổ chức phi
chính phủ hoạt động trên địa bàn thuộc các lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục
thể thao, du lịch, thông tin và truyền thông theo quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục
thể thao, du lịch, thông tin và truyền thông đối với cán bộ chuyên trách thuộc Ủy
ban nhân dân các xã.
- Tổ chức ứng dụng khoa học, công nghệ; xây dựng hệ thống thông tin, lưu
trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và chuyên môn, nghiệp vụ của phòng.
- Thực hiện công tác thống kê, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình
thực hiện nhiệm vụ được giao với Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, giám đốc
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, giám đốc Sở Thông tin và truyền thông.
- Quản lý tổ chức, biên chế, thực hiện chế độ chính sách, chế độ đãi ngộ,
khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với
cán bộ, công chức và người lao động thuộc phạm vi quản lý của phòng về lĩnh
vực được giao theo quy định của pháp luật và phân công của Ủy ban nhân dân
huyện.
- Quản lý tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật và ủy
quyền, phân cấp của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện.
- Cơ quan thường trực của các Ban chỉ đạo: Các ngày lễ lớn, phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, đoàn kiểm tra liên ngành văn
hóa - xã hội huyện.

b. Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể về lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch
- Hướng dẫn các tổ chức, đơn vị và nhân dân trên địa bàn huyện thực hiện
phong trào văn hóa, văn nghệ; phong trào luyện tập thể dục, thể thao; xây dựng
nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; xây dựng phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng gia đình văn hóa,
đơn vị văn hóa; bảo vệ các di tích lịch sử, văn hóa trên địa bàn huyện.
5
- Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của các trung tâm văn hóa, thể dục thể
thao, các thiết chế văn hóa thông tin cơ sở, các cơ sở hoạt động dịch vụ văn hóa,
thể dục thể thao, du lịch, điểm vui chơi công cộng thuộc phạm vi quản lý của
phòng trên địa bàn huyện.
- Chủ trì phối hợp các cơ quan liên quan kiểm tra, thanh rta việc chấp hành
pháp luật về hoạt động văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch; phối hợp các
ngành chức năng giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, đơn cứu xét của công dân
về lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch theo quy định của pháp
luật.
c. Nhiệm vụ và quyền hạn cụt hể về lĩnh vực thông tin và truyền thông
- Giúp Ủy ban nhân dân huyện trong việc tổ chức công tác bảo vệ an toàn,
an ninh thông tin trong các hoạt động bưu chính, chuyển phát, viễn thông, công
nghệ thông tin, internet, phát thanh.
- Chịu trách nhiệm theo dõi và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án về
ứng dụng công nghệ thông tin trên địa bàn huyện theo sự phân công của Ủy ban
nhân dân huyện.
- Tổ chức thực hiện việc quản lý, kiểm tra và hướng dẫn các xã quản lý các
đại lý bưu chính, viễn thông, internet trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
- Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các tổ chức, đơn vị và cá nhân trên địa
bàn huyện thực hiện pháp luật về các lĩnh vực bưu chính, viễn thông và internet;
công nghệ thông tin, hạ tầng thông tin; phát thanh, quảng cáo, báo chí, xuất bản.
- Giúp Ủy ban nhân dân huyện quản lý nhà nước đối với mạng lưới phát
thanh, truyền thanh cơ sở.

d. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân, Ủy ban nhân dân
huyện giao hoặc theo quy định của pháp luật
1.3. Sơ đồ tổ chức và bố trí nhân sự
1.3.1. Sơ đồ tổ chức
6
1.3.2. Bố trí nhân sự
Phòng Văn hóa huyện là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân huyện
Hậu Lộc. Chức năng nhiệm vụ chính của phòng là tham mưu quản lý nhà nước,
công tác văn hóa, thể thao, du lịch và thông tin truyền thông. Hiện nay phòng có
5 biên chế cán bộ: trưởng phòng là ông Hoàng Ngọc Hải, phụ trách chung, một
phó phòng là bà Nguyễn Thị Thắm phụ trách công tác du lịch, gia đình và thông
tin truyền thông; một chuyên viên văn hóa, một chuyên viên thể thao và một
chuyên viên về công nghệ thông tin. Tất cả đều có trình độ đại học.
Ban quản lý di tích và danh thắng huyện Hậu Lộc do ông phó chủ tịch
huyện Nguyễn Văn Luệ phụ trách khối Văn hóa làm trưởng ban, trưởng phòng
Văn hóa Thể thao và Du lịch làm phó ban, các thành viên của ban chỉ đạo bao
gồm đại diện Mặt trận tổ quốc, ban tuyên giáo, phòng tài chính, phòng công
thương, ban tôn giáo, phòng tài nguyên môi trường, công an huyện và các đồng
chí chủ tịch Ủy ban nhân dân các xã thị trấn có di tích xếp hạng.
Hiện tại phòng Văn hóa do ông Hoàng Ngọc Hải làm trưởng phòng. Ông
Hoàng Ngọc Hải quản lý mọi vấn đề của phòng Văn hóa và phân công công tác
cho nhân viên trong phòng Văn hóa. Ông còn là phó ban quản lý di tích của
7
Trưởng phòng Văn hóa
Phó phòng Văn hóa
Chuyên viên
văn hóa
Chuyên viên
TDTT
Chuyên viên

