Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Quyền làm việc của người khuyết tật tại việt nam luận văn ths luật (chương trình đào tạo thí điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ QUẾ

QUYÒN LµM VIÖC CñA NG¦êI KHUYÕT TËT T¹I VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ QUẾ

QUYÒN LµM VIÖC CñA NG¦êI KHUYÕT TËT T¹I VIÖT NAM

Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chương trình đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG NGỌC GIAO

HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của


riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Quế


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN LÀM VIỆC CỦA
NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT
SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI ................................................. 7
1.1.

Các khái niệm cơ bản ...................................................................... 7

1.1.1. Khái niệm người khuyết tật theo công ước quốc tế và luật người
khuyết tật ........................................................................................... 7

1.1.2. Khái niệm người lao động khuyết tật ............................................... 11
1.1.3. Quyền làm việc của người khuyết tật trong mối quan hệ với các
quyền khác....................................................................................... 12
1.1.4. Quyền làm việc của người khuyết tật – Quyền con người ................ 13
1.2.

Kinh nghiệm của một số quốc gia đảm bảo quyền làm việc
của người khuyết tật ...................................................................... 18

1.2.1. Quyền làm việc của người khuyết tật tại Nhật Bản .......................... 18
1.2.2. Quyền làm việc của người khuyết tật tại Malaysia ........................... 20
1.2.3. Quyền làm việc của người khuyết tật ở nước Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa ................................................................................. 25
1.2.4. Quyền làm việc của người khuyết tật ở Mỹ...................................... 27
Kết luận chương 1 ...................................................................................... 31
Chương 2: THỰC TRẠNG NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM VÀ
CÁC CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT, THỂ CHẾ ĐẢM BẢO QUYỀN
LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM.........................32


2.1.

Thực trạng lao động khuyết tật tại Việt Nam .............................. 32

2.1.1. Tỷ lệ lao động khuyết tật ................................................................. 32
2.1.2. Các dạng khuyết tật theo lứa tuổi ..................................................... 33
2.1.3. Giáo dục và đào tạo ......................................................................... 35
2.1.4. Tham gia lực lượng lao động và việc làm ........................................ 40
2.1.5. Mức sống và thu nhập ...................................................................... 41
2.2.


Chính sách, pháp luật, cơ chế đảm bảo quyền làm việc của
người khuyết tật tại Việt Nam....................................................... 44

2.2.1. Chính sách đảm bảo quyền làm việc của người khuyết tật ............... 44
2.2.2. Pháp luật đảm bảo quyền làm việc của người khuyết tật .................. 56
2.2.3. Thể chế đảm bảo quyền làm việc của người khuyết tật .................... 66
Kết luận chương 2 ...................................................................................... 76
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VỀ CHÍNH SÁCH, PHÁP
LUẬT, THỂ CHẾ CỦA VIỆT NAM TRONG VIỆC ĐẢM
BẢO QUYỀN LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT.......... 78
3.1.

Tổng quan đánh giá ....................................................................... 78

3.1.1. Về Chính sách.................................................................................. 78
3.1.2. Về pháp luật..................................................................................... 81
3.1.3. Về thể chế ........................................................................................ 82
3.2.

Một số giải pháp nhằm đảm bảo thực thi quyền làm việc
của người khuyết tật Việt Nam ..................................................... 83

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật ........................................................................ 83
3.2.2. Hoàn thiện chính sách ...................................................................... 84
3.2.3. Hoàn thiện thể chế ........................................................................... 85
Kết luận chương 3 ...................................................................................... 87
KẾT LUẬN ................................................................................................. 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 89



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLĐTBXH:

Bộ lao động thương binh xã hội

CNTT:

Công nghệ thông tin

ĐHQG:

Đại học Quốc gia

ĐTMSDC:

Điều tra mức sống dân cư

LĐTBXH:

Lao động thương binh xã hội

NKT:

Người khuyết tật

TĐTDS:

Tổng điều tra dân số


UBND:

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng
Bảng 2.1:

Tên bảng

Trang

Tỷ lệ khuyết tật theo dạng khuyết tật, mức độ khó khăn
và giới tính

33

Bảng 2.2: So sánh cơ cấu người khuyết tật theo nhóm tuổi, năm
1995, 2005 và 2009

34

Bảng 2.3: Giáo dục và đào tạo theo tình trạng khuyết tật và mức độ
khó khăn

35


Bảng 2.4: Tình trạng đi học của trẻ theo tình trạng khuyết tật và mức
độ khó khăn
Bảng 2.5: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo mức độ khuyết tật

38
40

Bảng 2.6: Thu nhập bình quân của người khuyết tật chia theo nhóm
tuổi và lĩnh vực nghề nghiệp
Bảng 3.1: Mức chi phí đào tạo nghề cho học viên là người khuyết tật

42
59

Bảng 3.2: Sở lao động thương binh xã hội tỉnh Đồng Nai – Đào tạo
cho người khuyết tật
Bảng 3.3: Đào tạo nghề cho người khuyết tật tại tỉnh Hải Dương

