Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Luận văn thạc sỹ - Rủi ro thanh khoản tại ngân hàng TMCP Á Châu. Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.41 KB, 94 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
đã nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, kết quả của luận văn là trung
thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên.
Hà Nội, ngày …tháng… năm
2013
Người cam đoan
Lương Thị Thanh Vân
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
TCTD : Tổ chức tín dụng
TTCK : Thị trường chứng khoán
CSTT : Chính sách tiền tệ
DTBB : Dự trữ bắt buộc
RRTK : Rủi ro thanh khoản
ALCO : Hội đồng quản lý TSN và TSC
DN : Doanh nghiệp
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
ACB : Ngân hàng TMCP Á Châu
TSN : Tài sản nợ
TSC : Tài sản có
PBOC : Ngân hàng Trung ương Trung Quốc
CCTCPS : Công cụ tài chính phái sinh
CKDT : Chứng khoán đầu tư
DTDH : Đầu tư dài hạn
TGTT : Tiền gửi thanh toán
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của luận văn
NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Nội
dung hoạt động chủ yếu của NHTM là thường xuyên nhận tiền gửi, đi vay
và dùng số tiền huy động đó để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán. Chính vì vậy ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro: tín dụng,
thanh toán, ngân quỹ…Mọi rủi ro đều có ảnh hường tiêu cực đến bản thân
ngân hàng nhưng rủi ro mất khả năng chi trả không những ảnh hưởng đến
hoạt động của chính bản thân ngân hàng mà còn gây tác động xấu đến thị
trường tài chính- tiền tệ. Một ngân hàng dù lớn hay nhỏ nếu rơi vào tình
trạng mất khả năng chi trả có thể sẽ gây phản ứng dây chuyền trong hệ
thống theo các mức độ khác nhau.
Chính vì lẽ đó khả năng chi trả NHTM và đối tượng quản lý của NHNN.
Một trong các khâu quan trọng của quản trị NHTM là quản lý thanh khoản
với mục tiêu hạn chế và phòng ngừa rủi ro về mất khả năng thanh khoản.
Ngày nay, thị trường tài chính đang trên đà phát triển mạnh mẽ, mở ra
ngày càng nhiều cơ hội cho các ngân hàng thương mại, song đi cùng nó cũng
kéo theo rất nhiều rủi ro. Trong các loại rủi ro thì rủi ro thanh khoản được
xem là “ rủi ro nguy hiểm nhất”. Thanh khoản là yếu tố rất quan trọng trong
hoạt động kinh doanh của bất kỳ ngân hàng thương mại nào. Thực tế chỉ một
hay hai ngân hàng gặp rủi ro về thanh khoản có thể lây lan sang ngân hàng
khác. Trong khi đó bản thân một ngân hàng thương mại sẽ không đủ sức
chống đỡ được rủi ro hệ thống. Điển hình là hậu quả của cuộc khủng hoảng
kinh tế kéo dài từ năm 2008 đến nay tình hình thanh khoản của các ngân hàng
trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết.Chính vì vậy, bên cạnh sự hỗ trợ của ngân
hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại cổ phần cần đặc biệt quan tâm đến
rủi ro thanh khoản, không chỉ vì an toàn của chính ngân hàng mình mà còn vì
an toàn chung của cả hệ thống tài chinh tiền tệ.
1
Ngân hàng ACB với hoạt động chủ yếu là đi vay để cho vay và cung ứng
các dịch vụ khác. Từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu nhăm

đánh giá hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro thanh khoản tại ngân hàng. Đó là
lý do tôi chọn đề tài:” Rủi ro thanh khoản tại ngân hàng TMCP Á Châu.
Thực trạng và giải pháp” để viết luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu luận văn
Trên cơ sở lý luận về rủi ro thanh khoản tại ngân hàng thương mại, mục
đích của đề tài khóa luận là tập trung làm rõ các vấn đề:
- Hệ thống hóa những vấn đề về rủi ro thanh khoản và quản lý rủi ro
thanh khoản của ngân hàng thương mại để có những căn cứ đánh giá thực
trạng rủi ro thanh khoản tại ngân hàng.
- Phân tích đánh giá thực trạng rủi ro thanh khoản tại NH ACB trong
thời gian quan để đề xuất các biện pháp hạn chế rủi ro thanh khoản tại ngân
hàng TMCP Á Châu.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm tăng cường công tác hạn chế rủi ro thanh
khoản tại ngân hàng TMCP Á Châu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Thanh khoản và rủi ro thanh khoản, quản lý rủi
ro thanh khoản tại ACB
- Phạm vi nghiên cứu: thanh khoản, rủi ro thanh khoản, thực trạng rủi ro
thanh khoản ngân hàng TMCP Á Châu những năm gần đây.
- Nội dung: Nghiên cứu thực trạng và giải pháp hạn chế RRTK tại NHTM.
- Không gian: Nghiên cứu về quản trị RRTK tại NHTMCP Á Châu.
- Thời gian: Luận văn xem xét thực trạng RRTK và các biện pháp hạn
chế RRTK tại NHTMCP Á Châu trong 3 năm: 2010, 2011, 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học kinh
tế, từ phương pháp duy vật biện chứng và duy vạt lịch sử, đến phương pháp
thống kê, phân tích, tổng hợp, quy nạp…để làm rõ nộ dung nghiên cứu.
2
5. Phương pháp tiếp cận đề tài:
Nghiên cứu các văn bản thuộc quy phạm pháp luật liên quan, các cơ chế

