Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Đánh giá hoạt động gia công quốc tế đối với ngành dệt may tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.42 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN QUẢN TRỊ TÁC NGHIỆP THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
SẢN PHẨM TỰ HỌC VÀ THẢO LUẬN NHÓM
Học phần: Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế
Nhóm: …1… Lớp:
Kết quả đánh giá các thành viên trong nhóm:
STT Họ và tên Lớp Mã SV Xếp
loại
Ký nhận Phân công
1 Phần II,4
2 Phần III
3 Phần II,2
4 Phần II,3
5 Tổng hợp
+ Slide
6 Phần I, 1
Thuyết trình
7 Phần I, 3
8 Phần I, 2-4
9 Phần II,1
Trưởng nhóm
(Ký và ghi rõ họ tên)

1
MỤC LỤC
2
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
diễn ra mạnh mẽ; mối quan hệ kinh tế giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên
chặt chẽ và rất phức tạp, chúng tác động rất nhiều đến sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia. Với thực tế cấp thiết trên đòi hỏi Việt Nam phải tích cực, chủ động tham gia


hội nhập với kinh tế trong khu vực và trên thế giới nhằm khai thác có hiệu quả những
thế mạnh của nền kinh tế trong nước.
Bên cạnh những hoạt động kinh tế đối ngoại đem lại hiệu quả hả cao thì các
hoạt động gia công quốc tế cũng là một phương pháp hữu hiệu nó vừa phù hợp với
thực tế nền kinh tế nước ta hiện nay.
Trong gia công quốc tế thì lĩnh vực gia công ngành dệt may đóng vai trò rất
quan trọng trong tổng sản phẩm quốc nội của nước ta.
Ngành công nghệp dệt may luôn được đánh giá là một trong ba ngày hàng có
giá trị xuất khẩu cao nhất. Dệt may Việt Nam đã trở thành một mắt xích trong chuỗi
giá trị toàn cầu ngành dệt may nhưng mới chỉ dừng lại ở khâu gia công, đăth mình vào
vị trí đáy của chuỗi giá trị toàn cầu. Chính vì vậy, khi Việt Nam thâm nhập ngày càng
sâu vào thị trường thế giới, sản phẩm dệt may Việt Nam đã được xuất đi rất nhiều nơi
và Việt Nam có trên top 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới nhưng giá trị thu
về lại rất thấp.
Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề gia công quốc tế nói chung và gia công dệt may ở
Việt Nam nói riêng nhóm 1 chọn đề tài thảo luận: “Đánh giá hoạt động gia công
quốc tế đối với ngành dệt may tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” . Nội dung
đề tài gồm có 3 phần:
I. Cơ sở lý luận
II. Thực trạng hoạt động gia công quốc tế ngành dệt may Việt Nam
III. Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động gia công quốc tế ngành dệt may
I. Cơ sở lý luận
3
1. Khái niệm và đặc điểm gia công quốc tế
a. Khái niệm
Gia công là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần
hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đăt gia công để thực hiện một hay nhiều
công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao.
Gia công quốc tế là hình thức gia công thương mại mà bên gia công hoặc bên nhận gia
công là thương nhân nước ngoài.

b. Đặc điểm gia công quốc tế
- Gia công quốc tế là một phương thức ủy thác gia công, trong đó hoạt động
XNK gắn liền với hoạt đông sản xuất.
- Trong quá trình gia công, người nhận gia công trong nước bỏ ra lao động, tiền
chi phí gia công là thù lao lao động. Do đó, có thể nói gia công quốc tế là một
hình thức mậu dịch lao động, một hình thức XK lao động tại chỗ qua hàng hóa.
- Gia công quốc tế là một hình thức buôn bán gia công “Hai đầu ở ngoài”, nghĩa
là thị trường nước ngoài là nơi cung cấp nguyên vật liệu đồng thời cũng là nơi
tiêu thụ sản phẩm đó.
Song ở đây cần lưu ý, nghiệp vụ GCQT khác với nghiệp vụ NK nguyên liệu để gia
công và XK thành phẩm (mua đứt bán đoạn). Tuy nó cùng thuộc về phương thức buôn
bán gia công “Hai đầu ở ngoài” nhưng nó có điểm khác biệt rõ rệt với gia công quốc
tế.
Gia công quốc tế
• Không có sự di chuyển quyền sở
hữu. Người cung ứng nguyên vật
liệu là người tiếp nhận thành
phẩm
• Mọi rủi ro thuộc về người đặt gia
công
• Lợi nhuận của bên nhận gia công
thấp
Mua đứt bán đoạn
• Có sự chuyển giao quyền sở hữu.
Đầu cung ứng NVL và đầu mua
thành phẩm không có sự liên hệ
• Nhà máy trong nước tự chịu mọi
rủi ro
• Lợi nhuận của nhà máy trong
nước cao hơn

2. Tác dụng của gia công quốc tế
4
Áp dụng phương thức giao dịch gia công quốc tế đều có tác dụng với bên đặt gia
công cũng như bên nhận gia công,nên gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong
thương mại quốc tế của nhiều nước.
Tác dụng đối với bên đặt gia
công
Tác dụng đối với bên nhận gia công
• Hạ thấp giá thành sản phẩm,do
đó làm tăng sức mạnh cạnh
tranh trên thị trường quốc tế
• Có thể điều chỉnh cơ cấu ngành
nghề tại nước sở tại
• Giảm tải dư thừa lao động hay thất
nghiệp,giảm tải thất nghiệp,tăng thu nhập
thêm ngoại tệ
• Phát triển nguồn lao động,tạo cơ hội việc làm
và phát triể kinh tế
• Thu hút sự đầu tư kỹ thuật hiện đại và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài,thúc
đẩy kinh tế hướng xuất khẩu phát triển
3. Các loại hình gia công quốc tế
 Xét về mặt quyền sở hữu nguyên liệu:
- Giao nguyên liệu thu sản phẩm và trả tiền gia công
- Mua đứt bán đoạn: Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công
và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ mua lại sản phẩm.
Hình thức này có lợi cho bên đặt gia công vì khi giao nguyên liệu gia công bên
đặt gia công dễ gặp phải rủi ro mất mát (chẳng hạn: mất trộm thành phẩm, hoả hoạn,
bão lụt .v.v.) , điểm lợi chính của phương thức này là bên đặt gia công không bị đọng
vốn.