72
72


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay số người khuyết tật ở nước ta chiếm khoảng 6% dân số trong
đó có 60% người là đang trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động nhất
định. Với những đặc tính của mình như chăm chỉ, tận tuỵ, tính kỷ luật cao
người khuyết tật cũng là một nguồn lực mang lại nhiều giá trị cho xã hội. Rất
nhiều người khuyết tật có khiếm khuyết một phần cơ thể vẫn có thể làm các
công việc phù hợp để nuôi sống bản thân và giúp ích cho xã hội, đây được coi

là một quyền hết sức chính đáng của người khuyết tật. Từ việc có thể lao
động, giúp ích cho bản thân, gia đình và cộng đồng, người khuyết tật sẽ có
thêm sự tự tin để tham gia vào các quyền kinh tế xã hội, văn hoá,dân sự chính
trị khác của minh như học hành, kết hôn,tham gia sinh hoạt văn hoá xã hội,
chính trị…. Bởi vậy có thể nói quyền làm việc là một trong những quyền căn
bản tạo tiền đề để người khuyết tật có thể thực hiện được những quyền khác.
Quyền này cũng đã được quy định trong luật người khuyết tật của Việt Nam.
Tuy nhiên hiện nay quyền làm việc của người khuyết tật tại Việt Nam vẫn
chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến lãng phí nguồn lao động không nhỏ,
tạo thêm gánh nặng cho phúc lợi xã hội. Một phần do quan niệm xã hội luôn
coi những người khuyết tật là vô dụng,không có khả năng lao động, các chủ
lao động chưa nhận thức được năng lực của người khuyết tật (những đặc điểm
hơn hẳn người bình thường như sự trung thành, tận tuỵ, làm việc hết mình…)
nên chưa có chiến lược sắp xếp và sử dụng người lao động khuyết tật. Mặt
khác các chính sách hỗ trợ, khuyến khích, tuyên truyền của nhà nước chưa
thực sự hiệu quả, cộng với tâm lý tự ti của chính bản thân người khuyết tật đã
tạo thành rào cản rất lớn.
Tại Việt Nam,một số người khuyết tật bị lợi dụng trở thành công cụ

1


kiếm tiền của những kẻ bất lương là hiện trạng chúng ta có thể thấy hàng
ngày. Tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, đặc biệt tại các
địa điểm du lịch, các khu chợ đông đúc, các ngã tư nhộn nhịp những người
khuyết tật với bộ dạng bẩn thỉu, nhếch nhác, đáng thương được tung ra để xin
tiền. Đây là một trong những chiêu trò lợi dụng lòng thương hại của mọi
người và cơ thể khiếm khuyết của người khuyết tật để trục lợi của một số cá
nhân hành nghề “chăn dắt”.Điều này không những làm mất mĩ quan đường
phố,ảnh hưởng đến ngành du lịch mà còn hạ nhục nhân phẩm, danh dự của

người khuyết tật.
Đây rõ ràng là hai mặt của một vấn đề, từ chỗ không được đảm bảo
quyền làm việc đến bị lợi dụng và trà đạp lên danh dự, nhân phẩm để kiếm tiền.
Chính vì thực trạng trên tại Việt Nam, yêu cầu cần có một đề tài nghiên
cứu khoa học về quyền có việc làm của người khuyết tật là hết sức cấp thiết.
Nghiên cứu này hi vọng có thể qua thực trạng tại Việt Nam hiện nay, chỉ ra
các nguyên nhân căn bản nhất và một vài giải pháp để khắc phúc.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta, bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền của người
khuyết tật nói riêng, trong đó có quyền làm việc của người khuết tật là vấn đề
đã được Đảng, Nhà nước cùng các nhà khoa học xã hội hết sức quan tâm
nghiên cứu.
Đầu tiên phải kể đến các công trình nghiên cứu về quyền con người nói
chung - tạo tiền đề cho việc nghiên cứu quyền của các nhóm người yếu thế
trong xã hội - nở rộ và đạt được nhiều thành tựu trong những năm gần đây:
Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người biên tập hai tập chuyên khảo:
“Quyền con người, quyền công dân” của nhiều tác giả, xuất bản năm 1995;
“Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại” do TS. Chu Hồng
Thanh chủ biên, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1996; Báo cáo tổng thuật Đề tài

2


KX.07- 16 nghiên cứu về “Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền
công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước” do GS.TS Hoàng Văn Hảo chủ
nhiệm… “Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người” của tập thể tác
giả do GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, T.S Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng
(đồng chủ biên) và cuốn sách nhiều tập “Quyền con người” tiếp cận đa ngành,
liên ngành của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội, 2010; v.v…