chính sách của cơ quan quản lý, các chế độ nội bộ trong hệ thống bên cạnh đó
luận văn sử dụng phương pháp toán với sự trợ giúp của kỹ thuật vi tính đồng
thời có tham khảo một số công trình, tài liệu có liên quan đã công bố, tiếp cận
thực tiễn hoạt động của ngân hàng TMCP Á Châu.
6.Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, chữ viết tắt, dan mục
tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận rủi ro thanh khoản của các NHTM
Chương 2: Thực trạng rủi ro thanh khoản tại ngân hàng TMCP Á Châu
Chương 3:Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro thanh khoản tại ngân
hàng TMCP Á Châu
Trong quá trình tìm tòi nghiên cứu, em cảm thấy đây là một đề tài khó và
đòi hỏi lượng kiến thức rất lớn từ kinh tế vĩ mô đến vi mô. Tuy đã cố gắng
nhưng do hạn chế kinh nghiệm thực tiễn nên chắc chắn bài viết không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Em hi vọng nhận được sự ủng hộ cũng như ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo để có thể hoàn thiện luận văn và cũng là kinh
nghiệm đáng quý cho những lần nghiên cứu về sau.
Cuối cùng, xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới Phó GS. TS
Nguyễn Kim Anh đã tận tình hướng dẫn, định hướng và giúp đỡ em trong quá
trình viết luận văn. Đồng thời, xin cảm ơn chân thành các thầy cô giáo khoa
Tài chính- Ngân hàng, trường Học Viện Tài Chính đã trang bị cho em kiến
thức nền tảng về phương pháp luận nghiên cứu khoa học cũng như kiến thức
về Tài chính- Ngân hàng để em có thể hoàn thành luận văn này.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO THANH KHOẢN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NHTM và rủi ro trong hoạt động kinh doanh NHTM
1.1.1. Các khái niệm
Ngân hàng thương mại( NHTM) đã hình thành tồn tại và phát triển hàng

trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển của
nền kinh tế hàng hóa đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát
triển của nền kinh tế, ngược lại kinh tế hàng hóa phát triển đến giai đoạn cao
nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và
trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được trong hệ thống tài
chính quốc gia.
Cho đến nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
Ở Mỹ: “ Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên
cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài
chính”
Ở Pháp: “ Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề
nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức khác,
hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó do chính họ trong
nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng, tài chính”.
Theo luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ban hành năm 2010( điều 4, khoản 3) chỉ rõ: “ Ngân hàng
thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm
mục tiêu lợi nhuận”. Trong đó, “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có
thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật
4
này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm
ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã”. Cũng
theo Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa: “ Tổ chức tín dụng (TCTD) là
doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ
chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức
tài chính vĩ mô và quỹ tín dụng nhân dân”.
Như vậy từ những định nghĩa trên có thể thấy, NHTM là một định chế
tài chính trung gian quan trọng trong nền kinh tế thị trường mà đặc trưng
là cung cấp các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi,

cho vay và cung ứng dịch vụ thanh toán. Nhờ hệ thống định chế tài chính
trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ
được huy động, tập trùn sử dụng để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế và
cá nhân với mục đích phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2. Nghiệp vụ cơ bản trong kinh doanh ngân hàng thương mại
a, Nghiệp vụ nguồn vốn của NHTM( Tài sản Nợ-TSN)
Đây là nghiệp vụ tạo nguồn kinh doanh cho NHTM gọi là nghiệp vụ
nợ, đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của ngân
hàng. Hoạt động nguồn vốn được phản ánh thông qua kết cấu nguồn vốn
của NHTM, gồm:
* Vốn của ngân hàng: Bao gồm vốn tự có và vốn coi như tự có
- Vốn tự có gồm: Vốn điều lệ và các quỹ dự trữ.
Vốn điều lệ: Là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, ghi trong bản
điều lệ của ngân hàng, được hình thành ngay từ khi NHTM được thành lập.
Quy mô vốn điều lệ của NHTM lớn hay nhỏ tùy thuộc vào quy mô của ngân
hàng. Tuy nhiên vốn điều lệ phải đảm bảo điều kiện ít nhất vốn pháp định do
pháp luật quy định cho các NHTM ở nước đó. Vốn điều lệ được sử dụng vào
mục đích mua sắm tài sản , trang thiết bị ban đầu cần thiết cho hoạt động của
5
ngân hàng, góp vốn liên doanh, cho các thành phần kinh tế vay và thực hiện
dịch vụ khác của ngân hàng.
Quỹ dự trữ: Được hình thành từ hai quỹ là quỹ dự trữ bổ sung vốn điều
lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Các quỹ này được trích từ lợi nhuận
ròng hàng năm của ngân hàng. Ngoài ra, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ còn
bao gồm cả thặng dư vốn phát hành cổ phiếu và vốn phát hành trái phiếu
chuyển đổi thành cổ phiếu. Việc hình thành các quỹ này nhằm tăng vốn tự có
của NHTM, đồng thời đảm bảo an toàn trong kinh doanh
- Vốn coi như tự có:
Bao gồm các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của ngân hàng. Đây là khoản
vốn được phân bổ cho những mục đích chi tiêu nhất định nhưng tạm thời