CNTT
huyện. Ông thường xuyên đi tới các địa bàn của ban quản lý văn hóa của xã để
chỉ đạo những vấn đề văn hóa. Với những kinh nghiệm, trình độ và sự nhiệt
huyết của mình ông Hoàng Ngọc Hải đang cáng đáng vai trò là một trưởng
phòng Văn hóa xuất sắc. Ông cũng như phòng Văn hóa huyện Hậu Lộc nhiều
năm liền đã được Thủ tướng chính phủ và Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch tặng
bằng khen.
Phó phòng Văn hóa là bà Nguyễn Thị Thắm. Bà Nguyễn Thị Thắm phụ
trách công tác du lịch, gia đình và truyền thông. Với một trình độ chuyên môn,
với sự nhiệt huyết trong công việc, bà Nguyễn Thị Thắm đã và đang là một phó
phòng gương mẫu và đầy trách nhiệm.
Một chuyên viên văn hóa là bà Mai Thị Hoan. Với trình độ và kinh nghiệm
hiểu biết về các vấn đề văn hóa bà đã có nhiều đóng góp cho công tác văn hóa.
Bà đã và đang hoạt động trong công tác gìn giữ nét văn hóa của huyện Hậu Lộc
như: làng văn hóa, cơ quan văn hóa, di tích văn hóa
Một chuyên viên về thể dục thể thao của phòng là ông Lưu Trung Công rất
am hiểu vấn đề và có một trình độ chuyên môn nhất định nên hiện nay thể dục
thể thao, văn hóa văn nghệ của huyện rất phát triển. Điều này thấy rõ nhất trong
mỗi hội trại hè của huyện đã mang lại được những ngày hè sôi động và lành
mạnh cho thanh thiếu niên của huyện.
Phòng văn hóa còn có một chuyên viên công nghệ thông tin có trình độ đại
học là bà Nguyễn Thị Phúc. Với một trình độ nhất định và nhiệt huyết trong
công việc nên huyện Hậu Lộc đã có được một kênh quảng bá về huyện. Hiện
nay huyện đã thành lập được rang web và đã đưa rất nhiều thông tin của huyện
đến với công chúng bạn đọc.
Nhìn chung sơ đồ tổ chức của phòng Văn hóa huyện Hậu Lộc là khá hoàn
chỉnh và quy mô. Chức năng hoạt động cũng được phân công công việc một
cách rõ ràng và phù hợp với trình độ cũng như kinh nghiệm của mỗi người.
8
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG THỰC TẬP TẠI CƠ QUAN TIẾP NHẬN

2.1. Mô tả công việc được giao tìm hiểu “Lễ hội truyền thống của ngư
dân xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa”
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu điều kiện tự nhiên và xã hội xã Ngư Lộc, huyện Hậu
Lộc
Nhiệm vụ 2: Tìm hiểu những lễ hội truyền thống tiêu biểu của ngư dân xã
Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc
Nhiệm vụ 3: Tìm hiểu giá trị tâm linh của lễ hội truyền thống và đưa ra
những giải pháp về hiện trạng công tác bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống
2.2. Phương thức làm việc: Cá nhân
Tìm hiểu tư liệu qua sách báo, tạp chí và trực tiếp đi thực tập tại phòng Văn
hóa huyện trong thời gian từ 20/3/2013 - 20/5/2013
Trong quá trình thực tập, tôi đã tham gia vào các hoạt động của phòng Văn
hóa huyện Hậu Lộc và Ban văn hóa xã Ngư Lộc
2.3. Quá trình thực hiện
Trong thời gian thực tập từ ngày 20/3/2013 - 20/5/2013 tôi đã lập một kế
hoạch cụ thể như sau:
Tuần 1: Làm quen với cơ sở thực tập
Tuần 2,3: Tìm hiểu tư liệu về phòng Văn hóa
Tuần 4,5,6,7: Cùng với phòng Văn hóa tham gia các hoạt động văn hóa tại
địa phương như: Tham gia lễ công nhận di tích quốc gia chùa Cách tại xã Tuy
Lộc, đến thăm các di tích văn hóa tại huyện Hậu Lộc, tham gia kỷ niệm ngày
30/4. đặc biệt trực tiếp đi tìm hiểu về lễ hội truyền thống tại xã Ngư Lộc.
Tuần 8,9: Tổng kết quá trình thực tập tại cơ quan.
2.4. Kết quả đạt được
Ngay sau khi nhận được nhiệm vụ, tôi đã về xã Ngư Lộc để tìm hiểu lễ hội
truyền thống và đã thu thập được những kết quả sau:
2.4.1. Khái quát về xã Ngư Lộc
2.4.1.1. Điều kiện tự nhiên xã Ngư Lộc
9
Ngư Lộc có vị trí ứng với khoảng 19,56 độ vĩ bắc, 105,58 độ kinh đông,

nằm ở bãi ngang ở vùng đồi tương đối bằng phẳng của hai con sông Lạch Sung
về phía Bắc và Lạch Trường ở phía Nam. Phía bắc giáp các xã Hưng Lộc, Đa
Lộc; phía nam và tây nam giáp với Hải Lộc và một phần Minh Lộc. Phía đông là
biển Đông thuộc Vịnh Bắc Bộ có đường bờ biển dài 1,2km được ngăn cách với
đất liền bằng một con đê biển có chức năng ngăn sóng và nước biển gây ngập
úng với các điểm dân cư.
Cách bờ biển Ngư Lộc 5km về phía Đông là đảo Nẹ với diện tích khoảng
1km
2
, độ cao so với mực nước biển 70,8m. đảo Nẹ được xem là vị trí tiền tiêu
của Hậu Lộc về quân sự nói chung và Ngư Lộc nói riêng. Đảo Nẹ còn là cột
mốc chỉ đường cho tàu thuyền ngoài khơi trở về bến.
Về phía Nam còn có hòn Sụp, hòn Bò và dãy núi Trường. Cửa Lạch kia nổi
tiếng là thương cảng có nhiều thuyền buôn, thuyền đánh cá trong và ngoài nước
ra vào buôn bán trao đổi hàng hóa.
Nhìn vào bản đồ Diêm Phố xưa kia và Ngư Lộc hiện nay ta thấy được sự
khác biệt hoàn toàn về vị trí địa lý. Từ vị trí cửa sông Lạch Trường (Hoằng
Hóa), xa xưa ta thấy xã Diêm Phố thời kỳ tịnh tiến về phía Tây và Tây Bắc,
ngày nay Diêm Phố có địa hình cơ bản ổn định ở hai cửa sông quan trọng này.
Nhìn vào bản đồ xã Ngư Lộc hiện nay giống như hình thang, đáy nhỏ là
phần đất ăn sâu vào địa phận xã Minh Lộc rộng 600m, đáy lớn là mặt biển rộng
1200m giống như mặt phễu đựng gió chính. Hàng năm, Diêm Phố được xem là
điểm của những cơn gió mùa và bão biển. Bờ biển nơi đây có đặc điểm, bờ biển
thấp, lõm và lầy bùn, điều này gây ra nhiều khó khăn nhất định cho việc đi lại
trên biển nhất là ngày thủy triều rút. Mặt khác, vùng biển Ngư Lộc có năm cửa
sông Châu Tuần bồi thải phù sa, phù du sinh vật quanh năm (sông Lạch Trường,
Lạch Sung, Lạch Cầu, sông Đáy, sông Linh Cơ - Hà Nam Ninh). Vì vậy, việc
đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản của cư dân xã Ngư Lộc khá phát triển.
Bên cạnh đó, trên tổng số diện tích 0,5km
2

