I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
PHAN THI PHNG THANH
BảO Vệ, THúC ĐẩY MộT Số QUYềN DÂN Sự
CủA NGƯờI KHUYếT TậT ở VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Phỏp lut v Quyn Con Ngi
Mó s: Chuyờn ngnh o to thớ im
LUN VN THC S LUT HC
Can bụ hng dn khoa hc: PGS. TS. HA THI MAI HIấN
HÀ NỘI - 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phan Thị Phương Thanh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
LỜI CAM ĐOAN 3
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
3
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn 3
Tôi xin chân thành cảm ơn! 3
NGƯỜI CAM ĐOAN 3
Phan Thị Phương Thanh 3
Chương 1 5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƯỜI
KHUYẾT TẬT VÀ VẤN ĐỀ THÚC ĐẨY, BẢO VỆ QUYỀN DÂN SỰ
CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM 5
1.2. NỘI DUNG CÁC QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
TRONG LUẬT QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ NỘI LUẬT HÓA CÁC ĐIỀU ƯỚC
QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM 17
1.2.2. Vấn đề nội luật hóa các điều ước quốc tế về quyền của Người khuyết tật
tại việt nam 30
1.4. CÁC CƠ CHẾ QUỐC TẾ VÀ QUỐC GIA VỀ BẢO VỆ VÀ THÚC
ĐẨY CÁC QUYỀN DÂN SỰ CỦA Người khuyết tật 48
Chương 2 58
THỰC TRẠNG GHI NHẬN, THÚC ĐẨY 58
VÀ BẢO VỆ QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT 58
Ở VIỆT NAM 58
2.1. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC QUYỀN DÂN
SỰ CƠ BẢN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM 58
2.2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUYỀN DÂN SỰ CƠ BẢN CỦA
NKT Ở VIỆT NAM 70
2.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP THÚC ĐẨY VÀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN DÂN
SỰ CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH 74
Kết luận chương 2 78
Chương 3 79
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN VIỆC BẢO VỆ, THÚC ĐẨY 79
CÁC QUYỀN DÂN SỰ CỦA Người khuyết tật Ở VIỆT NAM 79
3.1. NHU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC THÚC ĐẨY VÀ BẢO VỆ
CÁC QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 79
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ
CÁC QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM 82
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN VÀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở
VIỆT NAM 84
Kết luận chương 3 88
KẾT LUẬN 89
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CRC : Công ước quốc tế về quyền trẻ em
ĐHĐ : Đại hội đồng
ECOSO : Hội đồng kinh tế và xã hội
HĐBA : Hội đồng Bảo an
HĐQT : Hội đồng quản thác
ICCPR : Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
năm 1966
ICJ : Toà án công lý
ILO : Tổ chức Lao động thế giới
NKT : Người khuyết tật
TGPL : Trợ giúp pháp lý
UN : Liên Hợp Quốc
UNCHR : Văn phòng cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nan
UNESCO : Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên
hợp quốc
UNHRC : Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mọi sự vật, hiện tượng hoặc một thực thể nào đó trong thế giới tự nhiên
và xã hội đều có những khiếm khuyết nào đó, dù ở mức độ ít hay nhiều, trong
thời gian dài hay ngắn. Xã hội nào cũng có những người bị khuyết tật. Trong
xã hội văn minh, với tư cách là một đối tượng yếu thế trong đời sống xã hội,
người khuyết tật (NKT) có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Nhà nước và xã hội luôn dành sự quan tâm để có những chính sách an
sinh xã hội cho người bị khuyết tật. Tuy nhiên, do những điều kiện chủ quan
và khách quan, NKT vẫn đang bị phân biệt đối xử và gặp khá nhiều khó khăn
trong việc thực hiện các quyền chủ thể của mình, cũng như trong quá trình
hòa nhập với cộng đồng.
Trước đây, trong một thời gian dài nhận thức của xã hội về NKT là
chưa đúng và họ coi NKT là những đối tượng của lòng thương hại, xem họ là
những đối tượng không may mắn trong xã hội, vì vậy mà nhiều người còn có
thái độ miệt thị, khinh bỉ, xa lánh những NKT làm cho những NKT lại càng bị
tổn thương nhiều hơn. Chính vì vậy mà trong thời gian dài những NKT không
được xã hội tôn trọng và các quyền lợi của họ với tư cách là một công dân đã
bị tước đoạt. Hiện nay, trong xu thế chung của hội nhập kinh tế quốc tế toàn
cầu, đất nước đang ngày càng phát triển và yêu cầu chung của quá trình đó là
sự phát triển đất nước cũng như về mặt con người một cách toàn diện. Trong
quá trình phát triển toàn diện đó thì việc quan tâm đến lợi ích quyền lợi của
NKT lại càng quan trọng hơn, làm thế nào để NKT có thể hòa nhập cộng
đồng để họ có thể theo kịp dòng chảy của sự phát triển chung là một yếu tố
quan trọng vì đất nước phát triển thì nhân dân là đối tượng làm nên điều đó
trong đó có những NKT, chính họ đang đóng góp phần quan trọng vào quá
1
trình hội nhập đó. Họ là nhóm người tuy khiếm khuyết về mặt thể chất hoặc
tinh thần nhưng họ không được coi là những người vô dụng và không phải là
gánh nặng của xã hội. Chính vì vậy, việc quan tâm đến quyền và lợi ích của
NKT mà cụ thể là quyền dân sự của NKT giúp họ hòa nhập với cộng đồng xã
hội là điều cần phải làm bởi vì họ cũng là chủ thể của quyền con người và họ
cũng có những quyền và nghĩa vụ bình đẳng với mọi người trong xã hội.