Về vấn đề thanh toán tiền nguyên liệu, mặc dù bên nhận gia công phải thanh
toán nhưng nguyên liệu chưa hẳn thuộc quyền sở hữu của hoàn toàn của họ vì khi tính
tiền sản phẩm người ta thường tính lãi suất cho số tiền đã thanh toán cho bên đặt gia
công khi mua nguyên liệu của họ. Do vậy về thực chất thì tiền thanh toán cho nguyên
liệu chỉ là tiền ứng trước của bên nhận gia công và có thể coi là tiền đặt cọc để đảm
bảo thực hiện hợp đồng. Bên nhận gia công không có quyền bán sản phẩm cho người
khác.
5
Thực tế cũng có trường hợp bên nhận gia công mua đứt nguyên liệu của bên đặt
gia công và có quyền bán sản phẩm cho người khác. Trong trường hợp này thì quyền
sở hữu nguyên liệu thay đổi từ người đặt sang người nhận gia công .
- Ngoài ra người ta còn áp dụng một hình thức kết hợp trong đó bên đặt gia công
chỉ giao nguyên liệu chính còn bên nhận gia công cung cấp nguyên liệu phụ.
 Xét về giá gia công:
- Hợp đồng thực chi, thực thanh: Chi bao nhiêu cho việc gia công thì thanh toán
bấy nhiêu cộng thêm tiền thù lao gia công .
- Hợp đồng khoán gọn: Khoán luôn bao nhiêu tiền, xác định giá định mức (Target
price) cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù
chi phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi nữa thì hai bên vẫn thanh
toán với nhau theo giá định mức đó.
- Ngoài ra người ta còn áp dụng phương pháp: tính giá theo công suất dự kiến
 Xét về số bên tham gia:
- Gia công hai bên: Trong đó chỉ có một bên đặt gia công và một bên nhận gia
công
- Gia công nhiều bên (gia công chuyển tiếp): Trong đó bên nhận gia công là một
số doanh nghiệp mà sản phẩm gia công của đơn vị trước là đối tượng gia công
cuả đơn vị sau, và bên đặt gia công có thể chỉ có một và cũng có thể nhiều hơn
một.
4. Những vấn đề cần chú ý khi áp dụng phương thức gia công quốc tế
Gia công quốc tế là phương thức thương mại quốc tế mà các nước đang phát triển

trong thời kỳ công nghiệp hóa,hiện đại hóa thường áp dụng nhằm tận dụng những lợi
ích mà gia công quốc tế đem lại.Khi áp dụng những lợi ích của gia coog quốc tế vẫn
cần chú ý những vấn đề sau:
- Khi phát triển nghiệp vụ thương mại quốc tế phải có quan điểm toàn cục,chú ý
xử lý tốt với mối quan hệ xuất khẩu thông thường.
- Xác định hợp lý chi phí lao động:cần tăng cường hoạch toán kinh tế.Với nước
có giá thành gia công thấp hơn nước ngoài,khi quyết định mức chi phí lao động không
những phải xem xét có hợp lý hay không,đồng thời phải tham khảo chi phí lao động
của thị trường nước ngoài để hoạch toán ,cân nhắc hiệu quả để cho tiêu chuẩn chi phí
6
của mình vừa có sức cạnh tranh với các đơn vị gia công khác trong nước,tự ý hạ thấp
mức chi phí lao động.
- Dần dần mở rộng tỷ trọng sử dụng nguyên liệu,linh kiện nước mình sản xuất ở
những khu vực hoặc đơn vị có điều kiện cần cố gắng sử dụng nhiều linh kiện hoặc
nguyên liệu do nước mình sản xuất,tranh thủ nâng cao tỷ trọng ở mặt dần dần quá độ
sang tự kinh doanh xuất khẩu.
- Nâng cao năng lực của doanh nghiệp:Nỗ lực nâng cao năng lực của doanh
nghiệp về mọi mặt.Không ngừng nâng cao năng suất lao động,tăng khả năng cạnh
tranh về mặt chất lượng.Những đơn vị có điều kiện cần có kế hoạch dần dần nâng cao
trình độ sang gia công tập trung kỹ thuật, tập trung vốn.
II. Thực trạng hoạt động gia công quốc tế ngành dệt may Việt Nam.
1. Tình hình chung ngành dệt may Việt Nam.
Cùng với điện thoại và linh kiện, dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam trong những năm qua. Ngành dệt may Việt Nam sau hơn 20 năm liên tục phát
triển với tỷ lệ tăng trưởng bình quân 15%/năm, đến nay đã vươn lên trở thành ngành
kinh tế hàng đầu cả nước, với kim ngạch xuất khẩu đóng góp từ 10%-15% GDP hàng
năm. Việt Nam hiện là một trong 5 nhà xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới với thị
phần 4%-5%. Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU và Nhật
(chiếm trên 75% kim ngạch xuất khẩu hàng năm) với các sản phẩm may mặc chủ yếu
là các sản phẩm từ bông và sợi tổng hợp cho phân khúc thị trường cấp trung và thấp.

Năm 2013, sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu đến hơn 180 quốc gia và vùng lãnh
thổ với kim ngạch xuất khẩu đạt 17,9 tỷ USD; chiếm 13,6% tổng kim ngạch xuất khẩu
Việt Nam và 10,5% GDP cả nước. Tốc độ tăng trưởng dệt may trong giai đoạn 2008-
2013 đạt 14,5%/năm đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu dệt may nhanh nhất thế giới.
Tuy nhiên ngành công nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay chỉ tham gia vào phần
thứ 3 trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu là Cắt và May, sản xuất theo phương thức
gia công đơn giản, thiếu khả năng cung cấp trọn gói, nên giá trị gia tăng còn thấp.
Ngành dệt may Việt Nam vẫn còn phụ thuộc lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu
(khoảng 70%), chủ yếu từ thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc. Hình thức
7
xuất khẩu CMT và FOB chiếm hơn 95% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu, trong đó
CMT(Cut Make Trim – gia công thuần túy) chiếm 75.3% và FOB (Free on Broad –
Mua nguyên liệu, bán thành phẩm) chiếm 21.2%. Chỉ có khoảng 2%-3% giá trị xuất
khẩu hàng may mặc Việt Nam là ODM ( Original Design Manufacturing – chủ động từ
nguyên liệu, thiết kế, sản xuất thành phẩm). Nguyên nhân chủ yếu là do hạn chế về
trình độ nguồn nhân lực, thiếu thông tin thị trường. Tuy nhiên, liên tiếp hai năm trở lại
đây, lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu phụ liệu dệt may, khẳng định bước đầu cho sự tự
chủ.
Theo thống kê Tập đoàn dệt may Việt Nam (VINATEX) trong năm 2013, Việt
Nam có 5,982 công ty dệt may, với lực lượng lao động chiếm hơn 20% lao động trong
khu vực công nghiệp và gần 5% tổng lực lượng lao động toàn quốc. Phần lớn các công
ty được đặt tại miền Nam (62%), còn lại nằm ở miền Bắc (30%), miền Trung và Tây
Nguyên (8%). Trong đó, các công ty may chiếm tỷ trọng lớn (70%), còn lại là các công
ty dệt (17%), kéo sợi (6%), nhuộm (4%), và ngành công nghiệp hỗ trợ (3%).
Bên cạnh đó, phải kể đến sự đóng góp cao và ngày càng tăng của các doanh
nghiệp FDI trong giá trị xuất khẩu. Theo số liệu thống kê trong năm 2013 cũng như 2
tháng đầu năm 2014 đều cho thấy tỷ trọng xuất khẩu nghiêng hẳn về phía các doanh
nghiệp FDI với hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Với lợi thế ổn định chính trị-xã hội và nguồn lao động, Dệt may Việt Nam đang có

