Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Xây dựng cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam từ kinh nghiệm ở các nước trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.52 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
––––––
ĐINH QUỲNH MÂY
XÂY DỰNG CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN
THÔNG TIN Ở VIỆT NAM TỪ KINH NGHIỆM Ở
CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
––––––
ĐINH QUỲNH MÂY
XÂY DỰNG CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN
THÔNG TIN Ở VIỆT NAM TỪ KINH NGHIỆM Ở
CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số : Chương trình đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC
HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Đinh Quỳnh Mây
MỤC LỤC
NỘI DUNG
Tran
g
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Luận văn
2. Tình hình nghiên cứu luận văn
3. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu của luận văn
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5. Những nét mới của Luận văn
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của Luận văn
7. Kết cấu của Luận văn
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN TIẾP CẬN
THÔNG TIN VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG
TIN
1. Quan niệm về cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
1.1. Quyền tiếp cận thông tin – quyền cơ bản của công dân
1.2. Khái niệm và nội dung cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
2. Kinh nghiệm một số nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông
tin của người dân
2.1. Hoàn thiện thể chế trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
2.1.1. Phạm vi cung cấp thông tin
2.1.2. Chủ thể có quyền tiếp cận thông tin
2.1.3 Chủ thể cung cấp thông tin – Các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp
thông tin
2.1.4. Trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin
2.1.5. Phí tiếp cận thông tin
2.2. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp
cận thông tin của người dân

2.3. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin
2.4. Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện quyền tiếp cận thông tin
2.4.1.Cơ sở giải quyết khiếu nại, khiếu kiện
2.4.2. Quy trình giải quyết khiếu nại, khiếu kiện
2.5. Một số biện pháp khác bảo đảm quyền tiếp cận thông tin được thực
thi
2.5.1. Các biện pháp khuyến khích thực thi pháp luật về quyền tiếp cận
thông tin
2.5.2. Biện pháp bảo vệ người cung cấp thông tin
2.5.3. Tăng cường các biện pháp chế tài đối với vi phạm quyền tiếp
thông tin
2.5.4. Ứng dụng khoa học công nghệ thông tin
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP
CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM
2.1. Cơ sở pháp lý của quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam
2.2. Thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt
Nam
2.2.1. Giới hạn của quyền tiếp cận thông tin
2.2.2. Các hình thức công khai thông tin và cách thức cung cấp thông tin
2.2.3. Quyền yêu cầu cung cấp thông tin của người dân
2.2.4. Trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước
2.2.5. Trình tự thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin
2.2.6. Cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về tiếp cận thông tin
2.3. Thực trạng tiếp cận thông tin trong một số lĩnh vực ở Việt Nam
2.3.1. Tiếp cận thông tin trong lĩnh vực quy hoạch đô thị
2.3.2. Tiếp cận thông tin trong lĩnh vực đất đai
2.4. Những khó khăn, hạn chế trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông
tin và nguyên nhân
2.4.1. Nhận thức về quyên tiếp cận thông tin còn hạn chế

2.4.2. Thế chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin còn nhiều hạn chế, bất
cập
2.4.3. Thiếu các điều kiện bảo đảm cho việc cung cấp thông tin
2.4.4. Nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế trong việc bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ
HÒAN THIỆN CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
Ở VIỆT NAM
3.1. Quan điểm, định hướng xây dựng và hòan thiện cơ chế bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam
3.2. Các giải pháp xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền tiếp
cận thông tin ở Việt Nam
3.2.1. Khẩn trương xây dựng và ban hành Luật Tiếp cận thông tin
3.2.2. Xây dựng cơ chế theo dõi, giám sát việc bảo đảm quyền tiếp cận
thông tin
3.2.3. Hoàn thiện cơ chế xử lý việc khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện
3.2.4. Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin
3.2. 5. Một số giải pháp khác bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Hộp 2.1 Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng thực phẩm
Hộp 2.2 Tiếp cận và khai thác thông tin sở hữu công nghiệp thuộc cơ sở dữ
liệu quốc gia
Hộp 2.3 Cung cấp thông tin cho báo chí
Hộp 2.4 Cung cấp thông tin đất đai từ hồ sơ địa chính
Hộp 3.1 Nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
Hộp 3.2 Các trường hợp từ chối yêu cầu cung cấp thông tin
Hộp 3.3 Cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin

Hộp 3.4 Khái niệm cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin
Hộp 3.5 Thông tin được cung cấp theo yêu cầu
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài Luận văn
Quyền tiếp cận thông tin (right to access to information) không phải là
khái niệm mới. Khái niệm này đã được đề cập trong nhiều văn kiện quốc tế,
được hiến định hoặc trong các đạo luật về tiếp cận thông tin của các quốc gia.
Quyền tiếp cận thông tin là quyền cơ bản của công dân được tiếp cận các thông
tin được ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức công quyền, đặc biệt là các
cơ quan hành chính nhà nước. Quyền tiếp cận thông tin được quy định tại Tuyên
ngôn thế giới về quyền con người năm 1948
1
, Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị năm 1966, Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham
nhũng
2
, Tuyên bố Rio về Môi trường và phát triển và Công ước UNECE về tiếp
cận thông tin môi trường và nhiều quốc gia trên thế giới hiến định và ban hành
các đạo luật để đảm bảo việc thực hiện quyền này.
Ở nước ta, quyền được thông tin của công dân, tổ chức được thể hiện
trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và hiến định
trong Hiến pháp năm 1992 cũng như nhiều văn bản pháp luật liên quan trong các
lĩnh vực khác nhau về quy hoạch, về xây dựng, về đất đai, về các dự án, về vệ
sinh, an toàn thực phẩm, về chi tiêu ngân sách, như Luật Phòng, chống tham
1
Khoản 2 Điều 19 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn
luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực,
hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương
tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ".