Nguyên tắc tự do, bình đẳng của pháp luật tạo cơ hội ngang nhau cho tất cả
mọi người trong việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân về dân
sự. Tuy nhiên, đối với NKT, khả năng hiện thực hóa các quyền đó là không
dễ dàng, họ cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ từ phía nhà nước và xã hội.
Nhằm tìm hiểu rõ hơn quy định của pháp luật về vấn đề trên cũng như
đưa ra một số ý kiến để hoàn thiện pháp luật liên quan đến NKT, tác giả đã
lựa chọn đề tài: “Bảo vệ, thúc đẩy một số quyền dân sự của người khuyết
tật ở Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng tới mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của việc bảo vệ và thúc đẩy một số quyền dân sự của người khuyết tật ở Việt
Nam, cụ thể: làm rõ khái niệm, nội dung các biện pháp, vai trò của bảo vệ
thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật; tìm hiểu các quy định của pháp
luật Việt Nam và một số nước trên thế giới về quyền dân sự của NKT, phân
tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền dân sự cho
NKT, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm thúc đẩy
và bảo vệ các quyền dân sự cho NKT, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
các quyền dân sự cho NKT ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, tác giả không có tham vọng nghiên cứu hết tất cả
các quyền dân sự của người khuyết tật, mà chỉ tập trung về bảo vệ và thúc đẩy
2
một số quyền dân sự của người khuyết tật, với mục đích đó luận văn tập trung
tìm hiểu một số vấn đề như: Quyền dân sự của người khuyết tật, một số quyền
dân sự cụ thể của người khuyết tật, làm thế nào để bảo vệ và thúc đẩy quyền
dân sự của người khuyết tật ở Việt Nam trong thực tiễn, tìm ra các giải pháp
để bảo vệ và thúc đẩy các quyền dân sự đó trên thực tế,
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, tác giả chủ yếu vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Cụ thể là, phương pháp duy vật biện chứng và
phương pháp duy vật lịch sử. Đây là phương pháp luận xuyên suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm pháp luật, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền dân sự cho NKT cũng là
cơ sở lý luận soi sáng cho việc phân tích và nghiên cứu đề tài.
Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp logic và phương pháp bình luận.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Quyền của người khuyết tật là một vấn đề còn khá mới ở Việt Nam.
Mặc dù gần đây đã có một số đề tài nghiên cứu về người khuyết tật nhưng
mới chỉ đề cập đến những vấn đề chung, chưa có đề tài nào tập trung nghiên
cứu các quyền dân sự của nhóm xã hội này ở Việt Nam. Vì vậy, luận văn sẽ
góp phần khỏa lấp khoảng trống về nghiên cứu, qua đó nhằm bảo đảm tốt hơn
các quyền này của người khuyết tật trong thực tế.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước
trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật có liên quan đến quyền của người
khuyết tật. Ngoài ra luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt
động giảng dạy, nghiên cứu luật nhân quyền ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và
các cơ sở đào tạo khác ở Việt Nam.
3
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo thì luận văn có kết cấu 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền dân sự của người khuyết
tật và vấn đề thúc đẩy, bảo vệ quyền dân sự của người
khuyết tật ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng việc thúc đẩy và bảo vệ quyền dân sự của
người khuyết tật tại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp thực hiện việc bảo vệ, thúc đẩy các các quyền
dân sự của người khuyết tật ở Việt Nam.
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƯỜI
KHUYẾT TẬT VÀ VẤN ĐỀ THÚC ĐẨY, BẢO VỆ QUYỀN DÂN SỰ
CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ
SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY, BẢO VỆ QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƯỜI
KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm quyền dân sự của Người khuyết tật
1.1.1.1. Khái niệm Người khuyết tật
Con người là một thực thể tự nhiên và xã hội, phát sinh, phát triển dưới
sự tác động của các quy luật tự nhiên và xã hội. Cũng như mọi thực thể khác,
con người cũng được sinh ra và tồn tại một cách đa dạng và có thể có những
đột biến, những rủi ro về tâm sinh lý, nên có thể bị khiếm khuyết, bị dị tật.
Tuy nhiên, trước tạo hóa, con người luôn bình đẳng. Cùng với quá trình phát
triển của xã hội, con người đã xác định được những quy tắc xử sự chi phối
mọi hoạt động của các chủ thể biết tôn trọng và bảo đảm quyền tự do và bình
đẳng của con người. Điều 1 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người
năm 1948 tuyên bố: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng về nhân phẩm
và quyền. Mọi con người đều được tạo hóa ban cho lí trí và lương tâm và cần
đối xử với nhau trong tình bằng hữu”[11, Điều 1].
Chính quy định này đã cho thấy rõ vị trí của mỗi người sinh ra trong xã
hội là hoàn toàn bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, không có sự phân
biệt đối xử giữa những người được sinh ra bình thường và những người sinh
ra đã có khiếm khuyết. Nói một cách nôm na, người khuyết tật (NKT) là
người có khiếm khuyết và người bị tàn tật.