, thành phần chủ yếu lại là đất
cát (chiếm 30% diện tích). Loại đất này mịn, có màu vàng nhạt, dễ bở và có
10
mùn, độ ẩm không cao nên năng suất cây trồng thiếu ổn định. Qua quá trình phát
triển và tồn tại xã Ngư Lộc bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi thiên tai lũ lụt, làm
cho xã nhiều thời gian bị kiệt quệ về kinh tế, đất đai bị thiếu hụt. Vào thời
Nguyễn, xã phải mua đất hoặc vay đất các xã bên. Mặt khác, do là một bộ phận
của miền biển Hậu Lộc, trực thuộc tiểu vùng khí hậu vùng biển phía Bắc Thanh
Hóa nên khí hậu của miền biển Hậu Lộc biến đổi khá thất thường. Hàng năm xã
có tổng nhiệt trên 8600
0
C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối từ 5-6
0
C. Đáng chú ý là
khoảng tháng 3-4 thường xuất hiện gió nồm đông, thỉnh thoảng có gió tây bắc
xuất hiện gây trở ngại cho mùa vụ Do sự biến đổi thất thường của khí hậu nên
việc sản xuất cây trồng ở Ngư Lộc hầu như rất ít phát triển, dân cư tập trung
vào việc khai thác phát triển kinh tế đánh bắt thủy hải sản.
2.4.1.2. Điều kiện xã hội
Xưa kia xã Ngư Lộc được gọi là làng Diêm Phố. Diêm Phố thuộc diện
“nhất xã, nhất thôn” ra đời từ rất sớm. theo địa chí Hậu Lộc (NXB khoa học xã
hội - 1990) viết : Thôn Diêm Phố có từ thế kỉ XII, nhân dân sinh sống trên mảnh
đất Cồn Bò cạnh cửa sông Linh Trường - cửa sông này là một nhánh của sông
Mã từ huyện Hoằng Hóa chảy ra Hậu Lộc còn có tên là Lạch Trường. Bờ Nam
có núi Trường và các đảo nhỏ : Hòn Bò, hòn Sung, hòn Nẹ tạo thành một cánh
cung án ngữ sóng gió mặt nam và mặt đông. Nhờ địa thế này mà con người từ
xưa đã tự lập về đây sinh sống bằng nghề đánh cá.
Khoảng thế kỉ I - II (TCN), thành lũy huyện Dư Phát thuộc quận Cửu Chân
đã xây dựng tại nơi đây. Vào những thế kỉ trước và sau công nguyên, cửa Lạch
đã từng là một thương cảng quan trọng trên con đường hàng hải đến các nước

Đông Nam Á và Ấn Độ. Dưới triều đại Phong kiến Việt Nam độc lập, mỗi lần
vào phương Nam dẹp giặc, thủy quân lại lấy cửa biển Lạch Trường làm cứ điểm
xuất phát. Cửa biển kín đáo là nơi cất giấu hạn thuyền yên ổn (NXB Khoa học
xã hội), như thế là từ lâu đời người Diêm Phố đã có mặt nơi này.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, trong không khí vẻ vang cảu cuộc
kháng chiến, xã Diêm Phố đổi tên thành xã Cao Thắng, đến năm 1947 đổi thành
11
xã Vạn Thắng do Ủy ban Việt Minh và Ủy ban lâm thời lãnh đạo. Tháng 6 năm
1953 xã lại đổi tên thành xã Vạn Lộc, tồn tại đến tháng 7 năm 1953 thì giải tán
chia thành 4 xã mới là Đa Lộc, Ngư Lộc, Minh Lộc, Hưng Lộc. Từ năm 1960
trong xu hướng xây dựng hợp tác xã, xã Ngư Lộc đã hình thành hai loại hình:
Hợp tác xã Ngư nghiệp và hợp tác xã Thủ công nghiệp; mọi công việc từ sản
xuất, xây dựng, đóng góp đều do ban quản trị điều hành và lãnh đạo. Về mặt
chính quyền thì tập trung vào Ủy ban hành chính xã (1976 đổi tên thành Ủy ban
nhân dân). Quá trình phát triển hợp tác xã từ năm 1960 của xã Ngư Lộc trải qua
nhiều thăng trầm biến đổi từ tập đoàn sản xuất hợp tác xã nhỏ, vừa theo địa nghề
địa dư lao động tiến lên thành hợp tác xã lớn có phương tiện đánh bắt tiên tiến,
doanh thu cao, lãi lớn giai đoạn 1975 - 1985. Bước vào thập niên đầu những
năm 90, trước sự chuyển biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, thì
hầu hết hợp tác xã đều làm ăn thua lỗ, gây không ít tác động xấu đến đời sống xã
viên nói riêng và toàn bộ dân trong xã nói chung.
Tình hình hiện nay với sự biến đổi mạnh mẽ, nhanh nhạy của nền kinh tế
thị trường, bằng sự linh hoạt của các cấp lãnh đạo, xã Ngư Lộc ngày nay càng
chuyển biến hết sức mạnh mẽ. có thể nói xã Ngư Lộc hiện nay đang từng ngày
thay đổi theo thời kỳ, ở các cấp vĩ mô và vi mô.
Trong cơ cấu hiện nay được chia làm bảy thôn: thôn Thắng Phúc, Thắng
Lộc, Thắng Tây, Bắc Thọ, Nam Vương, Thành Lập, Chiến Thắng. Với dân số
gần 17 nghìn người, có 2812 hộ dân, có một đội tàu gần 500 chiếc đủ sức đánh
bắt cá khơi xa dài ngày.
Nghề nghiệp chính của ngư dân là đánh cá và làm muối. Nghề làm muối có