Trong nhóm quyền của người khuyết tật nói chung và quyền làm việc
của người khuyết tật nói riêng cũng hết sức được quan tâm, nghiên cứu, có
thể kể đến các công trình nghiên cứu sau: Luận án tiến sĩ luật học “Hoàn
thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật tại Việt Nam hiện nay”
Nguyễn Thị Báo – học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Báo
cáo thực hiện các “chính sách về việc làm cho người khuyết tật – nhìn từ góc
độ luật pháp” – tham luận của cục việc làm, bộ lao động thương binh xã hội
năm 2008 tại hội thảo về chính sách việc làm đối với người khuyết tật; Luận
văn “pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam” Phạm Thị Thanh Việt, luận
văn thạc sĩ kinh tế năm 2009.... Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu
của các tác giả khác đã được đăng trong các tập san, tạp chí chuyên ngành
như: Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí
Toà án nhân dân, Tạp chí Lập pháp….
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đều đã đạt được những
thành tựu nhất định trong việc nghiên cứu các vấn đề quyền con người, pháp
luật về người khuyết tật tại Việt Nam....nhưng vẫn chủ yếu tiếp cận dưới góc
độ pháp luật chứ chưa tiếp cận một cách sâu sắc dưới góc độ “quyền” mà cụ
thể ở đây là quyền làm việc của người khuyết tật. Tuy nhiên những nghiên
cứu trên vẫn là những tài liệu tham khảo hết sức quan trọng trong quá trình
thực hiện nghiên cứu này.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền làm việc của người
khuyết tật ở Việt Nam, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy định của pháp
luật cũng như thực tiễn áp dụng, làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra
những kiến nghị và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền làm việc của người

khuyết tật tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Làm rõ những khái niệm cơ bản về quyền làm việc của người khuyết tật.
- Phân tích các chính sách, pháp luật và thể chế của nhà nước trong việc
hỗ trợ đảm bảo quyền làm việc của người khuyết tật.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia về việc đảm bảo quyền
làm việc của người khuyết tật.
- Kiến nghị hoàn thiện các chính sách, pháp luật và thể chế nhằm nâng
cao việc đảm bảo quyền làm việc của người khuyết tật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các văn bản pháp luật quốc gia liên quan đến
quyền làm việc của người khuyết tật tại Việt Nam. Các cơ chế liên quan đến
việc thực thi quyền làm việc của người khuyết tật tại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu bao gồm: Những vấn đề chung về bảo vệ quyền
làm việc của người khuyết tật tại Việt Nam.Quy định của luật người khuyết
tật hiện hành và thực tiễn bảo vệ quyền làm việc của người khuyết tật. Hoàn
thiện các quy định của pháp luật, các chính sách, thể chế nhằm nâng cao việc
bảo vệ quyền làm việc của người khuyết tật tại Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa

4


Mác-LêNin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và
các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về bảo vệ quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng
Mác – Lênin. Cùng với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong lĩnh
vực khoa học xã hội nói chung bao gồm phương pháp phân tích, so sánh và
tổng hợp từ góc độ lý luận về quyền con người nói chung và quyền làm việc
của người khuyết tật nói riêng.
6. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn đi sâu nghiên cứu vào một mảng nhỏ của nhóm những đối
tượng dễ bị tổn thương đó là quyền làm việc của người khuyết tật. Nhưng có
thể nói đây là quyền hết sức quan trọng cần được đảm bảo. Bởi lẽ đây sẽ là
quyền cơ bản làm tiền đề để phát triển các nhóm quyền khác của người
khuyết tật. Mác đã nói: kinh tê quyết định chính trị. Việc NKT có thể tự lập
về kinh tế sẽ đảm bảo để NKT có cơ hội thực hiện các quyền kinh tế xã hội,
chính trị khác của mình.
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống các công cụ để nhà nước
giúp NKT đảm bảo quyền làm việc đó là: Chính sách, pháp luật và thể chế để
thực thi các chính sách pháp luật của nhà nước. Qua nghiên cứu, phát hiện ra
các thiếu sót, khuyết điểm để từ đó đưa ra các giải pháp kiến nghị phù hợp.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước
trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật có liên quan (đến chủ đề của luận
văn). Ngoài ra, luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động
giảng dạy, nghiên cứu ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác
ở Việt Nam.

5


7. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Đề tài là một đóng góp khiêm tốn trong việc giải quyết về mặt khoa học
một trong những nội dung cấp thiết hiện nay ở nước ta là bảo vệ quyền làm
việc của người khuyết tật. Luận văn sẽ đóng góp một phần lý luận và kinh

nghiệm thực tiễn cho việc thực hiện có hiệu quả việc bảo vệ quyền làm việc
của người khuyết tật. Kết quả của luận văn có giá trị tham khảo cho những ai
quan tâm đến lĩnh vực này.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục từ viết tắt, danh mục bảng biểu
thì luận văn được kết cầu gồm 3 chương:
Chương 1. Lý luận chung về quyền làm việc của người khuyết tật và
kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới.
Chương 2. Thực trạng người khuyết tật tại Việt Nam và các chính
sách, pháp luật, thể chế đảm bảo quyền làm việc của người
khuyết tật tại Việt Nam.
Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện về chính sách, pháp luật, thể chế của
Việt Nam trong việc đảm bảo quyền làm việc của người
khuyết tật.