5
Trong pháp luật quốc tế về quyền con người, NKT thuộc nhóm người
dễ bị tổn thương. Họ “dễ bị tổn thương” trong cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng
của từ này.
Trước đây, khi xã hội chưa phát triển, nhận thức của con người còn hạn
chế, hầu như mọi người trong xã hội đều có cái nhìn chưa tốt về NKT. Xã hội
coi những NKT là gánh nặng cho xã hội, coi họ là những đối tượng cần sự
thương cảm, giúp đỡ của người khác, việc bảo vệ hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên
cách tiếp cận của tình thương và lòng nhân đạo, chính vì vậy mà họ không có
quyền, không phải là chủ thể của quyền công dân. Cách tiếp cận này không
những không đảm bảo cho NKT được hưởng đầy đủ các quyền con người mà
còn ngăn cản họ tham gia, hội nhập có hiệu quả vào đời sống xã hội.
Hiện nay, cùng với những nỗ lực của cộng đồng quốc tế việc thay đổi
nhận thức về vị trí và vai trò của NKT đã diễn ra một cách mạnh mẽ hơn, vị
trí của NKT ngày càng được nâng cao. Cùng với những thay đổi về vai trò
của NKT thì vị trí của họ cũng được ghi nhận và khẳng định trong hệ thống
các văn bản pháp luật của các quốc gia. Sự chuyển biến về nhận thức dẫn tới
thay đổi cả cách gọi tên của nhóm xã hội này. Nếu như trước đây việc dùng
tên gọi là người tàn tật có hàm ý, miệt thị và hạ thấp, thì hiện nay đã được gọi
tên là những NKT. Với tên gọi mới này cho thấy rằng đây là nhóm người tuy
có những khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần, nhưng họ không phải và
không được coi là những người vô dụng trong xã hội mà họ cũng là chủ thể
của quyền con người.
Cùng với những sự thay đổi đó thì đã có hai quan điểm khác nhau về
NKT đó là: Quan điểm khuyết tật cá nhân và quan điểm khuyết tật xã hội.
a. Quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật dưới góc độ
y tế. Quan điểm này cho rằng NKT là do hạn chế cá nhân, là ở chính con
người đó, chú trọng rất ít hoặc không để ý đến các yếu tố môi trường xã hội
6
và môi trường vật thể xung quanh NKT. Quan điểm này cho rằng NKT có thể
hưởng lợi từ phương pháp khoa học như thuốc điều trị và các công nghệ cải
tiến chức năng. Mô hình y tế chú trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ không
xem trọng việc trị liệu xã hội. Như vậy mô hình y tế nhìn nhận NKT là vấn đề
đưa ra và đưa ra giải pháp để làm người đó “bình thường”.
Với quan điểm này xã hội đã coi NKT là những người có vấn đề về thể
chất và cần phải chữa trị. Do đó đã đẩy những NKT vào thế bị động của
người bệnh.
b. Quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội
Đây được coi là nền tảng của những chuyển biến của vấn đề NKT. Ở
đây, NKT được nhìn nhận là hệ quả bị xã hội phân biệt. Bởi vì xã hội được tổ
chức không tốt nên NKT bị phân biệt đối xử.
Từ những quan điểm khác nhau thì mỗi quốc gia có một cách nhìn nhận
riêng và có cách hiểu riêng về định nghĩa NKT riêng được ghi nhận trong
pháp luật quốc gia đó.
Trong điều 2 Luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ
người khuyết tật năm 1990:
Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường,
mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm lí hay
sinh lí, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn
bộ hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách
bình thường.
Người khuyết tật là những người có thính giác, thị giác, lời
nói hoặc khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn
tâm thần, khuyết tật nhiều và/ hoặc khuyết tật khác [4, Điều 2].
Còn theo quy định trong khoản 1 Điều 1 Công ước số 159 của ILO về
phục hồi chức năng lao động và việc làm của NKT năm 1983, quy định: “Người
7
khuyết tật dùng để chỉ một cá nhân mà khả năng có một việc làm phù hợp, trụ
lâu dài với công việc đó và thăng tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của
một khiếm khuyết về thể chất và tâm thần được thừa nhận” [20, Điều 1].
Ngày 17/6/2010, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật NKT, có hiệu lực
từ 01/01/2011, chính thức sử dụng khái niệm “Người khuyết tật” thay cho khái
niệm “Người tàn tật”, phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế giới
về vấn đề NKT. Theo đó thì: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một
hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới
dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [19, Điều 2].
Ở đây ta có thể hiểu NKT bao gồm cả những người bị khuyết tật bẩm
sinh, người bị khiếm khuyết do bệnh tật, tai nạn, thương binh, bệnh binh
Như vậy, Luật người khuyết tật Việt Nam đã đưa ra khái niệm NKT dựa vào
mô hình xã hội, tuy nhiên còn chung chung so với khái niệm NKT của Công
ước về quyền của NKT Như vậy, ta có thể thấy định nghĩa về NKT dù tiếp
cận dưới bất cứ góc độ nào, nhất thiết phải phản ánh thực tế là NKT có thể
gặp các rào cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc con người khi tham gia vào
mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Họ phải được đảm bảo rằng họ có
quyền và trách nhiệm tham gia vào mọi hoạt động của đời sống như bất cứ
công dân nào với tư cách là các quyền của con người.Với cách tiếp cận đó, có
thể hiểu định nghĩa người khuyết tật theo quy định của Công ước quốc tế về
quyền của NKT như sau:
Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể
chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh
hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia
đầy đủ và hiệu quả của những người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở
bình đẳng với những người khác [13, Điều 1].