từ xa xưa và nay đã mất, chỉ có nghề đánh cá là tồn tại và phát triển. Ngày nay
còn phát triển nghề thủ công, nghề chế biến hải sản, buôn bán hoặc một số nghề
dịch vụ
Với chiều dài hơn 8 thế kỷ lập làng cùng với nghề đánh cá, người dân Ngư
Lộc phải từng ngày đối mặt với phong ba bão táp giành giật bát cơm manh áo từ
biển cả. Đã không ít lần biển cả dâng nước cướp đi toàn bộ nhà cửa, ruộng
12
vườn, thuyền ghe và cả tính mạng con người. Nhưng người dân nơi đây vẫn kiên
trì bám làng, bám biển bởi họ là nhóm hậu duệ thành công nhất của người VIệt
cổ sống ven biển, trên con đường phát triển văn hóa Hoa Lộc. Với một công
thức đơn giản “lọc nước lấy cái”, người dân và tiên nhân của họ đã phải mày
mò, từ việc xe dây làm lưới, mài đá cuội làm chì cho đến hình thành nhóm Bè,
xóm Gõ để đánh bắt cá bằng những phương tiện thô sơ nhất. Trí khôn của con
người luôn được sinh ra để đối phó với sự tàn phá hoang dại của thiên nhiên và
con người đã chiến thắng. Trong lịch sử vạn chài, ít có nơi nào con người lại
quần tụ lập làng sớm như Diêm Phố. Nơi có mật độ dân số cao nhất và tập trung
nhiều dòng họ nhất.
Thiếu trang 15
Nhau của đời sống xã hội, con người: Sinh hoạt tín ngưỡng, nghi lễ phong
tục, giao tiếp và gắn kết xã hội, các sinh hoạt diễn xướng dân gian (hát, múa, trò
chơi, sân khấu ), các cuộc thi tài, vui chơi, giải trí, ẩm thực, mua bán Không
có một sinh hoạt truyền thống nào của nước ta lại sánh được với lễ hội cổ
truyền, trong đó chứa đựng đặc tính vừa đa dạng, vừa nguyên hợp này.
Chủ thể của lễ hội truyền thống là cộng đồng, đó là cộng đồng làng, cộng
đồng nghề nghiệp, cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng, cộng đồng thị dân và hơn cả
là cộng đồng quốc gia dân tộc. nói cách khác, không có lễ hội nào lại không
thuộc từ một dạng cộng đồng của một cộng đồng nhất định. Cộng đồng chính là
chủ thể sáng tạo, hoạt động và hưởng thụ các giá trị văn hóa của lễ hội.
Ba đặc trưng trên quy định tính chất, sắc thái văn hóa, cách thức tổ chức
thái độ và hành vi, tình cảm của những người tham gia lễ hội, phân biệt với các

loại hình lễ hội khác như lễ hội sự kiện, các loại hình festival
2.4.2.2. Những lễ hội truyền thống tiêu biểu của ngư dân xã Ngư Lộc
Ngư Lộc là một xã ven biển của Hậu Lộc thuộc tỉnh Thanh Hóa. Cùng chịu
tác động và hình thành, tổ chức các lễ hội truyền thống của Thanh Hóa. Tuy
nhiên, do địa bàn sinh sống men theo bờ biển, điều kiện sinh sống chủ yếu phụ
thuộc vào con thuyền, tấm lưới đánh bắt hải sản trên biển, thu hoạch thất
13
thường, sự nguy hiểm lắm rủi ro là không thể lường trước đã cho ngư dân ở đây
tin tưởng và mong chờ vào thế lực siêu nhiên, coi trọng và hết sức thành tâm với
thờ cúng, tổ chức lễ hội để cầu bình an và may mắn. Do đó, những lễ hội truyền
thống của ngư dân ở Ngư Lộc vừa có nét chung vừa có những nét đặc thù riêng.
a) Lễ Cầu Ngư
Theo lời kể của các bô lão trong làng thì lễ hội Cầu Ngư xuất phát từ tên lễ
hội Cầu Mát của ngư dân làng Diêm Phố có từ khi làng mới thành lập vào thời
nhà Lê.
Lễ hội Cầu Ngư của làng Diêm Phố được bắt đầu từ ngày 21/2 - 24/2 âm
lịch, các vị thần được thờ ở lễ hội này là Tam Bảo Phật, Tứ Vị Thánh Nương,
Đông Hải Đại Vương, Nẹ Sơn Tôn Thần, Nam Hải Đại Tướng Quân Đây là lễ
hội lớn nhất trong năm của xã, đồng thời là lễ hội lớn nhất và đặc trưng nhất của
khu vực ven biển Thanh Hóa. Bởi vậy mà công tác chuẩn bị cho lễ hội hết sức
cẩn thận và chu đáo.
 Công tác chuẩn bị
Thời gian chuẩn bị diễn ra trước đó khoảng một tháng, từ công việc chọn
nhà trọ, chọn địa điểm, tế lễ đến công tác chuẩn bị lễ phẩm… đều phải được tính
toán sắp xếp một cách kỹ lưỡng, nếu để xảy ra sơ xuất trong ngày lễ thì dân làng
coi như đó là điểm báo không tốt trong năm.
- Chọn nhà trọ
Nhà trọ là địa điểm làm lễ phẩm cho lễ hội. Các chức sắc và hương lão
trong làng phải họp nhau lại để làm việc chọn gia đình nhà trọ có đầy đủ các tiêu
chuẩn: Gia đình trong năm không có tang, làm ăn phát đạt, có nếp sống kỷ