chưa được sử dụng như: Lợi nhuận chưa phân phối, tiền lương chưa đến hạn
thanh toán, thuế chưa đến kỳ hạn nộp…
* Vốn huy động: Đây là nguồn vốn quan trọng nhất trong số vốn thu hút
từ bên ngoài của các NHTM, gồm: Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm… Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là
nguồn vốn quan trọng nhất của NHTM. Đây là nguồn vốn tương đối ổn định
vì ngân hàng nắm được những kỳ luân chuyển của vốn. Vì vậy, ngân hàng có
thể cho vay ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn được.
* Vốn đi vay: Nguồn vốn đi vay có vị trí quan trọng trong tổng nguồn
vốn của NTMH. Thuộc loại này bao gồm:
- Vay từ Ngân hàng trung ương (NHTW). Ở Việt Nam NHNN cho
NHTM vay các loại sau:
+ Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn: tài trợ vốn theo kế
hoạch, chỉ phân phối cho các NHTM quốc doanh.
+ Chiết khấu và tái chiết khấu.
+ Cho vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ của các TCTD.
6
- Vay từ các TCTD khác, vay từ công ty mẹ, vay thị trường tài chính
trong nước, vay nước ngoài…
* Các nguồn vốn khác: Bao gồm vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn
ủy thác để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng, vốn hình thành từ
trong quá trình hoạt động của ngân hàng, ví dụ nghiệp vụ qua lại đồng
nghiệp…
b, Nghiệp vụ sử dụng vốn( Tài sản có- TSC)
Nghiệp vụ TSC của NHTM bao gồm nghiệp vụ liên quan đến việc sử
dụng nguồn vốn của ngân hàng, gồm:
* Nghiệp vụ tiền mặt: Nhằm đảm bảo khả năng thanh toán thường
xuyên, ngân hàng phải luôn giữ một lượng tiền dưới dạng như: Tiền mặt tại
quỹ, tiền kim loại bằng bảng tệ và ngoại tệ. Tiền mặt có khả năng thanh khoản
cao nhưng không có khả năng sinh lời.

* Nghiệp vụ tiền gửi: Thông thường NHTM duy trì các loại tài khoản
tiền gửi sau đây:
- Tiền gửi dự trữ bắt buộc tại NHTW( ở Việt Nam là Ngân hàng nhà
nước). Ở Việt Nam dự trữ bắt buộc chỉ áp dụng cho loại tiền gửi kỳ hạn dưới
12 tháng với tỷ lệ thay đổi phù hợp với chính sach tiền tệ quốc gia. Theo quy
định hiện hành NHNN Việt Nam, chỉ có ngân hàng mẹ chịu trách nhiệm duy
trì tiền gửi dự trữ bắt buộc tại NHNN, các chi nhánh và đơn vị trực thuộc
không phải duy trì tiền gửi dự trữ bắt buộc.
- Tiền gửi thanh toán tại NHNN và KBNN. Để thực hiện thanh toán giữa
khách hàng, các khoản thanh toán khác NHTM mở tài khoản thanh toán tại
các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nói trên và duy trì số dư đảm bảo
nhu cầu thanh toán hàng ngày. Theo mô hình Việt Nam hiện nay ngân hàng
mẹ mở tài khoản tại SGD NHNN, các chi nhánh trực thuộc mở tài khoản tại
các chi nhánh NHNN các tỉnh
7
- Tài khoản tại các tổ chức tín dụng khác. Tùy thuộc vào nhu cầu các
ngân hàng mở tài khoản thanh toán và duy trì số dư trên tài khoản đó tại các
tổ chức tín dụng khác để thực hiện thanh toán ngoài hệ thống, thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh khác; cũng như thanh toán song phương.
- Tài khoản tại Ngân hàng Nước ngoài. Theo luật định các ngân hàng
được phép làm dịch vụ thanh toán quốc tế được mở tài khoản ngoại tệ tại các
ngân hàng nước ngoài. Trong thực tế Việt Nam hầu hết các ngân hàng đều
quản lý tập trung việc mở tài khoản TGTT tại Ngân hàng Nước ngoài.
* Nghiệp vụ cho vay: Tín dụng ngân hàng bao gồm các hình thức: Cho
vay, bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê tài chính trong đó cho vay là hoạt động
kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi suất thu được
từ cho vay mới bù đắp được chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh
doanh và quản lý, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư. Quyết định
493/2005/ QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của thống đốc NHNN Việt Nam ban
hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro

tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng, chất lượng tín
dụng phân ra các loại nợ như sau:
Nợ nhóm I: Nợ đủ tiêu chuẩn
Nợ nhóm II: Nợ cần chú ý
Nợ nhóm III: Nợ dưới tiêu chuẩn
Nợ nhóm IV: Nợ nghi ngờ
Nhợ nhóm V: Nợ có khả năng mất vốn
* Nghiệp vụ đầu tư: Là nghiệp vụ mà NHTM dùng vốn của mình mua
các chứng khoán hoặc đầu tư theo dự án. Ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín
dụng còn cho phép NHTM dùng vồn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua
cổ phần của doanh nghiệp hay của TCTD khác. Hiện nay NHTM có thể tham
gia đầu tư dưới dạng:
8
- Mua trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, tham gia thành lập các
doanh nghiệp khác….Thông thường đây là các khoản đầu tư dài hạn.
- Mua kỳ phiếu, giấy tờ có giá khác do các NHTM khác phát hành. Cá
loại giấy tờ chủ yếu ngắn hạn. Mục tiêu đầu tư là tạo khả năng thanh khoản và
thu nhập.
- Thành lập các công ty trực thuộc như công ty chứng khoán, công ty xử
lý và thu hồi nợ…
* Tài sản cố định và tài sản có khác: Bao gồm những khoản chính sau:
Trụ sở và thiết bị
Bất động sản khác thuộc sở hữu ngân hàng
Tài sản vô hình và tài sản có khác
c, Các nghiệp vụ khác của ngân hàng:
* Bảo lãnh: Bằng uy tín và khả năng tài chính của chính mình, ngân
hàng có thể cung cấp dịch vụ bảo lãnh như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh
toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và cá hình thức bảo lãnh
khác cho tổ chức và cá nhân. Trong trường hợp, khi ngân hàng thực hiện cam
kết của mình đối với bên nhận bảo lãnh người được bảo lãnh không có hoặc