8
1.1.1.2. Khái niệm quyền dân sự của người khuyết tật
Theo Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 của UN thì
quyền dân sự, chính trị của mỗi con người được xem là giá trị của tất cả mọi
người mà nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ. Theo đó, ta có thể hiểu Quyền
dân sự là những quyền gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao
cho người khác được như quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân, quyền
không bị bắt làm nô lệ, quyền không bị tra tấn, quyền được đối xử nhân đạo,
quyền kết hôn và xây dựng gia đình, quyền có tài sản riêng Đây là những
quyền quan trọng của mỗi công dân và bản thân những NKT cũng là những
công dân bình thường nên họ cũng có đầy đủ các quyền này, các quyền này
của NKT cũng được nhà nước tôn trọng, bảo vệ và tạo những điều kiện thuận
lợi nhất để NKT thực hiện được các quyền này một cách tốt nhất.
Trong lịch sử nhân quyền thì các quyền dân sự ra đời khá sớm, trong các
văn kiện pháp luật của các nước từ thời xa xưa đã chứa đựng nhiều nội dung
quy định về việc bảo vệ các quyền sống, quyền an toàn cá nhân, Sau khi UN
ra đời và thông quan bản Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền đã càng
khẳng định các quyền phổ quát cho toàn nhân loại, trong đó ghi nhận các
quyền dân sự bên cạnh các quyền khác của con người. Về sau các quyền này
được tái khẳng định và cụ thể hóa trong nhiều văn kiện quốc tế khác mà đặc
biệt là trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm
1966.
Các quyền dân sự cụ thể được quy định trong Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm 1966 áp dụng chung cho tất cả mọi
người trong đó bao gồm cả nhóm NKT, bao gồm các quyền như: Quyền
không bị phân biệt đối xử, được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật;
Quyền sống, tự do và an ninh cá nhân; Quyền về xét xử công bằng; Quyền về
tự do đi lại, cư trú; Quyền được bảo vệ đời tư; Quyền tự do tư tưởng, tín
ngưỡng, tôn giáo; Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân;
9
Đây là các quyền cá nhân cơ bản của mỗi công dân.
Các quyền dân sự này có những đặc điểm riêng so với các quyền khác.
Quyền dân sự thực chất là các quyền tự do cá nhân. Chủ thể quyền quyền dân
sự tự mình thực hiện quyền của mình một cách tự do và bình đẳng với các
chủ thể khác. Nhà nước trong hầu hết các trường hợp không cần chủ động
thực hiện các biện pháp hỗ trợ mà chỉ đơn thuần là không can thiệp vào việc
thụ hưởng các quyền này của công dân. Việc bảo đảm thực hiện các quyền
này không đòi hỏi nhiều nguồn lực nên các quốc gia có thể thực hiện được
ngay và nhà nước phải đảm bảo tất cả công dân của mình đều thực hiện được
các quyền này một cách đầy đủ nhất.
Đối với việc đảm bảo thực hiện các quyền dân sự của NKT do xuất
phát từ những đặc điểm khuyết tật của mình nên trong việc thực hiện các
quyền dân sự thì Nhà nước cũng như xã hội cần có những biện pháp hỗ trợ cụ
thể để NKT có thể thực hiện được các quyền này. Việc hỗ trợ ở đây cũng chỉ
là mang tính chất hỗ trợ về mặt tinh thần và các điều kiện cơ sở vật chất đảm
bảo phù hợp theo dạng khuyết tật của những NKT.
Như vậy, bản thân NKT họ cũng có đầy đủ các quyền dân sự như những
công dân khác của một quốc gia và nghĩa vụ của nhà nước và xã hội là phải tạo
mọi điều kiện thuận lợi nhất để NKT thực hiện được các quyền dân sự này của
họ một cách đầy đủ nhất. Do xuất phát từ những khuyết tật của mình nên trong
việc thực hiện các quyền của NKT có những đặc trưng riêng mà nhà nước và
xã hội phải hỗ trợ họ để họ thực hiện được các quyền của mình.
1.1.2. Sự cần thiết phải thúc đẩy, bảo vệ quyền dân sự của người
khuyết tật
Từ định nghĩa NKT trên cho ta thấy được những đặc điểm riêng của
NKT, cùng tồn tại trong một xã hội nhưng NKT mang những đặc điểm và đời
sống riêng. NKT trước hết là những con người nên họ mang những đặc điểm
10
chung về mặt kinh tế - xã hội, đặc điểm tâm sinh lí như mọi người khác trong
xã hội. Tuy nhiên, với những đặc điểm riêng về từng dạng khuyết tật nên
nhóm người khuyết tật nói chung lại có những nét đặc thù so với nhóm người
không khuyết tật và mỗi nhóm NKT dạng này lại có những nét đặc thù so với
nhóm NKT dạng khác.