cương, con cháu đề huề, gia đình hạnh phúc, phải có từ ba thế hệ chung sống trở
lên, trong gia đình phải có người biết sắm lễ vật.
Nếu gia đình nào được chọn thì đó là điều vinh dự và hết sức may mắn
cho gia đình. Họ tự hào và tin rằng gia đình họ từ nay sẽ được các vị thần linh
phù hộ cũng như được sự tôn trọng và yêu mến của dân làng. Cho nên, các
14
thành viên trong gia đình đều cố gắng đóng góp sức lực của mình vào công việc
mà được làng tin tưởng giao phó.
- Làm mũ ngũ sắc và đóng long châu
Công việc này cũng rất quan tọng người được chọn làm, mũ ngũ sắc và
đóng long châu phải là những người vừa có nghề lại vừa khéo tay, gia đình
không có tang, nếp sống lành mạnh. Tất cả tập trung tại một gia đình khá giả
được làng chọn cũng phải đảm bảo các tiêu chí nêu trên. Người chỉ đạo trong
công việc này là một người già có hiểu biết và giỏi tay nghề do làng chọn. Ở
đây, tất cả những người giam gia công việc của lễ hội làng đều nhất thiết phải là
người không có tang trong năm, gia đình và bản thân phải trong sạch.
Đóng long châu: Long châu là hình tượng thiêng liêng của lễ hội, cũng là
hình tượng của nghề nghiệp bởi vậy địa điểm đóng long châu phải được chọn
lựa một cách rất kỹ lưỡng. Theo thông tục hàng năm cứ vào khoảng mùng 2-4
tháng 2, ban tổ chức lễ hội bắt đầu rải ván đóng long châu. Trước đó phải nhờ
thầy xem ngày và chọn giờ tốt sau đó lên nghè Diêm Phố làm lễ xin với Thần,
Phật được tiến hành công việc đóng long châu.
Do tính chất quan trọng và thần bí, nên việc chọn các thợ đóng long châu
cũng phải được chọn lựa rất kỹ càng. Tổ thợ làm công việc này được chọn
khoảng 20 người yêu cầu phải thật sự giỏi nghề, trong sạch trong cuộc sống và
hơn hết gia đình không có tang. Để thực hiện việc đóng long châu, chủ tế phải
xin chân nhang từ khu nghè Diêm Phố xuống khu đóng long châu. Đúng giờ tốt
chủ tế vào cáo lễ với các thần thánh, tiếp đó người thợ cả vào phạt mộc, mở đầu
công việc đầu tiên của lễ hội Cầu Ngư. Sau khi công việc rải ván hoàn tất, công
việc đóng long châu bắt đầu. Thuyền đóng có chiều dài 6m, cao 1m, bụng

thuyền nơi rộng nhất là 1,2m. Khung thuyền làm bằng luồng, nứa đóng chốt
chắc chắn, xung quanh thuyền được dán giấy màu xám có trang trí hình ảnh các
con vật ở biển như cá, tôm, cua, mực… Hai bên thuyền có trang trí hai dãy đuôi
leo nhiều màu sắc giữa lòng thuyền có một cột buồm với lá buồm bằng giấy xòe
rộng.
15
Hàng đêm từ lúc 0h5 phút tại khu đóng long châu đều tiến hành các lễ
sang canh, điều này có ý nghĩa vừa như một lời báo cáo công việc lại vừa mang
ý nghĩa cầu mong các thần, thánh cho công việc tiến hành tỏng những ngày tiếp
theo được thuận lợi. Sau khi tổ thơ đã làm xong các phần căn bản của long châu
thì người chủ tế phải xem ngày giờ tốt để lên đầu rộng.
Tuy nhiên, trước khi thực hiện công việc này phải có lễ báo cáo công việc
với các chủ vị thần, thánh. Tổ thợ đưa toàn bộ trang thiết bị tượng để lắp ráp lên
thuyền rộng. Công việc được tiến hành tỉ mỉ và yêu cầu phải có sự thành thạo và
hiểu biết tâm linh cao. Trong đó, việc “điểm nhãn” được xem là việc quan trọng
nhất, cần phải xem ngày giờ để điển nhãn cho tượng. Mắt tượng khi điểm phải
có thần khí thể hiện khí phách trang nghiêm. Cuối cùng khi phải hoàn tất, ông
chủ tế đặt vào lòng thuyền gạo, muối. Một quả bí ngô chín và một đùm thuốc
lào… Những thứ này là thực phẩm tối thiểu của người đi biển ở làng Diêm Phố.
Làm mũ ngũ sắc: Mũ ngũ sắc được làm từ năm loại giấy, mỗi loại có một
màu sắc khác nhau bởi vậy mới gọi là mũ ngũ sắc. Khung của mũ được uốn từ
nguyên liệu nứa tươi có hình như mũ tế, sau đó dùng giấy màu dán xung quanh
rồi trang trí nhiều hoa văn như đôi rồng chầu chữ thọ hoặc đôi rồng chầu hoa
văn như đôi rồng chầu chữ thọ hoặc đôi rồng chầu mặt trời. Đằng sau mũ có dán
hai dải bằng giấy.
- Sắm lễ phẩm:
Trong lễ thờ không thể thiếu được các loại lễ phẩm. Riêng lễ cúng phật ở
chùa phải là mâm cỗ chyaj, còn thịt lợn, thịt gà, thịt vịt… Theo quan niệm của
như dân ở đây, con gà là loại vật thể hiện sức mạnh, nhạy cảm và cần xem chân
gà để đoán vận mệnh của làng trong năm. Con vịt thì chuyên mò cua bắt cá, để