nhiều cơ hội để tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, đặc biệt khi các hiệp định thương
mại Đối tác xuyên Chấu Á - Thái Bình Dương (TTP), Hiệp đinh thương mại tự do
song phương Việt Nam - EU (FTA) được kí kết trong thời gian tới. Theo đó, mục tiêu
tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng thị trường nội địa theo Quy hoạch phát triển
ngành công nghiệp Dệt May đến năm 2020, tầm nhìn 2030 của Bộ Công Thương sẽ
đạt khoảng 10%-12%/năm.
Mặc dù vậy, các doanh nghiệp trong ngành dệt may vẫn phải đối mặt với không ít
khó khăn, thách thức khi hội nhập sâu với thị trường quốc tế: sự cạnh tranh gay gắt
giữa các nước xuất khẩu, các rào cản thương mại ngày càng tăng từ các thị trường
8
nhập khẩu lớn, nhất là từ Hoa Kỳ với các yêu cầu khắt khe về trách nhiệm xã hội, nhãn
mác sinh thái, bảo vệ môi trường…
2. Thực trạng hoạt động gia công quốc tế ngành dệt may Việt Nam.
a. Gia công quốc tế là thực trạng tất yếu của ngành dệt may Việt Nam
 Nguồn lao động dồi dào nhưng thiếu trình độ:
Nguồn lao động Việt Nam là một nguồn lao động dồi dào và giá rẻ, mà hoạt động
gia công bản chất là hình thức mậu dich( bán sức lao động), hơn nữa các hoạt động gia
công mặt hàng may mặc là một lợi thế cho Việt Nam do ngành dệt may, thủ công hay
làm việc thông qua sức lao động đã được người dân Việt Nam quen làm.
Trình độ và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam không quá cao, chủ yếu là lao
động phổ thông nên công việc gia công vẫn là một công việc quan trọng và chiếm tỷ lệ
lớn hiện nay. Trong chuỗi giá trị toàn cầu hàng dệt may, khâu có lợi nhuận cao nhất là
thiết kế mẫu, cung cấp nguyên phụ liệu và thương mại. Nhưng doanh nghiệp dệt may
Việt Nam chủ yếu là các nhà thầu may trong khu vực, hầu như không thực hiện qua
trình thiết kế và không có khả năng tự thiết kế xây dựng thương hiệu bởi nguồn nhân
lực không đủ trình độ. Chính vì vậy, mặc dù Việt Nam đang nằm trong top 5 quốc gia
xuất khẩu hàng dệt may nhưng ngành công nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay gần như
chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng, dược đánh giá là tạo ra giá trị gia
tăng thấp nhất, với tỷ suất lợi nhuận chỉ chiếm khoảng 5% - 10%.
 Không tự chủ được nguyên vật liệu và các điều kiện cung ứng:

Mặc dù vẫn biết rằng hoạt động gia công của chúng ta trong chuỗi cung ứng trong
ngành dệt may toàn cầu mang lại giá trị gia tăng thấp( chỉ khoảng từ 5% dến 7%), tuy
nhiên do hạn chế trong việc cung ứng các nguồn hàng, nguồn nguyên nhiên vật liệu
(70%-80% nhập khẩu nguyên liệu từ phía Trung Quốc, Ấn Độ , Indonesia… ) thiếu về
khả năng tự chủ trong việc cung ứng các điều kiện về cơ sở, trang thiết bị máy móc
hiện đại … nhìn chung là hoạt động sản xuất và tự cung ứng yếu tố đầu vào của Việt
Nam còn yếu và có nhiều hạn chế hơn so với các nước đối thủ cạnh tranh. Biện pháp
tốt nhất trong trường hợp này là tiến hành gia công thuê cho các đối tác nước ngoài
truyền thống như Mỹ, Anh, Hà Lan, Nhật Bản… và cần thiết phải tiến hành tìm kiếm
9
và thu hút thêm các đối tác mới, các nước này có đủ các nguồn cung ứng trong quá
trình sản xuất,có các nguồn nguyên liệu, công nghệ… cung cấp trực tiếp cho các doanh
nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp chỉ cần thực hiện và gia công sản phẩn theo đúng yêu
cầu cầu đơn đặt hàng là được. Vì thế đây là một hoạt động vô cùng quan trọng nó
không chỉ giúp giải quyết vấn đề về nguồn nguyên vật liệu, trang thiết bị và hơn thế
nữa là khả năng giải quyết vấn đề việc làm. (Với số lượng dân trên 9 triệu dân, là thời
kỳ dân số vàng, lực lượng lao động trong giai đoạn này là vô cùng dồi dào nếu không
giải quyết tôt vấn đề việc làm thì có thể lực lượng này sẽ là một gánh nặng cho xã hội
trong tương lai).
b. Tình hình hoạt động gia công quốc tế tại tại các doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay
 Xuất khẩu dệt may tăng trưởng mạnh
Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam tăng đều qua các năm và hiện trở thành
mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ 2 của nước ta. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu
dệt may Việt Nam đạt 17,9 tỷ USD; tăng 18,5% so với cùng kỳ; chiếm 13,6% tổng kim
ngạch xuất khẩu Việt Nam. Nếu tính cả giá trị xuất khẩu xơ, sợi với 2,15 tỷ đồng; tổng
giá trị xuất khẩu dệt may và xơ, sợi năm 2013 đạt 20,1 tỷ đồng; thấp hơn 1,15 tỷ đồng
so với nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là điện thoại các loại và linh kiện.
10
 Tăng trưởng mạnh tại các thị trường chính