chưa có vốn để thực hiện nghĩa vụ của mình với ngân hàng thì các khoản phải
trả thay của ngân hàng được xem như là nợ của người được bảo lãnh đối với
ngân hàng.
* Bao thanh toán: Là nghiệp vụ thông dụng đối với cá nước kinh tế phát
triển còn với Việt Nam hiện nay thì khá mới mẻ. NHTM được kinh doanh
nghiệp vụ này chỉ sau khi được NHNN Việt Nam cho phép. Kỹ thuật bao
thanh toán có thể hình dung như kỹ thuật chiết khấu chứng từ có giá. Có
nghĩa là NHTM mua lại bộ chứng từ thanh toán của người bán và trả cho
người bán một số tiền nhất định. Quyền đòi nợ bên mua được chuyển cho
ngân hàng.
9
* Cho thuê tài chính: Tham gia dưới hai hình thức hoặc là cho vay cá
công ty cho thuê tài chính, hoặc là tham gia với tư cách người bảo lãnh các
hợp đồng thuê mua, hoặc tham gia vốn thành lập công ty thuê mua để thực
hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính với mục đích sinh lời.
1.1.3. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Dưới góc độ tài chính, rủi ro được hiểu là” Xác suất lợi nhuận thực tế
thu được từ một khoản đầu tư thấp hơn so với mong đợi”.
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nên cũng phải đối diện với rủi ro.
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được hiểu là: “ Những sự kiện xảy ra
ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của NHTM”. Rủi
ro có thể được đo lường cho các loại sản phẩm dịch vụ khác nhau của ngân
hàng. Thông thường mức lợi nhuận mong đợi càng cao thì xác suất xảy ra rủi
ro càng lớn.
1.2. RRTK trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.1. Khái niệm và biểu hiện rủi ro thanh khoản trong hoạt động
kinh doanh NHTM
a, Khái niệm thanh khoản và rủi ro thanh khoản.
Dưới góc độ tài sản: “ Thanh khoản là khả năng chuyển hóa thành tiền
của tài sản và ngược lại. Một tài sản được xem là thanh khoản khi đáp ứng

các tiêu chí sau: Có sẵn lượng để mua hoặc bán, có sẵn thị trường để giao
dịch, có sẵn thời gian để giao dịch, giá cả hợp lý”.
Trong thực tế những tài sản có tính thanh khoản cao gồm các giấy tờ có
giá như: Tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, lệnh phiếu, hối phiếu những
tài sản có tính thanh khoản thấp như bất động sản(BĐS) , dây chuyền sản
xuất, máy móc thiết bị…
Dưới góc độ ngân hàng: “Thanh khoản là khả năng ngân hàng đáp ứng
đầy đủ và kịp thời các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động
10
giao dịch như chi trả tiền gửi, cho vay, thanh toán và các hoạt động giao dịch
tài chính khác”.
Khả năng và yêu cầu về thanh khoản được thể hiện trong nguồn cung và
cầu thanh khoản:
Cung thanh khoản Cầu thanh khoản
-Nhận tiền gửi từ khách hàng
-Doanh thu từ các dịch vụ
-Tín dụng được hoàn trả
-Bán tài sản
Vay từ thị trường tiền tệ
-Khách hàng rút tiền gửi
-Cấp tín dụng cho khách hàng
-Hoàn trả các khoản đi vay
-Chi phí nghiệp vụ về thuế
-Chi trả cổ tức bằng tiền
Sự khác biệt giữa cung và cầu thanh khoản xác định trạng thái thanh
khoản ròng của ngân hàng( NLP)
Trạng thái thanh khoản ròng= Tổng cung thanh khoản- Tổng cấu thanh khoản
- Nếu NLP> 0: Ngân hàng phải đối mặt với thặng dư thanh khoản, cần
xác định nên đầu tư khoản thặng dư thanh khoản này như thế nào cho đến khi
cần sử dụng để đáp ừng nhu cầu thanh khoản trong tương lai.

- Nếu NLP< 0: Ngân hàng phải đối diện với thâm hụt thanh khoản, cần
xác định bổ sung vốn thanh khoản ở đâu, khi nào?
* Bản chất của RRTK
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, thanh khoản là một thuật ngữ
chuyên ngành nói về khả năng đáp ứng các nhu cầu về vốn khả dụng phục vụ
cho hoạt động kinh doanh tại mọi thời điểm như chi trả tiền gửi, giải ngân cho
vay, thực hiện chuyển khoản thanh toán… Nếu một NHTM mất khả năng đáp
ứng các nhu cầu này thì có thể nói NHTM đã rơi vảo tình trạng khó khăn
thanh toán.
Đến nay, khi nghiên cứu về thanh khoản, đã có nhiều quan điểm khác nhau
về RRTK. Theo tác giả cuốn sách Commercial bankinh- the management of risk,
Benton E.Gup thì:” RRTK là tổn thất phát sinh từ trạng thái thiếu hụt tiền mặt
11
hoặc tài sản tương đương tiền, hay đặc biệt hơn là rủi ro về tổn thất phát sinh
từ trạng thái thiếu khả năng thu xếp được nguồn tài trợ mức độ hợp lý về chi
phí, bán hay thu xếp một tài sản với mức giá hợp lý, nhằm trang trải một
nghĩa vụ đã được dự tính hoặc bất định”.
Theo tác giả cuốn sách Quản trị NHTM, Phan Thị Cúc thì: “ Đây là loại
rủi ro xuất hiện trong trường hợp các ngân hàng thiếu khả năng chi trả, không
chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền, hoặc không có khả năng vay mượn để
đáp ứng các hợp đồng thanh toán”.
Như vậy có nhiều ý kiến khác nhau về RRTK nhưng tổng hợp lại nhìn từ
góc độ NHTM, có thể hiểu: RRTK là rủi ro phát sinh từ trạng thái mà
NHTM không có được đủ vốn khả dụng- cung thanh khoản vào thời điểm
NHTM cần để đáp ứng cầu thanh khoản, trạng thái này tác động xấu đến
uy tín, thu nhập và khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng.
RRTK của NHTM là một trong các dạng rủi ro tài chính, có 2 mặt của
vấn đề:
- Rủi ro thiếu thanh khoản- nguy cơ ngân hàng không có khả năng hoàn
trả đúng hạn các khoản nợ phải trả và buộc phải bans một phần tài sản hoặc