6


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI KHUYẾT
TẬT VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm người khuyết tật theo công ước quốc tế và luật
người khuyết tật
Theo công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật được đại hội
đồng liên hợp quốc thông qua ngày 13/3/2007 thì khái niệm người khuyết tật
được hiểu là một khái niệm mở, tiến triển theo thời gian và điều kiện xã hội,
theo đó thì các quốc gia tham gia công ước sẽ:
Thừa nhận rằng sự khuyết tật là một khái niệm luôn tiến triển
và sự khuyết tật xuất phát từ sự tương tác giữa người có khuyết tật

với những rào cản về môi trường và thái độ, những rào cản này
phương hại đến sự tham gia đầy đủ và hữu hiệu của họ vào xã hội
trên cơ sở bình đẳng với những người khác [14, Điều 1].
Theo đó thì sự khuyết tật và mức độ khuyết tật được đánh giá trên
phương diện nó là rào cản ảnh hưởng đến việc người khuyết tật tham gia đầy
đủ các hoạt động xã hội, thực hiện các quyền bình đẳng, hợp pháp của mình.
Khái niệm này dẫn đến việc số lượng người được coi là khuyết tật sẽ
cao hơn cách tính của Việt Nam. Vì sẽ bao gồm cả những người bị suy giảm
một phần chức năng về thị giác, thính giác do tuổi già và các trường hợp tật
nhẹ khác. Trong luận văn này, ở mục thực trạng người viết có nêu những số
liệu thống kê do cuộc tổng điều tra dân số năm 2009 tập hợp về người khuyết
tật tại Việt Nam. Đây là những số liệu dựa trên cách đánh giá theo khái niệm
của công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật đã nêu trên. Tức là đánh
giá theo mức độ khó khăn trong việc thực hiện các chức năng nghe, nhìn, vận

7


động, tư duy. vv... đây là một cách thống kê tiến bộ và tiệm cận với cách tính
phổ biến trên thế giới.
Theo luật của Việt Nam, người khuyết tật được hiểu như sau:
Điều 2 luật người khuyết tật năm 2010 đã đưa ra những khái niệm cơ
bản sau:
Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ
thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao
động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn..
Ở Việt Nam, Ngày 14/7/2006 Văn phòng Điều phối các hoạt động hỗ
trợ người khuyết tật Việt Nam đã hợp tác với Tổ chức Cứu trợ và Phát triển
(CRS) tổ chức dự thảo “Khái niệm và từ ngữ về người khuyết tật”. Đã có ý
kiến đề nghị nên dùng từ “khuyết tật” thay từ “tàn tật”. Hội thảo đã đi đến

kết luận là sự cần thiết sử dụng từ “khuyết tật” thay cho “tàn tật” bởi vì
những lý do sau:
- Mặt ý nghĩa từ “tàn tật” mang ý nghĩa tiêu cực, nặng nề hơn. Việc
dùng từ tàn tật sẽ khiến người ta có cảm giác là những người này không còn
khả năng gì và điều đó ảnh hưởng tiêu cực đến sự nỗ lực phấn đấu vượt khó
khăn. Trong khi đó từ “khuyết tật” lại mang ý nghĩa là những khiếm khuyết,
sự giảm chức năng, phục hồi chức năng, vẫn còn khả năng, còn hy vọng bởi
vậy, nó mang ý nghĩa tích cực hơn.
- Xã hội ngày càng phát triển, văn minh hơn, nhận thức của xã hội nói
chung và nhận thức của xã hội về người khuyết tật nói riêng cũng thay đổi
nên từ ngữ sử dụng cũng cần thay đổi theo xu hướng đó.
- Đại bộ phận người khuyết tật mong muốn được gọi là người
khuyết tật chứ không phải là người tàn tật vì nó mang tính nhân văn và xã
hội nhiều hơn.

8


Phân loại người khuyết tật
Để phân loại người khuyết tật nói chung và lao động khuyết tật nói
riêng có thể dựa vào các tiêu chí sau đây:
a. Theo nguyên nhân dẫn đến khuyết tật, gồm có: Nhóm nguyên nhân
khuyết tật do bẩm sinh; Nhóm nguyên nhân khuyết tật do bệnh tật; Nhóm
nguyên nhân khuyết tật do chiến tranh; Nhóm nguyên nhân khuyết tật do tai
nạn lao động; Do các nguyên nhân khác.
b. Theo tiêu chuẩn phân loại khả năng suy giảm, khuyết tật và trở ngại
(ICIDH) do tổ chức Y tế thế giới ban hành vào năm 1980, gồm 7 dạng: Suy
giảm khả năng vận động như bị cụt chân, cụt tay, liệt, bại não... Suy giảm
thính giác/nói (giao tiếp); Suy giảm thị giác bao gồm mù, mù màu...; Hành vì
cư xử xa lạ (thường là do kết quả bệnh thần kinh phân liệt hay chứng loạn