Trong khi các thị trường lớn đều giảm nhập khẩu nhưng xuất khẩu dệt may của
Việt Nam lại tăng. Cụ thể, thị trường Mỹ giảm nhập khẩu dệt may 5% nhưng xuất
khẩu của Việt Nam vào Mỹ lại tăng 12%. Thị trường châu Âu giảm 5% nhưng xuất
khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường này vẫn tăng 3%. Tương tự, thị trường Nhật
Bản, Hàn Quốc đều có tốc độ tăng trưởng 20%, trong đó, xuất khẩu sang thị trường
Hàn Quốc vượt mốc 1 tỷ USD.
Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc là 4 đối tác nhập khẩu hàng dệt may lớn
nhất của Việt Nam. Năm 2013, tổng kim ngạch hàng dệt may xuất sang 4 thị trường
này đạt 15,3 tỷUSD, chiếm tới 85,5% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả
nước. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ liên tục tăng mạnh qua
các năm và đạt 8,6 tỷ USD năm 2013; chiếm 48% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may
Việt Nam. Đồng thời trong số các nhóm hàng của Việt Nam xuất sang thị trường Hoa
Kỳ thì hàng dệt may dẫn đầu với tỷ trọng chiếm 38% tổng kim ngạch xuất khẩu.
11
Cơ cấu xuất khẩu vào các thị trường chính
 Phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu
Ngành dệt may có tính gia công lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, phụ
thuộc khá lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Theo thống kê của VITAS, hiện nay
hơn 70% nguyên phụ liệu dệt may vẫn phải nhạp khẩu. Xuất khẩu của ngành đạt mức
tăng trưởng khá nhưng nhập khẩu cho sản xuất của ngành cũng tăng mạnh (13,3%).
Kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may trong năm 2013 khá cao với kim ngạch
13,5 tỷ USD, bằng 67,16% kim ngạch xuất khẩu dệt may.
Bông là nguyên liệu chính cho ngành dệt may. Theo báo cáo mới đây của
VITAS, nhu cầu sử dụng bông hàng năm của Việt Nam khoảng hơn 400 nghìn tấn và
ngày càng tăng. Tuy nhiên, nguyên liệu trong nước hiện nay chỉ có thể đáp ứng được
khoảng 5000 tấn bông/năm (khoảng 1,2%). Phần còn lại tương ứng 98.8% phải nhập
khẩu, chủ yếu từ Mỹ và Ấn Độ. Thực tế này là do điều kiện thời tiết không thuận lợi và
do quỹ đất hạn chế cho nông nghiệp.
Xơ, sợi tổng hợp: Nhập khẩu xơ, sợi nguyên liệu của Việt Nam năm 2013 ước
đạt 692 nghìn tấn, trị giá 1,520 triệu USD, tăng 7.5% về giá trị so với năm 2012. Thị

trường nhập khẩu chính của Việt Nam vẫn là Đài Loan và Trung Quốc, tiếp theo là
12
Thái Lan và Hàn Quốc. Bên cạnh đó, các nhà mấy kéo sợi đầu tư nước ngoài là nguồn
cung chính cho nhu cầu sợi ngày càng tăng của Việt Nam trong những năm gần đây
như Tainan Việt Nam, Texhong Việt Nam (Trung Quốc), Kuyng Bang (Hàn Quốc)
Vải: Theo dự báo của VITAS năm 2013 ngành dệt may Việt Nam cần sản xuất
trong nước cũng chỉ sản xuất được tối đa 5 tỷ mét vải đáp ứng 50% nhu cầu, số còn lại
tiếp tục nhập khẩu. Trung Quốc và Hàn Quốc là hai nhà cung cấp vải lớn nhất của dệt
may Việt Nam, thị phần lần lượt chiếm 46.3% và 20.4% năm 2013, tiếp theo là Đài
Loan và Nhật Bản.
Nhập khẩu nguyên phụ liệu khác: Năm 2013, nhập khẩu NPL khác đạt 2.46
tỷ USD, tăng 18.2% so với năm 2012. Máy móc, phụ tùng hóa chất, thuốc nhuộm dùng
cho dệt, kéo sợi đều phải nhập khẩu.
 Áp lực cạnh tranh lớn
Không chủ động được nguyên, phụ liệu trong nước, phải phụ thuộc vào các nhà
cung cấp nước ngoài đã làm hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam, khiến giá trị gia tăng trong sản phẩm dệt may còn thấp. Đặc biệt, dệt
may Việt Nam hiện đang chịu áp lực cạnh tranh mạnh mẽ của một số nước, khiến xuất
khẩu vào một số thị trường sụt giảm. Tuy đạt mức tăng trưởng kim ngạch tương đối
khá so với cùng kỳ nhưng lợi nhuận của các doanh nghiệp trong ngành đang có nguy
cơ giảm bởi sức tiêu thụ của thị trường thế giới chưa thực sự hồi phục; doanh nghiệp
ngành dệt may vẫn tập trung xuất khẩu những mặt hàng trung và thấp cấp, sự cạnh
13
tranh quyết liệt từ các nước xuất khẩu hàng dệt may khác như Trung Quốc, Đài Loan,
Ấn Độ,… đã dẫn tới tình trạng đơn giá giảm từ đầu năm tới nay.
Dệt may là một trong số ít các ngành của nước ta có lợi thế so sánh và khả năng
cạnh tranh với các quốc gia khác, nên được Chính phủ xác định là một trong những ưu
tiên tại bàn đàm phán các hiệp định thương mại tự do. Để hàng dệt may được hưởng
ưu đãi thuế nhập khẩu của các nước này, sản phẩm phải đáp ứng điều kiện về xuất xứ
theo các điều khoản của hiệp định như quy tắc bắt đầu từ sợi hoặc quy tắc bắt đầu từ