kiếm sống, rất gần với nghề đánh bắt của ngư dân làng Diêm Phố. Ngoài ra lễ
vật còn có hoa quả, trầu rượu và vàng hương.
- Làm vệ sinh làng xóm:
Cứ đến ngày 20 tháng 2 hàng năm, cả làng Diêm Phố dù công việc ra đình
bận đến đâu cũng đều gác lại. Từ sáng sớm mọi người từ già đến trẻ em đều tự
16
giác quét dọn nhà cửa, ngõ xóm, đường làng, các khuôn viên của nghè, đền
chùa, sạch sẽ, việc làm không cần có người nhắc nhở, tất cả đều tự giác.
- Dựng đàn lễ:
Mặc dù Diêm Phố có cả một khu nghè, chùa, đền, miếu thờ thần linh của
làng, nhưng làm việc lễ Cầu Ngư phải dựng làm lễ ngoài trời. Đó là một bãi giáp
biển, nhưng là trung tâm của làng, hướng làng lễ dựng theo lợi trong năm.
Người ta đóng giáo xung quanh, chiều cao giàn giáo khoảng 1 m, mặt đàn trên
giáo được lát bằng ván, chiếu rộng sàn là 10m, chiều dài là 12m.
 Cơ cấu lễ hội
Lễ hội Cầu Ngư chia làm hai phần rõ rệt: phần lễ và phần hội, trong đó
phần lễ là phần đóng vai trò quan trọng và mang nhiều ý nghĩa nhất.
Phần lễ:
Khi công tác chuẩn bị đã được hoàn tất. Sáng ngày 21 tháng 2 âm lịch,
đúng giờ hoàng đạo, vị chủ tế nổi ba hồi chín tiếng trống đai ở nghe Cả, sau đó
24 trống lớn nhỏ nổi lên sôi nổi. Ông chủ tế bắt đầu khăn mới cho vị thần linh
giáng làm thần linh chứng giám, sau đó rước vị thần linh về làm lễ. Đi đầu đám
rước là đôi múa lân vừa đi vừa dẹp đường cho đoàn rước đi được thuận tiện,
ngay sau đó là một người nam giới, phía sau là một người cầm chiêng, một cầm
trống bàn, tiếp đến là hai người vác hai long đao. Kế đến là phường bát âm mặc
áo dài lương quần trắng đội khăp xếp, chân đi giày, vừa đi vừa cử bản nhạc lưu
thủy. Sau phường bát âm là kiệu phật gồm 4 tri kiệu khiêng, tiếp đến là kiệu bát
cống rước Tử Vị Thánh Nương, gồm 8 nữ thanh tân quần trắng, áo dài màu, chít
khăn vành dây. Đi sau là kiệu Đức Ông, sau nữa là kiệu Đức Vua Thông Thủy 4
người khiêng, tất cả đầu đều chít khăn đỏ, mặc áo nỉ cộc tay màu đỏ, quần màu

đỏ, chân quấn xà cạp. Sau kiệu là mô hình bè mảng thờ người bị nạn. Đi sau
đám kiệu là hội tế gồm 9 vị đều đầu đội mục tế có hai dải thả dài sau lưng, trang
phục áo dài thụng màu tím hoặc màu đen, quần dài trắng, chân đi hia. Riêng áo
của chủ tế có khác hơn đó là có bố tử đằng trước và đằng sau. Chủ tế đi trước,
đằng sau là một hàng đôi bao gồm: hai chuyển chúc và đọc chúc, 4 bồ tế, 2 đông
17
xướng và tây xướng, đều lồng tay áo thụng vào với nhau giơ lên phía trước mặt.
Sau hội tế là 4 người con trai áo lương quần trắng, đội khăn xếp, đi guốc vác 4 lá
cờ hội, tiếp sau là dân làng và quan khách.
Đoàn rước kiệu dừng lại bên ngoài cổng nhà trọ. Mười hai cụ đội khăn
xếp, mặc áo the đen, quàng lĩnh trắng, đi giày, hạ bước vào nhà trọ, mỗi cụ nưng
một mũ ngũ sắc. Hai mươi hai kiệu từ 18 đến 25 tuổi khiêng long châu, trang
phục giống những trai kiệu trước. Đoàn rước lai tiếp tục đi đến đoàn lễ. Ba kiệu
được đặt lên trên, bên phải đặt kiệu Thích Ca , bên trái là kiệu Đức vua Thông
Thủy, ở giữa là kiệu Tứ Vị Thánh Nương, và đặt bát hương, lễ phẩm thứ tự theo
sơ đồ đàn lễ. Trên mỗi đàn đặt một chiếc mũ ngũ sắc tượng trưng cho vị thần
thánh được thờ ở đây, phía trái đàn lễ đặt chiếc long châu đầu quay chầu vào
đàn, xung quanh đàn cắm cờ hội.
Sau đó ban chủ tế làm lễ dâng hương và đôi múa lên hoạt động. Đầu giờ
chiều cùng ngày, sau khi chọn việc giờ tốt ông thầy cúng được ngư dân tín
nhiệm lên khoa giáo tiến hành tẩy uế để khoa giáo yên vị.
Tại khu lễ đàn và hầu hết các ban lễ hội ở thời điểm sắp sang ngày mới,
ban hành lễ thường xuyên tế lễ sang canh. Trong thời gian hai ngày 22 và 23
nhân và khách thập phương đến dưng hương. Đây là tính chất mở khá tiêu biểu
của lễ hội Cầu Ngư. Vì vậy, lễ hội Cầu Ngư không chỉ là ngày lễ lớn của ngư
dân Dêm Phố mà nó ngày hội lớn của cư dân ven biển Thanh Hóa.
Bước sang ngày 24 tháng 2 âm, các giáp rước cỗ về đàn lễ, đến nơi lễ
phẩm được đặt vào vị trí trên mặt đàn lễ đã quy định. Lúc này mọi người đã tề
tựu đông đủ. Ba hồi chín tiếng trống nổi lên dòng dã, đại tế bắt đầu với bài văn
tế câu yên tháng 2. Ban hành lễ thay mặt cho nhân dân trong xã bái tế và báo cáo