thần kinh hay những bệnh tâm thần khác); Chứng động kinh, ngất xỉu.
c. Theo bộ chỉ số đa mục tiêu: Phản ánh tình hình chung về khuyết tật;
phản ánh nguyên nhân khuyết tật, phản ánh cơ cấu địa bàn cư trú của người
khuyết tật theo địa giới hành chính, phản ánh theo nhân khẩu học: Giới tính,
độ tuổi, dân tộc, tình trạng hôn nhân, phản ánh theo trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn kỹ thuật, nghề nghiệp, phản ánh nhu cầu đa dạng của người
khuyết tật theo nhu cầu trợ giúp.
d. Tại cuộc tổng điều tra dân số (TĐTDS) năm 2009 của Việt Nam đã
sử dụng khung phân loại quốc tế để phân loại người khuyết tật. Các phân loại
này được sử dụng phổ biến tại nhiều quốc gia và các tổ chức phi chính phủ,
liên hợp quốc... Đây là khung phân loại quốc tế về Chức năng, Khuyết tật và
sức khỏe (ICF) của tổ chức y tế thế giới WTO để xác định tình trạng sức khỏe
và khuyết tật. Nguyên tắc chủ chốt trong việc xây dựng khung phân loại này
là sự bình đẳng trong cơ hội. Khung phân loại ICF không xét đến những
khiếm khuyết của từng cá nhân mà hướng tới khả năng thực hiện các chức

9


năng của người dân. Phương pháp phân loại này cho phép so sánh giữa các
quốc gia trên toàn thế giới và trên thực tế đã được sử dụng trong TĐTDS ở
nhiều quốc gia. TĐTDS sử dụng bộ câu hỏi ngắn, trọng tâm về tình trạng
khuyết tật do nhóm Washington về thống kê khuyết tật xây dựng (WGDS
2006). Bộ câu hỏi gồm 4 câu hỏi về mức độ khó khăn trong việc thực hiện 4
chức năng là: 1) Nhìn; 2) Nghe; 3) Vận động; 4)tập trung ghi nhớ. Người trả
lời sẽ tự đánh giá mức độ khó khăn của mình theo 4 mức độ 1) không có khó
khăn gì; 2) Có khó khăn; 3) Rất khó khăn; 4) Không thể thực hiện được.
e. Luật người khuyết tật Việt Nam 2010 đã phân loại người khuyết tật
như sau: Theo điều 2 NĐ 28/2012/ NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật người
khuyết tật thì có 6 dạng khuyết tật như sau:

- Khuyết tật thị giác: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm
nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi
trường bình thường.
- Khuyết tật vận động: là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động
đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển
- Khuyết tật nghe nói: tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói
hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong
giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói.
- Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ,
cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành
động bất thường.
- Khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư
duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật,
hiện tượng, giải quyết sự việc.
- Khuyết tật khác là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể
khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không
thuộc các trường hợp đã nêu trên.

10


Việc phân loại dạng khuyết tật cũng như xác định mức độ khuyết tật là
rất quan trọng vì với mỗi loại khuyết tật sẽ phù hợp với công việc và các trang
thiết bị hỗ trợ khác nhau. Các mức độ khuyết tật khác nhau cũng giúp người
sử dụng lao động đánh giá được khả năng lao động để bố trí công việc phù
hợp cho từng lao động.
1.1.2. Khái niệm người lao động khuyết tật
Khái niệm người lao động khuyết tật sẽ hẹp hơn khái niệm lao
động khuyết tật vì không phải tất cả những người khuyết tật đều có khả
năng lao động.

Trong nghiên cứu này chỉ đề cập đến đối tượng lao động là người
khuyết tật có năng lực chủ thể tức là có đủ năng lực pháp lý và năng lực hành
vi. Họ có đủ năng lực chủ thể mới đủ điều kiện tham gia vào hoạt động sản
xuất kinh doanh. Trong đó:
- Năng lực pháp lý là khả năng chủ thể hưởng các quyền và nghĩa vụ
pháp lý được nhà nước thừa nhận, đối với cá nhân có năng lực pháp lý kể từ
khi công dân đó được sinh ra.
- Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể bằng hành vi của mình
tham gia vào các quan hệ pháp luật và phải gánh chịu những trách nhiệm
pháp lý do hành vi đem lại.
Một chủ thể pháp luật chỉ có đơn thuần năng lực pháp luật không thể tự
mình tham gia vào quan hệ pháp luật để thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ thể.
Như một người bị bệnh tâm thần nặng mất năng lực hành vi, mất năng lực chủ
thể không tham gia vào quan hệ pháp luật không thể tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh do vậy không thể coi là người lao động khuyết tật.
Ngoài ra với các dạng khuyết tật khác nhau, mức độ khuyết tật khác
nhau cũng quyết định đến khả năng lao động của người khuyết tật. Việc phân
loại như vậy là hết sức quan trọng để có thể có những chương trình đào tạo