vải… Thế nhưng, ngoại trừ Vinatex và một số ít doanh nghiệp có lực để đầu tư vào sản
xuất sợi, dệt và vải, phần lớn vẫn đang chờ chính sách chung của Nhà nước cho phát
triển công nghiệp hỗ trợ, trong đó có dệt may, mà khâu thiết yếu nhất là xây dựng các
khu công nghiệp dệt nhuộm có hệ thống xử lý nước thải. Trong khi đó, nhiều doanh
nghiệp FDI với ưu thế vượt trội về nguồn vốn, công nghệ, đang triển khai các dự án
đầu tư lớn vào sản xuất nguyên phụ liệu và may mặc để đón đầu cơ hội ưu đãi thuế từ
các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam sắp ký kết. Nhiều chuyên gia kinh tế
cảnh báo, dệt may Việt Nam sẽ xuất khẩu “hộ” các doanh nghiệp FDI.
Những năm gần đây, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu
nguyên phụ liệu dệt may mở ra bước khởi đầu cho sự tự chủ của ngành dệt may Việt
Nam. Liên tiếp trong 2 năm 2012 và 2013 ngành dệt may Việt Nam đã xuất khẩu
khoảng 800 triệu USD giá trị phụ liệu cho sản xuất hàng may mặc. Tuy nhiên ngành
dệt may Việt Nam hiện nay đang tập trung làm ở khâu sợi và may, còn nguyên liệu đầu
vào như trồng bông, hóa chất, thuốc nhuộm chưa làm được. Hiện sản lượng bông trong
nước chỉ đáp ứng được 1%, 99% phải nhập khẩu. Do đó, để nâng cao sức cạnh tranh
hơn nữa, tới đây phải tiếp tục đầu tư công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may. Tuy
nhiên, đầu tư dệt nhuộm cần vốn rất lớn, đòi hỏi các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
trong nước phải được cụ thể hóa bằng các giải pháp thiết thực, hiệu quả, bên cạnh việc
thu hút FDI. Chấp nhận miếng bánh bị chia đôi, song ít nhất đôi bên cũng có lợi, còn
hơn nhập nguyên liệu của Trung Quốc để rồi không hưởng được gì.
3. Những khó khăn trong hoạt động gia công quốc tế ngành dệt may Việt Nam
 Cơ chế và các chính sách
14
Các thị trường lớn như Mỹ và EU vận dụng khá nhiều các rào cản về kỹ thuật,
vệ sinh, an toàn, môi trường, trách nhiệm xã hội, chống trợ giá nhằm bảo hộ sản xuất
trong nước. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, không đủ tiềm lực
để theo đuổi các vụ kiện chống bán phá giá, dẫn đến thua thiệt trong các tranh chấp
thương mại. Các rào cản thương mại trên đã được vận dụng ngày càng linh hoạt và tinh
vi hơn, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Hoa kỳ yêu cầu sản khẩu dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ, đưởng hưởng thuế 0%

phải được sản xuất từ sợi trở đi trong khu vực TPP (sợi – dệt – nhuộm – vải – may).
Trong khi Việt Nam bảo vệ quan điểm giữ nguyên tắc cắt – may đo (tức là tính xuất xứ
từ vải trở đi). Điều này đã gây ra nhiều trở ngại cho ngành dệt may Việt Nam vì ngành
công nghiệp phụ trợ của Việt Nam chưa đủ mạnh. Hệ quả là nước ta phụ thuộc lớn vào
nguồn cung nguyên liệu từ nước ngoài, chiếm gần 88% tổng nhu cầu. Phần lớn những
nước mà Việt Nam nhập nguyên phụ liệu lại không nằm trong TPP.
 Thiếu nguyên phụ liệu để sản xuất
Năm 2013 các doanh nghiệp dệt may tiếp tục đối mặt với hạn chế lớn đó là thiếu
nguyên liệu, phụ liệu. Đa phần nguyên phụ liệu sản xuất vẫn còn phải nhập khẩu.
Thiếu nguyên phụ liệu sản xuất khiến giá trị xuất khẩu không cao, lương công nhân dệt
may giảm
Tính đến nay ngành dệt may mới chỉ nội địa hóa được khoảng 48% nguồn nguyên
phụ liệu nên giá trị thặng dư của ngành khó được cải thiện. Cụ thể hiện nay mới chỉ
đáp ứng 2% nhu cầu bông, 1/8 nhu cầu vải. Tuy nhiên chất lượng chưa được đảm bảo.
Mặc dù tỷ lệ nội địa hóa đang từng bước được cải thiện, mỗi năm tăng từ 3% - 5%,
những vẫn còn thấp khá xa so với mức 90% của Ấn Độ và 95% của Trung Quốc.
Theo dự báo của VITAS trong vài năm tới, nhập khẩu nguyên liệu trong lĩnh vực
dệt may sẽ vẫn tiếp tục tăng, một phần do diện tích trồng bông của Việt Nam – mọt
trong những nguyên liệu chính của sản xuất dệt may hiện chưa được đầu tư và phát
triển tương ứng với quy mô ngành.
15
 Thiết bị công nghệ
Công nghệ là yếu tố cơ bản đảm bảo cho quá trình sản xuất đạt hiêu quả cao.
Máy móc thiết bị làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm; giảm chi phí sản xuất từ đó
làm giảm giá thành sản phẩm. Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
hiện nay trình độ công nghệ vẫn còn kém, một số ít doanh nghiệp có máy móc hiện đại
còn đa phần là máy móc thô sơ và quy mô nhỏ, năng suất kém dẫn đến hoạt động gia
công xuất khẩu kém hơn so với các nước khác về cả chất lượng và số lượng.
Ngoài ra trình độ nhân lực gia công ngành dệt may nước ta còn kém, chưa sử
dụng được hết công suất của máy móc hiện đại chính vì vậy sản phẩm làm ra chất

lượng không cao, mẫu mã không đa dạng nên ít được thị trường chấp nhận và yêu
thích, không đáp ứng được yêu cầu của bên đặt gia công.
Tròn khi đó Trung Quốc hiện vẫn là nhà sản xuất máy móc lớn nhất trong lĩnh
vực dệt may toàn cầu. Ngành công nghiệp dệt may Trung Quốc có lợi thế rõ ràng về
giá so với các nước gia công khác như Việt Nam.
 Năng suất lao động thấp
16
Công tác quản lý năng suất, chất lượng lao động tại các doanh nghiệp dệt may đã
được đầu tư quan tâm và cải thiện trong các năm gần đây, tuy nhiên năng suất lao động
vẫn thấp hơn các nước trong khu vực.
So với các quốc gia khác, năng suất lao động khu vực sản xuất của Việt Nam rất
thấp. Chỉ số năng suất lao động khu vực sản xuất của Việt Nam chỉ đạt 2.4; trong khi
các quốc gia sản xuất dệt may lớn khác như Trung Quốc, Indonesia là 6.9 và 5.2. Đây
là một trong những điểm yếu lớn nhất của dệt may nói riêng và các ngành công nghiệp
sản xuất thâm dụng lao động nói chung của nước ta.
Điều này làm ảnh hưởng rất nhiều đến giá thành, làm giảm tính cạnh tranh của sản
phẩm. Đồng thời gây khó khăn trực tiếp lên các doanh nghiệp khi sức ép về chi phí
nhân công ngày càng tăng trong khi năng suất lao động lại không tương ứng.
Theo thống kê, chi phí cho một đơn vị sản phẩm gia công của Việt Nam đều cao
hơn từ 15-20% mặt hàng tương tự của Trung Quốc, Bangladesh, Pakistan. Tuy giá lao
động rẻ
nhưng năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam nói chung không cao, chỉ bằng
2/3 mức bình quân các nước ASEAN, chi phí nguyên phụ liệu (phần lớn phải nhập
17
khẩu) và khâu trung gian cao làm sản phẩm thiếu tính cạnh tranh. Ngoài ra, Trung
Quốc - đối
thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam đang thực hiện kế hoạch 10 năm (2001-2010)
với
mục tiêu tăng gấp đôi GDP trong đó ngành dệt may giữ vai trò nòng cốt nhằm khai
thác