Vì mang trong mình những khiếm khuyết nên NKT có đời sống khó
khăn hơn với những nhóm người khác trong xã hội, đây là nhóm dân cư đặc
biệt phải chịu thiệt thòi về mặt kinh tế - xã hội. Những gia đình có NKT
thường họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống vì họ điều kiện kinh tế khó
khăn do phải nuôi dưỡng và chăm lo cho cuộc sống của NKT. Học vấn của
bản thân NKT và thành viên trong gia đình NKT thường không cao, do bản
thân NKT gặp những khó khăn về thể chất hoặc trí tuệ ảnh hưởng đến khả
năng tiếp thu học vấn cũng như những khó khăn về mặt kinh tế nên không có
khả năng theo học. Tài sản của NKT thường nghèo nàn, thu nhập của NKT
thường ở mức độ thấp, vì vậy điều kiện sống và sinh hoạt là không tốt, ảnh
hưởng xấu đến cuộc sống, sức khỏe, phúc lợi xã hội của các thành viên trong
gia đình NKT. Ngoài ra những NKT đến tuổi trưởng thành rất khó có việc
làm, vì NKT họ khó tìm được việc làm phù hợp với dạng khuyết tật của mình
cũng như xã hội chưa tạo được nhiều điều kiện việc làm cho NKT.
Vì tình trạng khuyết tật nên NKT phải gánh chịu nhiều thiệt thòi trong
mọi mặt đời sống. Khuyết tật là nguyên nhân chính gây ra nhiều khó khăn cho
NKT trong việc thực hiện các công việc sinh hoạt hàng ngày, trong giáo dục,
việc làm, tiếp cận các dịch vụ y tế, kết hôn, sinh con hay tham gia vào các
hoạt động của đời sống xã hội. Để làm được những việc này, NKT không thể
tự mình làm được mà phải dựa vào những người thân trong gia đình.
Vì tình trạng khuyết tật của mình NKT còn bị phải đối diện với thái độ
coi thường, miệt thị của nhiều người trong xã hội đối với tình trạng khuyết tật
11
của họ. Quan niệm của xã hội đối với NKT vẫn còn tiêu cực, nhiều người trong
xã hội vẫn coi NKT là gánh nặng cho xã hội, coi thường những khả năng của
chính NKT, nhiều người trong xã hội vẫn coi NKT là những đối tượng “đáng
thương”, coi NKT là những đối tượng của lòng thương hại. Từ đó, chính những
người trong xã hội vẫn còn có thái độ kì thị, phân biệt đối xử với NKT, nhiều
khi nó còn diễn ra trong chính gia đình NKT. Chính bản thân những NKT cũng
có những suy nghĩ không tốt, khi một người ở vào trong hoàn cảnh bị khiếm
khuyết về thể chất và tinh thần thì chính họ cũng cảm thấy mặc cảm, từ đó họ
tự ti khi tham gia vào các hoạt động xã hội, họ cảm thấy chính bản thân mình là
gánh nặng cho gia đình và họ là NKT nên vì những khiếm khuyết của chính
bản thân mình mà cảm thấy không hòa nhập được vào đời sống xã hội, họ coi
mình là thành phần bỏ đi của xã hội. Hiện nay các hoạt động hỗ trợ NKT còn
rất hạn chế, thực tế cho thấy có sự khác biệt giữa nhu cầu của NKT và những
giúp đỡ mà họ nhận được, sự giúp đỡ của nhà nước và cộng đồng mang tính từ
thiện nhiều hơn là phát triển con người.
NKT được chia thành nhiều dạng khác nhau dựa vào dạng khuyết tật
của họ và mỗi dạng khuyết tật có những đặc điểm riêng, chung về tâm sinh lí,
về khả năng qua đó tác động đến các nhu cầu của bản thân và có ảnh hưởng
qua lại, tác động đáng kể đến môi trường xung quanh làm xuất hiện những hệ
quả pháp lí trong quá trình hòa nhập cộng đồng.
Ở những NKT vận động, khuyết tật nghe nói, khuyết tật nhìn đều có bộ
não phát triển bình thường. Nếu được quan tâm tạo môi trường thuận lợi, rèn
luyện từ sớm và thường xuyên thì họ vẫn có thể tiếp thu được chương trình
học tập, làm việc, tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội của cộng đồng,
trở thành người có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, do hạn chế
về thể chất hoặc giác quan nên họ dễ có tâm lí tự ti, mặc cảm về khuyết tật
của mình, thường gặp những khó khăn trong giao tiếp cũng như không thể
12
tham gia. Do hoàn cảnh khuyết tật hoặc các yếu tố khác về kinh tế, môi
trường, nên nhiều người không có điều kiện để rèn luyện, khắc phục những
hạn chế ngay từ sớm, khiến họ không thể hòa nhập được. Điều này làm cho
họ cảm thấy thiếu tự chủ, thiếu tự tin trong giao tiếp với người xung quanh –
tình trạng sẽ tồi tệ hơn nếu mọi người trong xã hội lại có thái độ coi thường,
chế diễu NKT.