thần thánh về buổi lễ.
Phần quan trọng nhất của lễ hội Cầu Ngư là tế lễ giao ôn bao gồm hai
phần chính:
Phần một: Là phần tế lễ ở đàn chính. Vị pháp sư tiến hành làm lễ mời các
vị trong họi đồng thần thánh: Hồng Liên Lão Mẫu, Ngọc Hoàng, Thành Hoàng
18
Bản Thổ, Đức Vua Thông Thủy, Tứ Vị Thánh Nương…đây là khu vực lễ tế
chính cho toàn bộ lễ hội, nên nội dung cầu khản mang tính bao quát những
mong muốn của dân làng: cầu phúc cầu tài, sống lâu giàu có, tránh được mọi tai
ương, đi biển thuận buồm xuôi gió, cá tôm đầy thuyền, buôn bán thuận lợi, thủ
công tinh thông, học hành tiến tới, văn tăng võ tiến, toàn dân phúc hậu đuề huề.
Phần hai: Là phần tế tại long châu. Tại đây việc tế lễ dành riêng cho
người đi biển. Hình tượng long châu là biểu tượng của ngư nghiệp. Toàn bộ
chiếc long châu là chiếc thuyền thờ những người đến dâng hương lễ vật vào
lòng thuyền. Đúng giờ lành, tại long châu ông pháp sư mặc áo dài, khăn thắt
ngang lưng màu đỏ, đứng trước mũi long châu, một tay múa ấn kiếm, một tay
cầm ba nén hương viết vào không gian và dõng dạc đọc lệnh khởi hành, sau đó
đọc lệnh trát. Sau khi đọc xong trát long châu quay mũi về hướng nam, thầy
cúng đứng trước long châu, một tay cằm long đao sáng, một tay cầm bó đóm
dâng cao và đọc hịch Bảo Ôn, lời hịch vừa dứt 20 trai kiệu khiêng long châu đi
theo pháp sư về phía nam, phía sau là dân làng cùng đi tiễn dọc theo bờ biển.
Đến cuối làng thì tiến hán « hóa » long châu.
Sau đó rước các kiệu trở về nghè và làm lễ tất (kết thúc).
 Phần hội
Bên cạnh phần lễ của lễ hội Cầu Ngư, phần hội cũng được xem là phần
quan trọng không thể thiếu. Việc tiến hành một cách song song giữa phần lễ và
phần hội trong lễ hội Cầu Ngư được coi là thích hợp và cần thiết, bởi lẽ bên
cạnh phần lễ được tổ chức một cách trang nghiêm, cẩn trọng với những nghi
thức tâm linh, thì phần hội cũng được tổ chức khá chặt chẽ và chu đáo, với các
trò chơi, đua thuyền, hát đối đáp… làm cho bầu không khí lễ hội thêm vui tươi,

náo nhiệt. Đây cũng là thời gian ngư dân được nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí xóa đi
mọi căng thẳng, mệt mỏi trong những ngày mải miết lao động vất vả tìm kế sinh
nhai, để chuẩn bị bước vào một mùa vụ mới đầy hứa hẹn.
Phần hội được tổ chức khá đa dạng bao gồm các trò diễn, trò vui chơi diễn
ra xen kẽ trong suốt 4 ngày hội của làng.
19
- Trò câu mực : Câu mực vốn là nghề truyền thống của ngư dân xã Ngư Lộc,
việc đưa trò câu mức vào hội làng được xem là rất phù hợp, bởi trò này không
những yêu cầu có kinh nghiệm mà đòi hỏi khéo léo của người chơi. Trước khi
vào lễ, ban tổ chức những mô hình cá mực bằng xốp và thả vào chậu cao đựng
nước, người câu phải dùng những cần câu có lưỡi câu chùm được gắn với nhau
bằng một lớp chì mỏng, người chơi phải quăng cần thật chính xác làm sao càng
nhiều mực càng tốt. Trò này thu hút khá nhiều người tham gia, đặc biệt là những
người có thâm niên trong nghề đi biển câu mực.
Đây không những là loại hình vui chơi mà còn là địa điểm để thay đổi
kinh nghiệm và giao lưu của những người trong nghề nghư nghiệp.
- Trò đánh tùm: Trò đánh tùm được tổ chức ở những nơi có đất bằng
phẳng, người ta khoét hai lỗ tròn có đường kính 20 cm, lỗ này cách lỗ kia 25 cm.
Trước đó, họ đã mài những viên tròn bằng gạch hoặc bằng đá viên có đường
kính 15 cm. Người tham gia không phân biệt gái trai, già trẻ. Người chơi tùm
đứng từ lỗ bên này ném viên tròn vào lỗ bên kia, nếu viên tròn nằm lọt dưới lỗ
mới là thắng, ném chúng nhiều lần theo sự giao kết chung đó là người thắng
cuộc, người thắng cuộc được làng trao thưởng bằng tiền đồng.
Trò chơi này đơn giản thu hút được nhiều người tham gia ở nhiều điểm
chơi trong cùng một lúc, tạo cho phần lễ hội thêm phần sôi nổi và cũng thỏa
mãn được mọi người khi tìm đến giây phút thăng hoa trong lễ hội.
- Hát ghẹo: Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa khá hấp dẫn đối với thanh
niên trong đời thường cũng như trong lễ hội. Tuy nhiên, hát ghẹo trong đời
thường khác hát ghẹo trong lễ hội. Nếu như hát trong đời thường là cách hát
ngẫu hứng, tự do không lệ thuộc vào quy định nào thì hát trong lễ hội là hát