vay vốn trên thị trường với điều kiện không thuận lợi để cải thiện thanh khoản
- Rủi ro thừa thanh khoản- Nguồn vốn thanh khoản cao khả năng sinh lời
thấp. Ngân hàng dự trữ thanh khoản vượt yêu cầu sẽ làm cho thu nhập của
ngân hàng giảm.
Rủi ro tiềm ẩn làm mất cân đối thanh khoản có thể ẩn trong:
- Sự không phù hợp giữa cơ cấu TSN- TSC
- Thay đổi tỷ giá ngoại tệ
- Thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ
- Mức độ ổn định tài sản nợ
- Chất lượng và khả năng biến tấu cơ cấu TSC
12
* RRTK đến từ TSN: phát sinh bất kỳ lúc nào khi người gửi tiền rút tiền
dúng hạn hoặc trước hạn nhưng NHTM không có sẵn nguồn vốn để thanh
toán, chi trả. Với lượng tiền gửi lớn ngân hàng buộc đi vay vốn bổ sung trên
thị trường tiền tệ, huy động vốn với chi phí vượt trội…
* RRTK đến từ TSC: phát sinh liên quan đến việc thực hiện các cam kết,
tín dụng cho vay. Có cam kết tín dụng cho phép người vay vốn tiến hành rút
tiền bất cứ lúc nào theo thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Ngân
hàng phải đảm bảo đủ tiền ngay lập tức đáp ứng nhu cầu khách hàng nếu
không sẽ phải đối diện với việc mất uy tín trên thị trường , thậm chí đối mặt
với việc mất khả năng thanh toán. Ngân hàng phải HĐV mới với chi phí cao
hoặc bán tài sản với giá thấp.
* RRTK từ hoạt động ngoại bảng: RRTK đến từ hoạt động ngoại bảng
ngày càng tăng. Khi các nghĩa vụ thanh toán bất thường xảy ra: cam kết bảo
lãnh, thanh toán các hợp đồng kỳ hạn…Khi đó ngân hàng sẽ phải đối diện với
RRTK nếu không có kế hoạch chuẩn bị thanh khoản kịp thời.
Đây là các tình huống mà các nhà quản trị điều hành NHTM không bao
giờ muốn bị xảy ra trong quá trình hoạt động. Vì vậy các nhà quản trị ngân
hàng phải quan tâm xây dựng các biện pháp dự phòng để tránh.
b. Những biểu hiện RRTK trong hoạt động kinh doanh NHTM

Lòng tin của công chúng: Sự tin tưởng của công chúng là một trong
những dấu hiệu quan trọng để đánh giá khả năng thanh khoản của một ngân
hàng tốt hay xấu. Nếu một ngân hàng không duy trì đủ lượng tiền mặt hoặc
không có khả năng hoàn trả các khoản tiền mà khách hàng yêu cầu ngay lập
tức thì điều này sẽ xói mòn lòng tin của công chúng vào ngân hàng. Ngược
lại, nếu một ngân hàng có được sự tin tưởng của người gửi tiền thì điều này
có nghĩa rằng khách hàng đã đặt niềm tin vào khả năng hoàn trả cả gốc và lãi
của ngân hàng hay đồng thời với việc ngân hàng đó thừa nhận là có khả năng
13
thanh khoản cao.
Sự biến động giá cổ phiếu của ngân hàng: Khi giá cổ phiếu của ngân
hàng có xu hướng giảm, chứng tỏ tính hấp dẫn của chúng đối với nhà đầu tư
đã giảm đi, ảnh hưởng lớn đến tâm lý của người gửi tiền. Người dân có xu
hướng rút tiền khỏi ngân hàng để gửi tiền sang ngân hàng khác hoặc đầu tư
vào những kênh có lợi nhuận cao hơn, trong khi đó các khoản cho vay đến
hạn thanh toán không được thanh toán hoặc không đáp ứng được nhu cầu
thanh khoản, dẫn đến cầu thanh khoản lớn hơn cung thanh khoản khiến cho
ngân hàng rơi vào tình trạng RRTK. Ngược lại, giá cổ phiếu hoặc tăng hoặc
giữ nguyên được thì sẽ củng cố lòng tin và tâm lý nơi công chúng vào khả
năng thanh toán của ngân hàng.
Áp dụng mức lãi suất huy động cao hơn thị trường: Tại sao một ngân
hàng lại chấp nhận áp dụng mức lãi suất huy động tiền gửi, kỳ phiếu, trái
phiếu và chấp nhận mức lãi suất đi vay cao hơn mức lãi suất trên thị trường
một cách bất thường hoặc phải đi vay với điều kiện về tài sản đảm bảo chặt
chẽ hơn? Nếu xảy ra tình trạng như vậy thì chứng tỏ một dấu hiệu là ngân
hàng đang gặp khó khăn thanh khoản trong hoạt động kinh doanh của mình.
Lỗ từ việc bán tài sản: Khi ngân hàng bán tài sản một cách vội vã và sẵn
sàng chịu lỗ lớn chứng tỏ ngân hàng đang gặp phải một vấn đề nào đó trong
vấn đề thanh khoản. Bán tài sản có nghĩa là ngân hàng sẽ phải chấp nhận mất
đi những khoản thu nhập tạo ra từ tài sản trong tương lai cũng như các chi phí