11


nghề thích hợp, tư vấn học nghề và tìm những công việc thích hợp, cũng như
tạo môi trường lao động thuận lợi cho người lao động khuyết tật. Tuy nhiên
hiện nay ở nước ta, vẫn chưa có bộ quy chuẩn, phân loại lao động khuyết tật
một cách chính xác để phục vụ cho các hoạt động dạy nghề và tư vấn việc
làm cho người lao động khuyết tật. Hiện chúng ta chỉ có quy định về việc
giám định mức độ khuyết tật và quy định không được sử dụng những người
khuyết tật từ 51% trở lên làm việc thêm giờ vào ban đêm. Như vậy quy định
về mảng này còn khuyết, cần phải bổ sung những quy định, quy chuẩn phân

loại mức độ khuyết tật, dạng khuyết tật để phục vụ cho việc tư vấn dạy nghề,
dạy nghề, tạo việc làm và tạo môi trường lao động thích hợp.
1.1.3. Quyền làm việc của người khuyết tật trong mối quan hệ với các
quyền khác
Có thể nói quyền làm việc của người khuyết tật là một quyền cơ bản,
tạo tiền đề để người khuyết tật có cơ hội tiếp cận và thực hiện các quyền
khác của mình.
Khi người khuyết tật được học nghề và làm việc phù hợp với khả năng,
tự tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân, không phải phụ thuộc vào gia đình và
xã hội thì tự bản thân người khuyết tật sẽ cảm thấy tự tin trong cuộc sống,
tiếng nói của họ trong gia đình và xã hội sẽ có trọng lượng hơn. Từ đó người
khuyết tật mạnh rạn tham gia các hoạt động xã hội khác trong khu dân cư nơi
mình sinh sống, cơ quan nơi mình làm việc, các quyền về văn hóa xã hội của
người khuyết tật vì thế mà được đảm bảo hơn. Từ việc có thể tích cực tham
gia các hoạt động xã hội, nâng cao hơn nữa, người khuyết tật có thể tiếp cận
các quyền dân sự chính trị như ứng cử, bầu cử, tự do ngôn luận....Rõ ràng, khi
có thể tự chủ về kinh tế, tìm được chỗ đứng của mình trong xã hội thì người
khuyết tật mới có tiếng nói và có cơ hội thực hiện các quyền văn hóa xã hội,
dân sự chính trị.

12


Tương tự như vậy, khi có quyền làm việc, có khả năng tự tạo thu nhập
thì các quyền về kinh tế của người khuyết tật mới có cơ hội được đảm bảo tốt
hơn. Ví dụ người khuyết tật khi chứng minh được năng lực của mình có thể
tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi để tự mình sản xuất kinh doanh, thành lập
công ty... đóng góp vào nền kinh tế chung của đất nước.
1.1.4. Quyền làm việc của người khuyết tật – Quyền con người
* Năng lực pháp luật của người khuyết tật – quyền được làm việc,

được pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia công nhận
- Quyền làm việc của người khuyết tật theo công ước quốc tế
Sau sáu năm với tám phiên họp, toàn thể đại biểu các quốc gia thành
viên do ủy ban đặc biệt của Đại hội đồng Liên hiệp quốc triệu tập để đóng
góp xây dựng cho dự thảo, ngày 13/12/2006, tại kỳ họp lần thứ 61 của Đại hội
đồng Liên hiệp quốc, toàn thể đại biểu đã nhất trí thông qua Công ước về
quyền của người khuyết tật (NKT). Đây là một văn bản quy phạm pháp luật
quốc tế đầu tiên của xã hội loài người, khẳng định mọi tiếp cận của NKT đều
dựa trên quyền của NKT được quy định trong Công ước. Công ước còn nhằm
thúc đẩy, bảo vệ và đảm bảo NKT được hưởng đầy đủ và bình đẳng tất cả
quyền con người và quyền tự do cơ bản, đồng thời, thúc đẩy sự tôn trọng
phẩm giá vốn có của NKT.Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật
được đại hội đồng thông qua ngày 13/3/2007 đã quy định rõ về vấn đề quyền
làm việc của người khuyết tật. Trong đó, về mặt nguyên tắc, yêu cầu các quốc
gia thành viên công nhận quyền lao động của người khuyết tật trên cơ sở bình
đẳng với những người khác; quyền này bao gồm cả quyền có cơ hội tự kiếm
sống bằng hình thức lao động do người lao động chọn hoặc chấp nhận trên thị
trường lao động và trong môi trường lao động mở, dễ tiếp cận đối với người
khuyết tật. Quốc gia thành viên bảo vệ và thúc đẩy việc biến quyền làm việc
thành hiện thực, kể cả cho những người bị khuyết tật trong quá trình lao động,