lợi thế hội nhập WTO và có tốc độ tăng trưởng sản xuất hàng năm cao, đạt 6%.
 Khó khăn từ các chính các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
 Doanh nghiệp thiếu chủ động và mạo hiểm
Các doanh nghiệp Việt Nam với tập quán kinh doanh khá bị động, các hơp đồng
gia công mà phầ lớn các công ty nhận là loại gia công mà bên dạt gia công tiến hành
cung ứng tất cả các yếu tố đầu vào cần cho quá trình sản xuất, kể cả công nghê, các
bản thiêt kế, quy trình sẵn có, doanh nghiệp Việt Nam chỉ đơn giản là thực hiện đúng
theo tiêu chuẩn sẵn có mà hầu như không phải khó khăn gì. Tất nhiên hoạt động càng
đơn giản thì phí gia công càng thấp, ngược lại nến các doanh nghiệp biết tận dụng
được năng nực và cố gắng tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc giành quyền thực hiện,
tự tìm kiếm các nguồn lực đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn của đối tác thì dĩ
nhiên doanh nghiệp Việt sẽ bơt thụ động hơn. Các doanh nghiêp nên cố gắng tìm kiếm
bạn hàng và nguồn cung ứng rẻ sẽ giúp công ty gia tăng hơn khoản lợi nhuận.Dần dần
thực hiện các hoạt động mua đứt bán đoạn nguồn nguyên liệu.
Hiện nay hầu hết hoạt động liên kết các doanh nghiệp ngành phụ kiện liên quan
đến hoạt động gia công không được liên kết chặt chẽ, do đó doanh nghiệp kém linh
hoạt hơn để có thể thực hiện các hoạt động gia công nhiều bên (hay còn gọi là gia công
chuyển tiếp: sản phẩm của doanh nghiệp này là sản phẩm gia công của doanh nghiệp
khác), mà đơn thuần chỉ thực hiện hoạt động gia công hai bên. Điều này hạn chế việc
doanh nghiệp có thể chuyển dịch các hoạt động gia công mà mình kém lợi thế hơn,
hoặc thiết khả năng để hòa thành chất lượng đúng theo yêu cầu của đôi tác, nêu không
có sự liên kết nhiều khi doanh nghiệp sẽ mất đai cơ hội gia công có lợi nhuận cao.
Kém hiểu biết và hơi thiếu sự linh hoạt trong việc nhìn nhận và đáp ứng nhu cầu
người tiêu dùng cũng là một yếu điểm lớn, làm giảm khả năng canh tranh đối với các
đối thủ cạnh tranh.
18
 Khả năng đàm phán về giá kém.
Thực chất hoạt đông gia công bản chất là mậu dịch lao động (mua bán sức lao
động) nó có vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, lợi nhuận của công
ty, trên thực tế thì các doanh nghiệp gia công thiếu đi việc đáng giá một cách chính xác

yếu tố này, điều này dẫn tới là nếu định giá quá cao thì không tạo dựng được lợi thế
cạnh tranh đối với đôi thủ mà đánh giá quá thấp thì không thể bù đắp được chi phí,
doanh nghiệp thua lỗ, lương trả cho công nhân là không đủ chi cho hoạt động hàng
ngày tất yếu là họ sẽ không thể tái sản xuất sức lao động
 Hoạt động gia công quan tâm quá nhiều đến lợi ích doanh nghiệp mà quên đi lợi
ích xã hội.Các doanh nghiệp Việt Nam cũng như nhà nước chưa thực sự nhân thức
được tác động tiêu cực này đối với Việt Nam.
Hoạt đông gia công không được nhà nước quan tâm sâu sắc là nguyên nhân cho
việc các doanh nghiệp nhân gia công không tuân thủ quy định pháp luật về việc xử lý
rác thải, các doanh nghiệp nhận đặt gia công có thể cung ứng sang các nguyên liệu
độc hai, chứa nhiều chất độc hại mà trong khi sản xuất gia công chúng có thể được thải
ra các hệ thống nước, không khí… dĩ nhiên là các công ty đặt gia công không phải
quan tâm quá nhiều đến vấn đề này ở nướ bên nhận gia công, họ hầu như không phải
chịu trách nhiện trước hoạt động này , không phải chui phí hay chịu áp lực từ các quy
định của Việt Nam. Nếu hoạt động quản lý và vận hành pháp luật không tốt sẽ gây ra
hậu quả lớn tất yếu là “Việt Nam sẽ là bãi giác thải của thế giới”
Các hoạt động gian lận thương mại có thể xuất hiện: Gian lận trong thương mại
có thể đến từ doanh nghiệp trong nước hoặc thậm chí là bên đặt gia công, các bên sử
đụng các chiêu thuật, lỗ hổng trong quản lý xuất nhập khẩu của nhà nước làm lợi cho
bản thân.
• Các doanh nghiệp Việt Nam có thể gian lận, thiếu uy tín và làm việc
ngắn hạn, chỉ quan tâm đến lợi nhuận trước mắt: Nhiều doanh nghiệp làm ăn trộp
dật… Ví dụ như khi tiến hành bàn giao và giao nguyên vật liệu gia công cho Việt
Nam, nhiều doanh nghiệp có thể chuyển đổi, thay thế các nguyên vật liệu đó bằng các
nguyên vật liệu khác kém chất lượng hơn, hay việc ăn chộm nguyên vật liệu bán
19
Điều này làm giảm uy tín, mất lòng tin đối với bên đặt gia công, không đảm bảo chất
lượng theo yêu cầu, chính doanh nghiệp Việt lại chính là người bồi thường thiệt hại,
hầu hết thì số tiền đền bù cao hơn rất nhiều lợi nhuận tỏng việc thay thế, lùa đảo, gian
lận kiểu trên. Nhiều khi doanh nghiệp sẽ phải đóng cửa do không chịu nổi mức bồi