giao dịch trả cho người môi giới liên quan đến việc bán tài sản.
Thiếu khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng: Cho vay là
một trong những hoạt động quan trọng nhất của NHTM vì hoạt động này tạo
nhiều lợi nhuận nhất và kéo theo các nghiệp vụ khác phát triển. Do đó, khi
ngân hàng không đáp ứng đầy đủ và kịp thời các cam kết tín dụng thì chứng
tỏ ngân hàng đang thiếu nguồn cung thanh khoản
Thường xuyên vay vốn từ ngân hàng trung ương (NHTW): NHTW
14
giữ vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM. Cho nên, khi một
ngân hàng có dấu hiệu buộc phải đi vay NHTW với khối lượng lớn và thường
xuyên thì ngân hàng đó cần phải xem xét lại chính sách quản lý thanh khoản
của mình để lấy lại niềm tin của công chúng.
Nếu như xuất hiện bất cứ một dấu hiệu thị trường nào nêu trên đây mà
không có các biện pháp củng cố khả năng thanh khoản kịp thời thì nguy cơ
ngân hàng đó rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản là không nhỏ. Các
nhà quản trị ngân hàng cần phải tập trung xem xét lại một cách các chính sách
và thực tiến công tác quản lý thanh khoản của ngân hàng để giải quyết xem
những thay đổi gì cần phải thực hiện để cải thiện khả năng thanh khoản và lấy
lại niềm tin nơi công chúng
1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường RRTK
Theo Peter Rose, tác giả cuốn Commercial Banking Management, trong
những năm gần đây, một số phương pháp đo lường rủi ro thanh khoản đã
được phát triển bao gồm: Phương pháp tiếp cận nguồn và sử dụng thanh
khoản; phương pháp cung cầu thanh khoản; phương pháp chỉ số thanh khoản
và một số phương pháp khác. Mỗi phương pháp nêu trên đều được xây dựng
dựa trên một số giả định là ngân hàng chỉ có thể ước lượng gần đúng mức cầu
thanh khoản thực tế tại một thời điểm nhất định. Đó chính là lý do vì sao nhà
quản lý thanh khoản phải luôn sẵn sàng điều chỉnh mức dự tính về yêu cầu
thanh khoản mỗi khi ngân hàng nhận được thông tin mới
a) Phương pháp tiếp cận vốn và sử dụng vốn

Phương pháp này dựa trên một thực tế là: Khả năng thanh khoản của
ngân hàng tăng khi tiền gửi tăng và cho vay giảm. Ngược lại, nó giảm khi tiền
gửi giảm và cho vay tăng.
Bất cứ khi nào nguồn thanh khoản và sử dụng thanh khoản không bằng
nhau, NHTM đều phải đối mặt với khe hở thanh khoản. Các bước chính trong
15
phương pháp này gồm:
 Bước 1: Ước lượng nhu cầu vay vốn và lượng tiền gửi trong giai đoạn
ngân hàng ước tính trạng thái thanh khoản (giai đoạn kế hoạch).
 Bước 2: Tính toán những thay đổi dự tính về cho vay và tiền gửi trong
giai đoạn kế hoạch:
- Khả năng thanh khoản tăng khi tiền gửi tăng và cho vay giảm
- Khả năng thanh khoản giảm khi tiền gửi giảm và cho vay tăng
 Bước 3: Xác định khe hở thanh khoản: khe hở này được đo bằng
chênh lệch giữa tổng cung thanh khoản và cầu thanh khoản.
- Khi cung thanh khoản> cầu thanh khoản: khe hở này được đo bằng
chênh lệch giữa tổng cung thanh khoản và tổng cầu thanh khoản.
- Khi cung thanh khoản< cầu thanh khoản: ngân hàng sẽ có khe hở thanh
khoản âm xuất hiện hay ngân hàng sẽ phải đối mặt với thâm hụt thanh khoản.
Một công cụ hữu ích là lập bản báo cáo thanh khoản ròng, ghi chép
thống kê tất cả luồng tiền phản ánh nguồn tạo nên thanh khoản và số tiền
ngân hàng đã thực sự sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
b) Phương pháp cung cầu thanh khoản
Nếu như phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn giúp ngân
hàng đo lường cả nguồn cung và cầu thanh khoản thì phương pháp tiếp cận
cấu trúc vốn chỉ quan tâm đến cầu thanh khoản. Đây là phương pháp đo lường
phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm, đánh giá của nhà quản trị NH. Phương
pháp nay bao gồm các bước sau:
- Bước 1:Tiền gửi và các nguồn vốn khác của NH được phân chia thành
nhiều nhóm dựa trên khả năng bị rút vốn khỏi NH cụ thể:

+ Nguồn vốn nóng: Vốn vay và tiền gửi nhạy cảm với lãi suất howacj
dự tính sẽ bi rút khỏi ngân hàng trong kỳ kế hoạch.
+ Nguồn vốn kém ổn định: Các khoản tiền gửi của khách hàng trong đó
16
có một phần đáng kể(25-30%) sẽ có thể bị rút khỏi NH tại một thời điểm nào
đó trong kỳ kế hoạch
+ Nguồn vốn ổn định: ( TG cơ sở hay vốn cơ sở) khoản mục vốn mà
các nhà quản trị ngân hàng tin tưởng rằng ít có khả năng bị chuyển khỏi ngân
hàng
-Thứ 2: Xác định yêu cầu thanh khoản cần thiết cho nguồn vốn trên.
Nhà quản lý thanh khoản phải dành riêng một phần vốn thanh khoản tùy théo
những nguyên tắc quản lý đối với mỗi nhóm vốn trên bằng các quy định tỷ lệ
dự trữ thanh khoản cho từng nhóm vốn trên.
-Thứ 3: Xác định yêu cầu dự trữ thanh khoản đối với khoản cho vay
chất lượng. Đối với cho vay, NH luôn phải sẵn sàng thực hiện các khoản cho
vay chất lượng cao vào mọi lúc, nghĩa là đáp ứng nhu cầu tín dụng hợp pháp
của những KH thỏa mán các tiêu chuẩn cho vay của NH đề ra.
-Thứ 4: Xác định tổng yêu cầu thanh khoản của NH. Tổng yêu cầu thanh
khoản của NH được xác định bằng tổng yêu cầu dự trữ thanh khoản vốn và
yêu cầu thanh khoản cho vay:
Tổng dự trữ thanh khoản= Dự trữ thanh khoản vốn+ Dự trữ thanh khoản cho vay
-Thứ 5: Dự đoán yêu cầu thanh khoản một cách chính xác hơn, nhà quản
trị sẽ tiếp tục xây dựng các tình huống trong điều kiện khác nhau và xác định
xác suất xảy ra cho từng tình huống.
c) Phương pháp tiếp cận chỉ số thanh khoản
Sử dụng các chỉ số tài chính cũng là một cách để ước tính yêu cầu thanh
khoản dựa trên kinh nghiệm và mức bình quân ngành. Mỗi chỉ số thể hiện
một khía cạnh về năng lực thanh khoản của ngân hàng:
17
-Tỷ lệ khả năng chi trả

Chỉ số khả năng chi trả=Tổng TSC có thể TT ngay/Tổng TSN sẽ đến hạn TT ngay
Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh khoản của NH trong tương lai,
phản ánh trạng thái thanh khoản ngắn hạn của NH bằng việc sử dụng TSC có
thể thanh toán ngay đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ đến hạn thanh toán. Nếu chỉ
số này càng cao thì NH được xem là có khả năng thanh toán ngắn hạn càng
cao và ngược lại.
-Chỉ số trạng thái tiền mặt:
Chỉ số cơ cầu TG=(Tiền mặt + tiền gửi tại các TCTD khác)/ Tổng TS
Chỉ số này thể hiện khả năng thanh toán nhanh của NH tại thời điểm báo
cáo.Về lý thuyết, nếu chỉ số trạng thái tiền mặt càng lớn thì NH càng có khả
năng thanh khoản tức thời để xử lý các nhu cầu tiền mặt tức thời. Tuy nhiên
nếu chỉ tiêu này quá cao thì lại giảm lợi nhuận của NH vì đây là tài sản không
sinh lời hoặc hầu như không sinh lời cho NH. Điều này thể hiện công tác
quản lý thanh khoản của NH chưa hiệu quả về chi phí cho dù có hạn chế được
RRTK.
-Chứng khoán thanh khoản(CKTK)
CKTK=(CK kinh doanh+Ck sẵn sàng bán)/ Tổng TS
Các chứng khoán thanh khoản (CKTK) trên bảng cân đối tài sản bao
gồm các chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán. Nếu
chỉ tiêu chứng khoán thanh khoản càng lớn thì rủi ro thanh khoản mà ngân
hàng phải đối mặt càng giảm.
-Chỉ số năng lực cho vay
Năng lực cho vay=Cho vay và cho thuê ròng/Tổng TS
Vì tín dụng và cho thuê tài chính được xem là những tài sản ít thanh khoản
nhất, do đó nếu chỉ tiêu “năng lực cho vay” càng lớn thì ngân hàng càng bộc lộ
là kém thanh khoản tuy nhiên lại đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
-Chỉ số tiền nóng
Chỉ số tiền nóng= TS trên thị trường tiền tệ/ Vốn từ thị trường tiền tệ
18
Đây là chỉ số phản ánh trạng thái tương quan vốn vay trên thị trường tiền

tệ và tài sản trên thị trường tiền tệ, tài sản có thể bán nhanh chóng để đáp ứng
nhu cầu rút vốn từ thị trường tiền tệ.
Tiền nóng là các loại tài sản nhạy cảm với lãi suất thường bao gồm: tiền
mặt, TGKKH, CK chính phủ ngán hạn và các tài sản khác có thể chuyển hóa
thành tiền trong ngắn hạn. Nếu chỉ số tiền nóng của nNH càng cao thì tính
thanh khoản NH càng tốt.
- Tỷ số đầu tư ngắn hạn trên vốn nhạy cảm
Tỷ số DTNH trên vốn nhạy cảm= ĐTNH/Vốn nhạy cảm
Tỷ số này càng cao gợi ý rằng trạng thái thanh khoản của NH càng tốt
- Chỉ số cấu trúc tiền gửi
Chỉ số cấu trúc tiền gửi= Tiền gửi giao dịch/Tiền gửi kỳ hạn
Trong đó tiền gửi giao dịch bao gồm những khoản tiền có thể được rút
thông qua việc phát hành séc. Tiền gửi kỳ hạn có kỳ hạn cố định và phải chịu
phạt nếu KH rút trước hạn. Tỷ lệ này đo lường tính ổn định của cơ sở tiền gửi
mà NH sở hữu. Tỷ lệ này giảm thể hiện tính cao hơn của vốn tiền gửi do đó
yêu cầu thanh khoản sẽ giảm
- Chỉ số (TM+TG tại các TCTD)/Tiền gửi KH
Chỉ số này càng cao càng có khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản
nhưng không có hiệu quả kinh doanh cao.
d. Phương pháp thang đáo hạn.
Phương pháp này ngân hàng lên các luồng tiền thanh khoản sau đó phân
loại các luồng tiền được nhận biết và phân biệt các luồng tiền xác định ngẫu
nhiên, cuối cùng lập báo cáo thanh khoản. Từ đó xác định các dòng tiền cộng
dồn, dự trữ vốn khả dụng cộng dồn…
1.2.3. Nguyên nhân & ảnh hưởng rủi ro thanh khoản đến hoạt động
kinh doanh Ngân hàng
a, Nguyên nhân
19
* Nguyên nhân chủ quan:
- Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém: Ngân hàng tập trung