Đối với những trường hợp bị khuyết tật vận động thì họ gặp những
khó khăn trong việc di chuyển nên họ rất cần sự giúp đỡ của người khác
cũng như các vật dụng y tế hiện đại như xe lăn, gậy, trong quá trình di
chuyển của mình. Vì không thể tự đi lại nên những NKT vận động này khó
khăn trong việc tham gia vào các hoạt động của đời sống xã hội, vui chơi và
học tập. Đối với những trường hợp này rất cần sự chung tay của xã hội trong
việc hỗ trợ NKT về thiết bị cũng như các cơ sở vật chất thuận lợi cho họ
trong quá trình đi lại của họ, cần có những xây dựng riêng về việc làm, khu
vui chơi giải trí, xe cộ dành riêng, thuận lợi cho những đối tượng này để họ
dễ dàng di chuyển được.
Một dạng khuyết tật khác đó là khuyết tật về nghe, nói. Đây là những
người gặp khó khăn khi giao tiếp với người xung quanh bằng ngôn ngữ, từ đó
họ bị hạn chế về khả năng tiếp thu trong quá trình học tập, làm việc. Để
những NKT trong trường hợp này có thể tham gia vào đời sống xã hội họ cần
có ngôn ngữ, kí hiệu riêng cũng như công cụ đặc thù như máy trợ thính giúp
họ có thể nghe được. Hiện nay, việc giao tiếp bằng ngôn ngữ của người bị
câm cũng đang ngày càng được nhiều người học tập để có thể giao tiếp được
với họ, tuy nhiên ngôn ngữ kí hiệu cũng có nhiều hạn chế vì không thể phản
ánh được đầy đủ tính chất, mức độ các hoạt động cuộc sống như tiếng nói hay
chữ viết, nó không thể phản ánh hết được những gì mà bản thân NKT mong
muốn thể hiện ra bên ngoài, bên cạnh đó việc tiếp cận với ngôn ngữ kí hiệu
không phải là việc dễ dàng đối vơi những NKT, điều đó càng làm hạn chế khả
13
năng giao tiếp, hòa nhập của NKT trong đời sống, xã hội và việc làm.
Còn đối với các dạng khuyết tật khác như khuyết tật nhìn, khuyết tật trí
tuệ cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống NKT. Đối với những người
không thể nhìn thấy thì việc họ tham gia vào đời sống xã hội cũng như học
tập gặp rất nhiều khó khăn, do không thể nhìn thấy nên họ không thể biết
được về cuộc sống xung quanh chính mình, họ bị hạn chế khi giao lưu, tiếp
xúc với xã hội cũng cách họ tiếp cận với những gì đang xảy ra trong chính
môi trường sống của họ. Mặc dù hiện nay,việc học tập của những người
khuyết tật về nhìn đã được khắc phục phần nào do họ đã có chữ viết riêng,
việc học tập của những người khuyết tật phần nào đã được quan tâm, xã hội
cũng đã có những chính sách ưu tiên, quan tâm tạo điều kiện cho họ tiếp cận
với chữ viết, hệ thống các trường học cũng đã có những chương trình riêng
dành cho những NKT về khả năng nhìn, hệ thống chữ viết của họ đã được
nhân rộng trong các trường học giúp cho những người này học tập và phát
huy được khả năng của mình tốt hơn.
Như vậy, qua phân tích trên chúng ta đã thấy được những ưu điểm cũng
như nhược điểm của từng dạng khuyết tật của những NKT, từ đó chúng ta có
thể thấy, mặc dù có những khiếm khuyết có thể là về thể chất hoặc tinh thần,
nhưng bản thân những NKT họ vẫn có thể tham gia vào đời sống xã hội giống
như những người bình thường nếu có sự hỗ trợ đúng mực. Bản thân những
NKT họ có những thế mạnh riêng mà chỉ cần xã hội cho họ cơ hội phát huy
thì chính những NKT họ hoàn toàn có thể chủ động trong cuộc sống của
mình, vươn lên khỏi những khó khăn mà họ đang gặp phải để chính họ có thể
chủ động tự lo được cho chính bản thân họ và gia đình. NKT mặc dù chỉ là
một nhóm thiểu số nhưng họ lại là bộ phận dân cư cấu thành nên cộng đồng
xã hội, những NKT họ đang nỗ lực để phát huy tốt những gì mà họ có để
tham gia vào chính đời sống của toàn xã hội. Cùng với sự giúp đỡ của xã hội
14
về việc tạo điều kiện để NKT hạn chế được các nhược điểm mà họ đang mang
để họ hòa nhập với đời sống cộng đồng và trở thành thành viên quan trọng
của đời sống xã hội sẽ là động lực quan trọng giúp cho chính bản thân những
NKT họ thêm hiểu được giá trị của chính bản thân họ, để xóa đi cái mặc cảm
khuyết tật của mình và vươn lên trong cuộc sống, tự chủ chính cuộc sống của
mình như những người bình thường trong xã hội. Chính vì vậy mà những
NKT họ cũng có những quyền và nghĩa vụ ngang bằng với những người bình
thường khác trong xã hội.
Mặc dù trước đây trong một thời gian dài, chúng ta coi NKT là đối
tượng của các bảo trợ xã hội cần được nâng đỡ và giúp đỡ nhưng ngày nay
với thay đổi trong nhận thức của chính chúng ta thì đã nhìn nhận NKT là
một bộ phận không thể thiếu trong xã hội và pháp luật cũng đã có nhiều
quy định có tính pháp lý cao tôn trọng NKT dưới góc độ quyền con người.