13


bằng cách tiến hành các bước thích hợp, bao gồm việc thông qua các biện
pháp lập pháp, nhằm một số mục đích, trong đó có:
a. Cấm phân biệt trên cơ sở sự khuyết tật trong mọi vấn đề liên quan
đến việc làm, bao gồm điều kiện tuyển dụng, sự thuê mướn và tuyển dụng,
tiếp tục được tuyển dụng, thăng tiến nghề nghiệp và điều kiện làm việc an
toàn và bảo đảm sức khỏe;

b. Bảo vệ quyền của người khuyết tật được có điều kiện làm việc chính
đáng và thuận lợi trên cơ sở bình đẳng với những người khác, trong đó có cơ
hội bình đẳng và được trả lương ngang nhau cho công việc có giá trị ngang
nhau, điều kiện làm việc an toàn và bảo đảm sức khỏe, bao gồm việc được
bảo vệ không bị quấy rối hay bị mắng nhiếc.
c. Bảo đảm cho người khuyết tật có thể thực hiện quyền tham gia công
đoàn, nghiệp đoàn trên cơ sở bình đẳng với những người khác;
d. Tạo điều kiện cho người khuyết tật tiếp cận các chương trình kỹ
thuật và hướng nghiệp chung, các dịch vụ việc làm, đào tạo nghề và đào
tạo tiếp tục;
e. Thúc đẩy cơ hội việc làm và thăng tiến nghề nghiệp cho người
khuyết tật trên thị trường lao động, cũng như thúc đẩy hỗ trợ tìm kiếm việc
làm, duy trì và quay trở lại làm việc;
f. Thúc đẩy cơ hội tự làm việc, nhận thầu, phát triển hợp tác xã và
khởi nghiệp;
g. Tuyển dụng người khuyết tật trong lĩnh vực công;
h. Thúc đẩy tuyển dụng người khuyết tật trong lĩnh vực tư, thông qua
các biện pháp và chính sách thích hợp, trong đó có thể có các chương trình
hành động mang tính chất động viên, khen thưởng và các biện pháp khác;
i. Bảo đảm tạo điều kiện hợp lý cho người khuyết tật ở nơi làm việc;
j. Tạo điều kiện cho người khuyết tật có kinh nghiệm làm việc trên thị
trường lao động mở;

14


k. Thúc đẩy các chương trình phục hồi nghề nghiệp, giữ gìn nghề
nghiệp và quay trở lại làm việc cho người khuyết tật.
Quốc gia thành viên bảo đảm rằng người khuyết tật không phải làm nô
dịch hoặc lao dịch, và được bảo vệ khỏi hình thức lao động cưỡng bức hoặc

bắt buộc, trên cơ sở bình đẳng với những người khác.
Ngày 22/10/2007, Việt Nam đã ký cam kết tham gia Công ước về
quyền của NKT. Đến nay, Công ước đã được 136 quốc gia ký kết và 41 quốc
gia phê chuẩn. Như vậy, kể từ ngày 03/5/2008, Công ước đã có hiệu lực trên
toàn hành tinh. ở Việt Nam, các cơ quan, tổ chức hữu quan đang tích cực
chuẩn bị đề án để báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình cơ quan có thẩm quyền
phê chuẩn Công ước này.
- Quyền làm việc của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam
Xác định tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã
hội trên nguyên tắc công bằng và tiến bộ, đứng trước thực trạng số lượng
người khuyết tật lớn, Đảng và Nhà nước ta đã có các chính sách, pháp luật cụ
thể và thiết thực dành cho họ. Điều 59 và Điều 67 Hiến pháp năm 1992 khẳng
định nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hóa và
học nghề phù hợp, người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa
được Nhà nước và xã hội giúp đỡ. Năm 2001, Quốc hội ban hành Nghị quyết
số 51/QH10 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, trong
đó có sửa đổi vấn đề liên quan đến người khuyết tật tại Điều 59 dùng cụm
từ “khuyết tật” thay cho cụm từ “tàn tật”. Những vấn đề liên quan đến người
khuyết tật được quy định tại Điều 59 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ
sung năm 2001: “… Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật,
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề
phù hợp” [15, Điều 59]. Ngày 28/11/2013, Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ 6
đã thông qua Hiến pháp (sửa đổi), Điều 59 quy định mở rộng đối tượng được