thường thiệt hại…
• Gian lận thương mại có thể đến từ bên đặt gia công: Nhiều trường hợp
bên đặt gia công không trả tiền gia công theo đúng hợp đồng, gian lận với các điều
khoản hợp đồng, cố tình không trả tiền gia công theo quy định, đặt gia công nhưng
mục đính chính là thải một lượng lớn nguyên liệu thừa, không thể xủ dụng tại nước
mình cho bên việt nam để trốn tránh trách nhiệm trong việc xử lý chúng…
Hiệu quả và giá trị thực sự mang lại chưa cao: Thực chất hiệu quả và các giá trị
mang lại khi tiến hành gia công may mặc tại Việt Nam không đem lại nhiều lợi ích
thực sự cho các doanh nghiệp Việt. Nếu muốn tăng giá trị gia tăng trong hoạt động này
đòi hỏi các doanh nghiệp phải sáng tại chủ động, có phương hướng chuyển dịch dần
dần từ gia công đến chủ động xuất khẩu trực tiếp sang nước khác.
Chủ yếu thỏa thuận giá xuất khẩu theo giá FOB: Điều này phụ thuộc và chịu
ảnh hưởng trực tiếp từ phong cách làm việc, doanh ngiệp muốn đơn giản hóa, giảm bớt
nhiệm vụ và chuyển dịch rủi ro sang cho người mua, chi phí, trách nhiệm của chúng ta
được giảm bớt, công việc cũng đơn giảm hơn nên phí và các khoản giá trị gia tăng là
không cao.
Thủ tục hải quan: Hoạt động xuất nhập khẩu mặt hàng rệt may cũng chịu ảnh
hưởng lớn từ các quy đinh và quy trình thủ tục hải quan, để hiệu qua hơn thì đòi hỏi có
một quy tình thủ tục hải quan rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xuất nhập
khẩu mặt hầng này dễ dàng hơn.
Các hoạt động gia công gắn mác nhãn hiệu theo yêu cầu và đơn đặt hàng của
đối tác không được các doanh nghiệp cũng như nhà nước quan tâm do hệ thống quản
lý kém hiệu quả, hệ thống thông tin, hiểu biết hệ thống luật pháp quốc tế là chưa cao
dẫn tới việc tiến hành gắn nhãn mác sai quy định pháp luật, bị đối tác lợi dụng để gia
công các mặt hàng trái quy định luật pháp quốc tế, tiếp tay cho bên đặt gia công thực
20
hiện các hành vi làm giả, làm nhái sản phẩm nổi tiếng trên thế giới, vi phạm luật pháp
và gây ra những hậu quả vô cúng đáng tiếc.
Gia công Việt Nam thiếu sự kết hợp đồng bộ, gắn kết, mặc dù đã thành lập các
hiệp hội dệt may việt nam, đăng các thông tin liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu

hàng may mặc nói chung và hoạt động gia công nói riêng tuy nhiên hiệu quả mang
không cao do tính áp dụng chưa cao,thiếu tính kịp thời và sự kết hợp, hợp tác, thương
thảo, giao lưu giữa các công ty gia công trên diễn đàn và hiệp hội là chưa cao, không
xây dựng được mối quan hệ lâu dài, bền chặt, giao tiếp thẳng thắn, cởi mở mà vẫn còn
dựa trên việc canh tranh quá mức…
 Về kinh nghiệm và khả năng học hỏi:
Việt Nam trong quá trình đổi mới và phát triển thông qua hoạt đông gia công
quôc tế có thể tích lũy thêm các kiến thức thực tế và các kiến thực công nghệ, học hỏi
tác phong và văn hóa là việc và đàm phán, khả năng thông hiểu nhu cầu và xu hướng
thời trang, tiêu dùng và khả năng nhận định chính xác các xu hướng chung của ngành
dệt may, từ đó phát triển khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường nước ngoài. Một số
doanh nghiệp Việt Nam đã nhận định đúng và tận dụng được cơ hội này và thực sự
phát triển như may Việt Tiến, May Mười, Nhà Bè… tuy nhiên phần lớn các doanh
nghiệp còn lại khá thụ động và thiếu linh hoạt, sự nhạy bén, khả năng nghiên cứu nhu
cầu thị trường và không tạo dung được mối quan hệ lâu dài đối với các đối tác lớn. Vì
thế hầu như các công ty tại Việt Nam chỉ dừng lại với công việc gia công thuần tủy:
tức là thụ dộng chờ đợi nguồn nguyên liệu trang thiết bị mà đối tác cung cấp cho bên
mình, mà không chủ động yêu cầu và đề nghị việc cải tiến và tự cung ứng nguồn
nguyên liệu, thiếu khả năng thiết kế và kém trong việc đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị
trường nước ngoài. Điểm hình là: các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể cung cấp
được vài màu sắc ( màu đen, tráng, ghi ) hay kiểu dáng sản phẩm không đa dạng( chỉ
tuân theo các quy chuẩn cũ về may mặc, sản xuất và chỉ giám nhận những sản phẩm
gia công đơn giản và mang tính truyền thống và có ít tính mạo hiểm ), không như đối
với các đối thủ của chúng ta trong ngành gia công may mặc là Trung Quốc,
21
Bangladesh, Ấn Độ …Họ có khả năng nghiên cứu thị trường tốt hơn chúng ta,khả
năng nghiên cứu và phát triển của Trung Quốc là một ví dụ điểm hình: Họ có thể cung
ứng cho đối tác tất cả nhừng ga màu độc đáo, ấn tượng, khả năng in, phun, sơn, pha
màu ( màu vàng, xanh, tía ) , kiếu dáng thay đổi theo mùa, thậm chí đáp ứng dung
theo nhu cầu và tiêu chuẩn tiêu dùng của từng quốc gia( Hà Lan thích sụ lich thiệp,

trang nhã, màu chủ yếu là màu ghi, đem…Anh thích các sản phẩm mang tính chất tự
do….) nhìn chung thì khả năng học tập kinh nghiêm công nghệ của Việt Nam trong
lĩnh vực gia công may mặc là kém hơn đối thủ cạnh tranh, nguyên nhân chủ yếu vẫn là
tính bị động là thiếu sự mạo hiểm và tính sáng tạo.
4. Cơ hội và thách thức đối với hoạt động gia công xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam.
a. Cơ hội
- Sản xuất dệt may đang có xu hướng chuyển dịch sang các nước đang phát triển
trong đó Việt Nam là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất, qua đó tạo thêm cơ hội
và nguồn lực mới cho các doanh nghiệp dệt may về cả tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ
sản xuất, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ các quốc gia phát triển.
- Việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế
giới tạo điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng dệt may.
- Những cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được
sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, và mở ra những thị trường mới và các quan hệ hợp
tác mới.
- Thị trường nội địa với dân số 91,5 triệu dân và mức sống ngày càng được nâng
cao là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp dệt may.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào dệt may Việt Nam (FDI) liên tục tăng, đặc biệt
trong giai đoạn gần đây khi kỳ vọng về TPP và FTA EU-Việt Nam tăng lên. Các
doanh nghiệp FDI thường có trình độ công nghệ, kỹ thuật cao sẽ giúp nâng cao năng
lực cạnh tranh của dệt may Việt Nam.
- Cơ hội khi ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình
Dương (TPP): Việt Nam hiện xuất khẩu khoảng 1.000 dòng sản phẩm dệt may vào
Hoa Kỳ với thuế suất bình quân 17-18%. Hiệp định TPP được kỳ vọng sẽ cắt giảm
mức thuế quan này dần về 0%. Theo dự báo của Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS),
22
với triển vọng Hiệp định TPP, xuất khẩu dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ có thể tăng
trưởng 12-13%/năm và có thể đạt 30 tỷ USD vào năm 2025, đưa quy mô xuất khẩu
toàn ngành năm 2025 đạt khoảng 55 tỷ USD. Bên cạnh đó, nếu TPP thúc đẩy tốt đầu tư