Điều đó chứng tỏ một điều quan trọng rằng mỗi con người sinh ra trong xã
hội đều là con người và họ phải được tôn trọng, bình đẳng như nhau trong
đồi sống xã hội.
Vì vậy, việc bảo vệ quyền của NKT là đương nhiên, bởi bản thân
những NKT là công dân của một đất nước và họ cũng là chủ thể của pháp
luật, họ có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với tất cả mọi người khác được sinh
ra trong xã hội đó. Mặc dù bản thân những NKT họ phải mang trong mình
những kiếm khuyết không mong muốn nhưng bản thân họ cũng là một con
người, họ cũng có những thế mạnh riêng của chính bản thân mình, nếu chúng
ta giúp đỡ họ có thể phát huy được thế mạnh đó thì chính những NKT họ có
thể tự nuôi sống chính bản thân mình, có thể tự tham gia vào các hoạt động xã
hội mà không còn là gánh nặng cho gia đình và xã hội như chúng ta vẫn
thường nghĩ khi nói đến NKT. Bản thân những NKT đã được pháp luật công
nhận là một chủ thể của pháp luật thì họ cần được xã hội và Nhà nước đảm
15
bảo phải thực hiện được tất cả các quyền mà một chủ thể pháp luật có như
những quyền về học tập, lao động, việc làm, kết hôn, Bởi vì có đảm bảo
được rằng NKT họ có đầy đủ các quyền đó thì chúng ta mới thực sự làm đúng
tinh thần của pháp luật là coi người khuyết tật cũng là chủ thể của pháp luật.
Việc bảo vệ quyền của NKT cũng là việc rất cần thiết trong việc tạo
điều kiện cho NKT thực sự tham gia hội nhập vào đời sống văn hóa – xã hội
cũng như chính trị, giúp họ hòa nhập cộng đồng nhanh hơn đồng thời tạo
những điều kiện tốt nhất để NKT thực sự tiếp cận và phát huy những gì mà họ
có thể làm để có thể tự nuôi sống, chăm lo cho bản thân và gia đình mình, họ
có thể hoàn toàn tự chủ được trong đời sống của mình mà không cần phải trở
thành gánh nặng cho gia đình và xã hội, họ có thể tự chăm lo được cho cuộc
sống của riêng mình, giảm bớt được gánh nặng cho gia đình và xã hội, và một
khi có thể tham gia vào đời sống xã hội như những người bình thường khác
thì chính bản thân những NKT họ sẽ cảm thấy tự tin hơn, họ thấy mình có ích
cho xã hội, được xã hội quan tâm và coi trọng, họ sẽ thoát khỏi cảm giác mặc
cảm, tự ti vốn có của NKT từ đó họ sẽ phát huy tốt những gì mà họ có để
đóng góp và cống hiến cho xã hội.
Việc bảo vệ tốt quyền của NKT cũng là một cách để giáo dục và thay
đổi nhận thức vốn có cũng như cách nhìn của mọi người trước đây về người
khuyết tật. Giáo dục được cái tư tưởng tôn trọng lẫn nhau giữa những con
người cùng tồn tại trong xã hội để mọi người hiểu rõ hơn về NKT và tôn
trọng họ như những cá thể bình thường của xã hội vì xã hội có phát triển được
cũng là sự đóng góp chung của từng cá nhân trong xã hội đó mà không phân
biệt gì, trong một xã hội mà tất cả mọi người cùng bình đẳng với nhau thì xã
hội đó mới có thể phát triển đều được. Việc pháp luật tôn trọng và bảo vệ
quyền của NKT như những chủ thể khác thể hiện sự quan tâm của Nhà nước
đối với mọi thành phần trong xã hội cũng như Nhà nước đó đang đi trong xu
16
thế phát triển chung của toàn nhân loại, coi trọng quyền của những NKT, có
nhiều biện pháp để tôn trọng và bảo vệ quyền của NKT cũng là một cách để
nhà nước tôn trọng vị thế của mình trong trường quốc tế chung và tôn trọng
lịch sử giáo dục của chính đất nước mình
1.2. NỘI DUNG CÁC QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
TRONG LUẬT QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ NỘI LUẬT HÓA CÁC ĐIỀU ƯỚC
QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM
1.2.1. Nội dung các quyền dân sự cơ bản của người khuyết tật
trong luật quốc tế
Theo công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR,1966)
thì các quyền dân sự của cá nhân nói chung cũng như quyền dân sự của NKT
bao gồm các quyền chủ yếu như: quyền sống, quyền không bị tra tấn, quyền
tự do không bị buộc làm nô lệ hay nô dịch, quyền tự do và an toàn cá nhân,
quyền được đối xử nhân đạo của người bị tước tự do, cấm phạt tù vĩ nghĩa vụ
dân sự, quyền tự do đi lại và cư trú, quyền về thủ tục khi bị trục xuất, quyền
về xét xử công bằng, cấm áp dụng luật hồi tố, quyền được thừa nhận là thể
nhân trước pháp luật, quyền bảo vệ sự riêng tư, quyền tự do tư tưởng, lương
tâm và tôn giáo; quyền tự do biểu đạt, bảo vệ gia đình, bảo vệ trẻ em.