15


Nhà nước trợ giúp, không phân biệt người khuyết tật có hay không có nơi
nương tựa: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc
lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người

cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn
khác” [16, Điều 59]; Điều 61 quy định mở rộng đối tượng được tạo điều kiện
học văn hóa và học nghề, không phân biệt người khuyết tật là trẻ em hay
không phải là trẻ em: “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải
đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc
biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người
khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề” [16, Điều 61].
Hệ thống pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam ngày càng được
hoàn thiện, cơ bản đã thể chế hoá được các chủ trương, chính sách của Đảng
đối với người khuyết tật và có sự tương đồng với Công ước quốc tế về quyền
của người khuyết tật. Trong các quyền của người khuyết tật, quyền làm việc
đã được khẳng định trong các văn bản pháp luật.
Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Người khuyết tật thay thế Pháp
lệnh về người tàn tật năm 1998. Luật Người khuyết tật năm 2010 đã quy định
quyền được làm việc của tất cả người khuyết tật. Tại điều 5 luật người khuyết
tật 2010 nêu rõ chính sách của nhà nước về người khuyết tật trong đó khẳng
định “nhà nước bảo trợ xã hội, trợ giúp người khuyết tật trong chăm sóc sức
khỏe, giáo dục, dạy nghề, việc làm...” [18, Điều 5].
=> Năng lực hành vi của người khuyết tật – hạn chế, tùy theo dạng
thức, mức độ khuyết tật. Tuy nhiên, sự hạn chế về năng lực hành vi của người
khuyết tật – không thể là căn cứ để loại trừ năng lực pháp luật thể hiện ở
quyền làm việc của người khuyết tật đã được công nhận trong cả các văn kiện
quốc tế và quốc gia.
Với những lập luận nêu trên, quyền làm việc của người khuyết tật là

16


quyền con người chính đáng, nhưng chủ thể quyền khó có thể thực hiện
được quyền của mình nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước, doanh nghiệp

và xã hội.
- Sự hỗ trợ của nhà nước trong việc thực thi quyền làm việc của người
khuyết tật thể hiện ở việc:
+ Thừa nhận quyền làm việc của người khuyết tật trong hiến pháp,
pháp luật.
+ Xây dựng các văn bản pháp luật, quy định pháp luật để giúp đỡ người
khuyết thật thực thi quyền làm việc của mình.
+ Bố trí, sắp xếp bộ máy, tổ chức nhận trách nhiệm và thực thi các quy
định, chính sách pháp luật về quyền làm việc của người khuyết tật.
+ Cấp kinh phí, khuyến khích các nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư, hỗ
trợ cho việc dạy nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật.
+ Xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục, dạy
nghề cho người khuyết tật, hướng nghiệp và hỗ trợ người khuyết tật trong
quá trình lao động.
+ Giám sát việc thực thi các quy định về quyền làm việc của người
khuyết tật.
- Sự hỗ trợ của doanh nghiệp trong việc thực thi quyền làm việc của
người khuyết tật.
Doanh nghiệp là đối tượng làm việc vì mục tiêu lợi nhuận do đó nếu
không có lợi nhuận, doanh nghiệp khó có thể tạo cơ hội để người khuyết tật
làm việc. Do vậy cần:
+ Thứ nhất, tuyên truyền, khai thông tư tưởng để doanh nghiệp hiểu
rằng người khuyết tật hoàn toàn có khả năng lao động tương đương như người
không khuyết tật nếu biết sử dụng họ vào các công việc phù hợp. Ví dụ nếu
một người bị khuyết tật vận động, chỉ ngồi một chỗ cũng vẫn có thể làm tốt
công việc trong dây truyền mà chỉ cần dùng đến đôi bàn tay.

17



+ Thứ hai, cần có sự khuyến khích của nhà nước bằng các quy định ưu
đãi, tạo điều kiện nếu doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật.
- Sự hỗ trợ của xã hội trong việc thực thi quyền làm việc của người
khuyết tật.
Đây chính là sự hỗ trợ lớn lao và không thể thiếu đối với người khuyết
tật. Xã hội ta hiện nay vẫn có sự kỳ thị không hề nhỏ với người khuyết tật, coi
họ là vô dụng, không làm được gì nên phần lớn người khuyết tật, đặc biệt
sống ở nông thôn hầu như không được làm việc, họ sống dựa vào gia đình,
không được học hành hay có bất cứ cơ hội nào để hòa nhập, sống như một
người bình thường.
Những thông báo tuyển dụng, những con đường giao thông, những
siêu thị, trung cư, những phương tiện giao thông công cộng của Việt Nam
hầu như không có các phương tiện đặc thù để người khuyết tật sử dụng.
Cho thấy những nhà quy hoạch, những kiến trúc sư và cả xã hội chưa quan
tâm đúng mức đến người khuyết tật, đến quyền hòa nhập, đi lại và làm việc
của người khuyết tất.
Trong một số năm gần đây, nhà nước và các tổ chức hội người khuyết
tật đã tích cực làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, nêu gương khiến cho
quan niệm về người khuyết tật tại Việt Nam đã dần có những biểu hiện tích
cực. Xã hội, dư luận đã bước đầu có cái nhìn bình đẳng, tôn trọng và không
kỳ thị đối với người khuyết tật, các doanh nghiệp cũng dần nhận thấy tiềm
năng của những người khuyết tật giàu nghị lực và học thức.
1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia đảm bảo quyền làm việc của
người khuyết tật
1.2.1. Quyền làm việc của người khuyết tật tại Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia đi đầu khu vực Châu á trong lĩnh vực ưu tiên dạy
nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật ở các thành phần kinh tế: quốc

18



×