vào nguyên liệu như dự kiến thì các chỉ tiêu về xuất siêu, giá trị gia tăng và tỷ lệ nội
địa hóa của ngành sẽ đều được nâng cao. Dự kiến ngành sẽ về đích sớm với mục tiêu
đạt tỷ lệ nội địa hóa 60% vào năm 2015 và 70% vào năm 2020.
- Cơ hội khi ký kết Hiệp định FTA EU – Việt Nam. Theo Dự án hỗ trợ chính
sách thương mại và đầu tư của châu Âu (MUTRAP), FTA EU-Việt Nam sẽ giúp tăng
trưởng đầu tư của EU vào ngành công nghiệp dịch vụ của Việt Nam, tăng cường xuất
khẩu của Việt Nam sang EU và cơ hội nâng cấp trình độ kỹ thuật của Việt Nam thông
qua việc nhập khẩu hàng hóa chiến lược với mức giá thấp hơn. Bên cạnh đó, tự do hóa
thương mại sẽ giúp tăng nguồn thu nhập quốc gia (nguồn thu từ hàng hóa nhập khẩu
lớn hơn nguồn chi từ sự giảm thuế), cán cân thương mại được cân bằng. FTA EU –
Việt Nam sẽ giúp giảm mức thuế hiện tại mà EU áp đối với mặt hàng may mặc Việt
Nam từ 11,6% xuống 0%. Cụ thể, 5 mặt hàng may mặc xuất khẩu nhiều nhất sẽ được
hưởng lợi là com-lê nữ, nam; áo khoác nam, nữ và hàng dệt kim. Đồng thời, giá trị
xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào EU tăng trưởng trung bình 6%/năm khi FTA dự
kiến được ký kết vào cuối năm 2014 và có hiệu lực vào năm 2015.
b. Thách thức
- Xuất phát điểm của dệt may Việt Nam còn thấp, công nghiệp phụ trợ chưa thực
sự phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu, tỷ lệ gia công cao, là thách thức lớn
khi hội nhập kinh tế toàn cầu.
- Môi trường chính sách chưa thuận lợi. Các văn bản pháp lý của Việt Nam còn
đang trong quá trình hoàn chỉnh, trong khi năng lực của các cán bộ xây dựng và thực
thi chính sách, cũng như các cán bộ tham gia xúc tiến thương mại còn yếu.
- Các thị trường lớn vận dụng khá nhiều các rào cản về kỹ thuật, vệ sinh, an toàn,
môi trường, trách nhiệm xã hội, chống trợ giá nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Nhiều
doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, không đủ tiềm lực để theo đuổi các vụ
kiện chống bán phá giá, dẫn đến thua thiệt trong các tranh chấp thương mại. Các rào
23
cản thương mại trên đã được vận dụng ngày càng linh hoạt và tinh vi hơn, đặc biệt là
trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
- Mặc dù chính sách của Chính phủ khuyến khích đầu tư vào ngành công nghiệp

phụ trợ nhưng các địa phương có xu hướng không thu hút đầu tư vào các ngành dệt
nhuộm vì vấn đề môi trường.
- Các doanh nghiệp FDI tạo ra sự cạnh tranh đáng kể với các doanh nghiệp trong
nước về đơn hàng, nguyên liệu đầu vào, lao động,…
III. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hoạt động gia công quốc tế ngành dệt may
Việt Nam.
 Từng bước củng cố thị trường truyền thống và chú trọng hơn nữa đến thị
trường nội địa thông qua việc nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng.
 Đẩy mạnh giải pháp trong phát triển sản xuất nguyên phụ liệu, tăng tỷ lệ
nội địa hóa. Nhằm xây dựng dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp
mũi nhọn, hướng về xuất khẩu và có khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước
ngày càng cao, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc vào nền kinh tế khu
vực và thế giới, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định 3218/QĐ-BCT phê duyệt
Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030. Theo đó, quy hoạch dệt may sẽ tập trung phát triển 7 khu vực gồm:
đồng bằng sông Hồng, trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, duyên hải Nam
Trung bộ, Đông Nam bộ, ĐBSCL và Tây nguyên. Dựa vào thế mạnh của từng vùng,
quy hoạch định hướng tập trung đầu tư để hình thành các trung tâm thiết kế thời trang,
trung tâm sản xuất mẫu mã; cung cấp dịch vụ, nguyên phụ liệu; phát triển các dự án
sợi, dệt, nhuộm; đẩy mạnh chuyên môn hóa các cây nguyên liệu dệt như bông, dâu,
tằm…
 Tăng cường kết nối các doanh nghiệp dệt may và doanh nghiệp sản xuất
nguyên phụ liệu trong nước để tận dụng được lợi thế. Đồng thời liên kết với các hiệp
hội dệt may ở khu vực ASEAN.
 Tiếp tục đầu tư và phát triển công nghệ phụ trợ cho ngành dệt may.
 Xây dựng đội ngũ có kiến thức về thị trường, marketing sản phẩm, có
thiết kế phù hợp thị hiếu thì mới có thể thâm nhập và đưa mẫu của nhà thiết kế Việt
Nam đến thị trường.
24
 Thu hút các dự án đầu tư vào các lĩnh vực mà ngành dệt may đang cần

gia tăng hàm lượng công nghệ, như: dệt, nhuộm, sản xuất sợi.
 Dịch chuyển nhanh từ gia công với tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu cao
sang hình thức sản xuất tự chủ nguyên liệu (FOB) và sản xuất trọn gói kèm thiết kế
(ODM) để đáp ứng yêu cầu người mua và tạo giá trị gia tăng cao hơn là hướng đi tất
yếu và cần được ưu tiên của dệt may Việt Nam.
25

×