tín dụng vào một số khách hàng lớn hoặc tỷ trọng tín dụng cho một ngành,
một địa phương nào đó chiếm phần lớn trong tổng dư nợ hoặc trong tổng huy
động có một khách hàng chiếm tỷ trọng lớn, đến khi họ rút một cách bất ngờ
thì dẫn đến RRTK.
- Không cân xứng về kỳ hạn giữa TSC và TSN: Khi tiến hành huy động
vốn không phải lúc nào NHTM cũng huy động được nguồn vốn có kỳ hạn
dài. Thực tế cho thấy, các nguồn vốn huy động được thường có kỳ hạn ngắn
nhưng phần lớn các khoản cho vay và đầu tư lại dài hơn. Điều này làm mất
cân xứng giữa ngày đáo hạn các TSC và TSN bên dòng tiền vào bên TSC
thường không trùng khít để trang trải dòng tiền ra bên TSN. Vậy nên NHTM
luôn phải đối mặt với tình trạng thâm hụt hoặc thặng dư thanh khoản.
- Rủi ro trong mất cân đối trong cơ cấu tài sản: Điều này xuất phát từ áp
lực lợi nhuận ngắn hạn của các cổ đông lên ban điều hành mà quên mất những
nguyên tắc trong quản trị TSC và TSN. Trong danh mục tài sản NHTM có
phần đầu tư vào trái phiếu, cổ phiếu… mặc dù lãi suất thấp nhưng nó là nguồn
cực kỳ quan trọng cho NHTM để nhận chiết khấu từ NHNN một khi thanh
khoản có vấn đề đặc biệt là với các ngân hàng nhỏ.
- Quy mô vốn điều lệ còn hạn chế: Vốn điều lệ (VĐL) là khoản vốn
thuộc sở hữu ngân hàng, được hình thành từ khi ngân hàng mới thành lập nó
phản ánh quy mô hay thực lực tài chính của ngân hàng.Nếu NHTM có vốn
điều lệ cao chứng tỏ ngân hàng có tiêm lực tài chính và ngược lại. Quy mô
VĐL nhỏ là một trong những nguyên nhân đẩy NHTM đến tình trạng mất khả
năng chi trả và phá sản khi nhu cầu thanh toán tăng đột ngột.
* Nguyên nhân khách quan
- Chính sách tiền tệ(CSTT) của NHNN: NHNN sử dụng ba công cụ bao
gồm nghiệp vụ thị trường mở, quy định về dự trữ bắt buộc và áp dụng lãi suất
20
chiết khấu và tái chiết khấu GTCG của NHTM
- Nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động mua bán cho NHNN trái phiếu
chính phủ, trái phiếu kho bạc… cảu chính NHNN.

- Quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB): là biện pháp điều chỉnh mà
NHNN bắt buộc các NHTM phải duy trì một tỷ lệ dự trữ tiền gửi tối thiểu tại
NHNN. Nếu tỷ lệ DTBB cao thì nguồn cung thanh khoản của NHTM tăng và
ngược lại.
- Lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu: là lãi mà NHTM áp dụng khi
NHNN chiết khấu hoặc tái chiết khấu các giấy tờ có giá từ NHTM. Nếu lãi
suất này thấp thì chi phí tiền vay từ NHNN rẻ,biến động lãi suất, tính chất đặc
biệt của ngành kinh doanh tiền tệ đòi hỏi NHTM phải luôn sẵn sàng đáp ứng
nhu cầu thanh khoản
* Những nhân tố khác làm gia tăng RRTK cho NHTM: Điều này đã từng
xảy ra đối với NHTM Cổ phần Á Châu năm 2003 khi có tin đồn Tổng giám
đốc ACB bỏ trốn khách hàng đã ồ ạt kéo đến các điểm giao dịch ACB rút
tiền. Mặc dù là tin đồn thất thiệt nhưng việc rút tiền đồng loạt của khách hàng
đã gây khó khăn trầm trọng cho ACB. NHNN đã phải hỗ trợ hàng trăm tỷ
đồng đe ACB có đủ nguồn vốn chi trả cho khách hàng.
b. Ảnh hưởng của RRTK đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng
RRTK là rủi ro nguy hiểm nhất của ngân hàng, có liên quan đến sự sống
còn của ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo đáp
ứng được các nhu cầu thanh toán trong hiện tại, tương lai và các nhu cầu
thanh toán đột xuất. Một khi RRTK xuất hiện thì nó không chỉ ảnh hưởng đến
bản thân NHTM mà còn ảnh hưởng đến cả một nền kinh tế - xã hội
Đối với ngân hàng thương mại
Thứ nhất, nếu RRTK xảy ra, tùy mức độ nghiêm trọng, NHTM có thể
phải chịu:
21

×