Đặc điểm của nhóm quyền dân sự này chỉ thái độ thụ động của nhà
nước trong hầu hết các trương hợp, không cần chủ động thực hiện các biện
pháp hỗ trợ mà chỉ đơn thuần là kiềm chế không can thiệp vào việc thụ hưởng
các quyền này của cá nhân, tuy nhiên trong một số trường hợp nhà nước cũng
phải thực hiện các nghĩa vụ chủ động để đảm bảo thực hiện hóa các quyền
này, việc bảo đảm thực hiện các quyền dân sự không đòi hỏi tiêu tốn nhiều
nhân lực, vật lực, nên các quốc gia có thể và cần phải thực hiên ngay.
Qua đây ta thấy để bảo vệ các quyền dân sự của NKT thì việc ban hành
các quy định pháp luật phù hợp với đối tượng NKT, tạo hành lang pháp lí cho
17
việc thực hiện một cách nghiêm túc các quyền này là một trong những yêu
cầu quan trọng trong quá trình bảo vệ và thúc đẩy các quyền dân sự của bản
thân NKT.
Đối với những NKT thì chính thái độ kì thị của xã hội là một rào cản
rất lớn đẩy những NKT ra khỏi các hoạt động xã hội, tách biệt những NKT
thành những đối tượng, những gánh nặng chung của xã hội. Chính vì vậy,
thay đổi cuộc sống NKT trước tiên bắt đầu từ thay đổi trong nhận thức của xã
hội. Trong thời gian dài NKT mới chỉ được coi là đối tượng của tình thương,
việc bảo vệ, hỗ trợ chủ yếu dựa trên cách tiếp cận của lòng nhân ái chứ không
bắt nguồn từ nhận thức rằng họ cũng là chủ thể của quyền, bản thân NKT
cũng là một công dân bình đẳng cũng mang quyền và nghĩa vụ như những
công dân khác. Và chính là những công dân của xã hội nên các đối tượng
khác còn lại phải luôn có nghĩa vụ phải tôn trọng và bảo đảm cho NKT được
thực hiện các quyền công dân đó. Chính vì những suy nghĩ không tôn trọng,
kì thị NKT mà đã làm cho NKT không những không có đầy đủ các quyền con
người mà thêm vào đó còn ngăn cản họ tham gia, hội nhập có hiệu quả vào
đời sống xã hội.
Cùng với những thay đổi về nhận thức thì trong các văn bản pháp lý
của quốc tế và từng quốc gia đã có những quy định cụ thể dành riêng để bảo
vệ quyền lợi của người khuyết tật.
Ngay từ khi ban hành những văn bản pháp lý đầu tiên, UN luôn
khẳng định sự thiết yếu của việc tôn trọng và thực hiện các quyền và tự do
cơ bản của tất cả mọi người và không phân biệt thành phần, tôn giáo, hay
tín ngưỡng, các quyền của NKT được đặt trên cơ sở các quy định phổ
quát đó.
Trong hệ thống các văn bản pháp lí quốc tế về quyền của NKT, các văn
kiện ghi nhận quyền của NKT có ý nghĩa quan trọng bậc nhất. Với bản công
18
ước mới năm 2006 của UN dành riêng cho NKT phản ánh sự thay đổi về
phương pháp tiếp cận, các quyền của NKT đã được đề cập vừa khái quát vừa
toàn diện. UN yêu cầu các quốc gia thành viên phải thực thi những biện pháp
thích hợp để đảm bảo thực hiện những quyền đó.
Trong những quyền của NKT thì quyền dân sự của NKT có thể được
chia thành các nhóm quyền sau:
1.2.1.1. Nhóm quyền được sống và được đối xử bình đẳng
a. Quyền được sống.
Đây là quyền cơ bản của mỗi con người, và NKT không nằm ngoài quy
luật của quyền này. Quyền được sống của NKT được đề cập tại Điều 10 của
Công ước về quyền của NKT: “Các quốc gia thành viên tái khẳng định rằng
mọi người đều có quyền được sống và sẽ tiến hành tất cả các biện pháp cần
thiết để đảm bảo người khuyết tật được thực sự thụ hưởng quyền này trên cơ
sở bình đẳng với những người khác” [13, Điều 10].
Quyền được sống có thể coi như quyền hiển nhiên nhất của tất cả mọi
người trên thế giới nhưng đối với NKT việc khẳng định quyền này là vấn đề
đặc biệt có ý nghĩa. Bởi vì bản thân NKT họ gặp nhiều khó khăn trong quá
trình sinh hoạt, bị xã hội kì thị, phân biệt đối xử, cho rằng NKT là gánh nặng
trong xã hội, gây cản trở tốc độ của quá trình phát triển tiến bộ của xã hội
Sự kì thị phân biệt của xã hội có thể dẫn đến nguy cơ tồn tại của những NKT
trong xã hội, thậm chí cực đoan tới mức đe dọa mạng sống của họ. Để bảo vệ
quyền của người khuyết tật, bên cạnh việc tái khẳng định quyền được sống
bình đẳng của họ, Công ước của UN còn quy định trách nhiệm của các quốc
gia thành viên trong việc đảm bảo thực hiện quyền này cho người khuyết tật.
Theo đó các quốc gia cần:
Tiền hành các biện pháp phù hợp với nghĩa vụ của mình theo
luật quốc tế, trong đó có luật nhân đạo quốc tế và luật quốc tế về
19