cuộc, bắt buộc tuân theo trình tự. Một cuộc hát nhất thiết phải trải qua ba chặng
và chín lời, mỗi chặng gồm ba lời.
Chặng một: Đây là chặng mở đầu màn chào hỏi, sau đó dần đi vào câu
chuyện tâm tình riêng tư. Chặng này gồm ba lời: Hát dạo, hát mừng và hát tham
dò.
20
Hát dạo: Là những lời hát ướm thử, có lúc như bâng quơ:
Nữ:
Bữa ni biển lặng đêm thanh
Lòng vàng muốn mở vài canh chuyện trò
Ai người đáng bậc tài hoa
Chuông vàng dóng tiếng cho ta cất lời
Nam:
Đêm nay gặp buổi êm trời
Nhưng còn lạ cảnh lạ người lắm thay
Lần đầu anh được đến đây
Anh em cách trở, mẹ thầy xa xôi.
Nữ:
Tưởng đôi chim nhạn bay về
Ai ơi sao lại cam bề lẻ loi ?
Hát mừng: Hát những lời mừng đến làng xóm họ hàng của nhau.
Nam:
Tới đây viếng cảnh thăm hoa
Trước mừng các cố, sau là mừng dân
Sau nữa mừng cả trai tuần
Mừng cho nam nữ vui xuân hội này
Một mai đàn có bén dây
Ơn dân vạn bội, biết ngày nào quên
Nữ:
Đêm khuya giấc ngủ mơ màng

21
Chim mô đến đậu cành vàng ngáy chơi
Hát thăm dò: Là để thăm dò đối phương về gia đình, nghề nghiệp, hạnh
phúc, anh em, họ hàng, quê quán….
Nam:
Chèo thuyền ra biển ngóng trông
Gió đưa sóng lượng mà không thấy nàng
Nữ:
Chiếc thuyền be bé xinh xinh
Không vô bờ đậu cứ dập dình ngoài khơi
Nam:
Bấy lâu cách mận trở đào
Buồn nâu cá bạc ước ao duyên nào ?
Nữ:
Thuyền son đậu phải vũng đầm
Ta trâu mà gẫy đàn cầm buồn thay
Một mình chẳng dám đi xa
Áo mẹ mặc đỡ cơm cha ăn nhờ.
Chặng hai: Gồm hát đối, hát đố, hát xe kết, trong đó hát đối và hát đối là
để thử tài nhau.
Hát đối:
Nữ:
Anh ơi bốn bể đãi bằng
Anh còn tưởng gió trông trăng nỗi gì ?
22
Nam:
Thương sao thương lắm thế này
Thương đêm không ngủ thương ngày không ăn
Nữ:
Anh như chỉ gấm thêu cờ

Em như rau má nằm kề giếng khơi
Thà lặn xuống biển cho rồi
Còn hơn cách biệt mỗi người một nơi.
Hát đố:
Nam:
Mình tròn lưng lại cong cong
Dây tơ vấn vít con ong nữa vời
Chơi thì tìm chốn mà chơi
Bắt con long thổ, ghẹo người thủy chung.
Nữ:
Cả ngày se sợi chắp gai
Em không hiểu cả sông dài xa xôi
Anh về uốn lưỡi tìm mồi
Kéo cước cho thẳng, câu đôi cá chỉ vàng
Cái cần câu đúng không nào ?
Hát xe kết: Là hát khi hai bên đã có tình cảm với nhau.
Nữ:
Có lòng xin giả ơn lòng
Xa xôi cách lế đèo bồng nên chăng ?
23
Em khi thắm nhạt vàng phai
Sắc tàn nhị úa, anh bỏ hoài thân em.
Nam:
Anh thề có bóng trăng đầy
Núi tường có lở, lòng này vẫn nguyên
Gió đưa thuyền bẩy xa với
Gió với trăng là bạn, nước với trời mênh mang.
Chặng ba: Cũng gồm ba lời là hát thề, hạt dặn và hát tiễn.
Hát thề:
Nam:

Câu thề đã khắc một lời
Anh ra khơi vào lộng, để em ngồi chắp gai.
Nữ:
Đá vàng đây giữ một màu
Lòng son xin đỏ lầu lầu chớ phai
Nam:
Ra đi anh có cầu thề
Hòn Nẹ có đổ anh cũng về với em.
Hát dặn: Là những lời hát dặn giò, giữ gìn long chung sát, sắt son như
hát thề:
Nam:
Dặn em khóa ngọc then vàng
Vì em anh phải đa mang đợi chờ
24
Nữ:
Em là con gái xóm bè
Khéo đánh hát dò, khéo đề con quay
Đã mừng phận đẹp duyên may.
Lấy chồng làng Gõ em nay đợi chờ
Nam:
Được như lời nói anh mừng
Đã như lời nói, xin đừng nghe ai.
Được như lời nói không sai
Tháng giêng đến giỗ, tháng hai làm nhà
Tháng ba ăn cưới đôi ta
Đẹp duyên đẹp số mẹ cha lòng.
Nữ:
Anh về mua gỗ đóng giường
Mua tre làm vạc, mua luồng làm song
Mua thêm đôi chiếu cỗ mùng

Rồi ra em vợ anh chồng mới nên.
Hát diễn: Đó là lời hát tiễn biệt chia tay nhau
Nữ:
Anh về em những âu sầu
Còn như thả lưới bể sâu khôn dò
Nam:
Bởi lòng đã trót đã mang
Ngõ nghe nhìn xuống thêng thang Lạch Trường
Ra về lòng những vấn vương
25

×