2
Công ước này được Việt Nam phê chuẩn ngày 30 tháng 6 năm 2009.
nhũng, Luật xây dựng, Luật đầu tư, Luật đất đai, Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân, Luật ngân sách, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn Quyền tiếp cận thông tin tiếp tục được kế thừa và hiến định
trong Hiến pháp sửa đổi 2013, xác định đây là một quyền cơ bản của công dân.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành cho thấy việc thể chế và chi tiết hoá quyền được thông tin trong Hiến pháp
còn chậm và chưa bao quát đầy đủ các lĩnh vực của cuộc sống; chưa có một cơ
chế pháp lý cụ thể, đơn giản để bảo đảm thực hiện quyền này một cách có hiệu
quả. Hầu hết các văn bản hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc xác định trách
nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước cũng như quyền tự do thông
tin mang tính nguyên tắc, chủ yếu giao quyền tự quyết định việc cung cấp thông
tin cho cơ quan nắm giữ thông tin thuộc lĩnh vực mà cơ quan đó phụ trách và kết
quả là mỗi cơ quan, mỗi lĩnh vực lại có những quy định khác nhau về cách thức,
quy trình cung cấp thông tin. Điều này, cũng được thể hiện trên thực tế việc tiếp
cận thông tin của người dân do các cơ quan nhà nước nắm giữ gặp nhiều khó
khăn. Thông tin được cung cấp thường không đầy đủ, thiếu chính xác và kịp
thời. Có tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất, thiếu bình đẳng do
những người thi hành pháp luật, công chức thực thi pháp luật thiếu thông tin;
tình trạng tham nhũng, dễ dàng vi phạm pháp luật và sự tuỳ tiện của các cán bộ,
công chức khi thừa hành công vụ cũng do thiếu thông tin. Có tình trạng lợi dụng
đặc quyền, đặc lợi của những người có điều kiện, vị trí công tác đã sử dụng
thông tin để trục lợi, gây nên sự bất bình đẳng, công bằng trong xã hội, biểu hiện
rõ nhất là trên lĩnh vực đất đai, đền bù giải toả, dự án ưu đãi, các khoản tín dụng,
cứu trợ thiên tai, kinh doanh, đầu tư Người dân thiếu ý thức về quyền của họ
và thiếu sự tin tưởng vào cơ chế minh bạch và cởi mở trong tiếp cận thông tin,
và do đó, cũng thiếu sự tham gia của tổ chức, công dân vào việc giám sát, phản
biện để hoàn thiện các chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước. Việc cung

cấp thông tin còn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cán bộ, công chức. Việc chia
sẻ thông tin cũng rất hạn chế trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Các cán bộ,
công chức thường có tâm lý tránh rủi ro và kiểm soát thông tin, thiếu ý thức và
thiện ý trong việc thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin.
3
Tại Báo cáo số
135/BC-CP ngày 1/10/2010 của Chính phủ Báo cáo Sơ kết triển khai kế hoạch
số 900/UBTVQH11 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện Nghị quyết số
48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ “Một số
quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định nhưng chưa được cụ thể
hóa thành luật như quyền lập hội, quyền được thông tin ”
4
. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ Ba, Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá X) về tăng cường sự
lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đề ra
nhiệm vụ nghiên cứu ban hành Luật bảo đảm quyền được thông tin của công
dân và coi đây là một trong các biện pháp phòng, chống tham nhũng của Đảng,
Nhà nước.
Những hạn chế về mặt thể chế và thực tiễn đảm bảo quyền tiếp cận thông
tin trong thời gian qua ở Việt Nam được thể hiện trong Tờ trình của Bộ Tư pháp
về Dự án Luật Tiếp cận thông tin đã khẳng định những bất cập về thể chế hiện
hành
5
:
Thứ nhất, hầu hết các văn bản hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc xác định
trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước và trao quyền tự quyết
định việc cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước chứ chưa quy định quyền
được chủ động yêu cầu cung cấp thông tin của công dân, tổ chức. Điều này dẫn
đến tâm lý e ngại, thiếu chủ động của công dân, tổ chức khi yêu cầu cơ quan nhà

nước cung cấp thông tin.
Thứ hai, các quy định hiện hành chưa bao quát hết các lĩnh vực cần cung
cấp thông tin trong đời sống kinh tế - xã hội, vì vậy, chưa phúc đáp đầy đủ nhu
cầu được cung cấp thông tin đang ngày càng gia tăng của công dân, tổ chức.
3
Bộ Tư pháp, Báo cáo đánh giá tác động pháp luật Dự án Luật tiếp cận thông tin, 2010.
4
Báo cáo số 135/BC-CP ngày 1/10/2010 của Chính phủ, Báo cáo Sơ kết triển khai kế hoạch số 900/UBTVQH11
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, tr 22.
5
Bộ Tư pháp, Tờ trình Dự án Luật tiếp cận thông tin, năm 2009.
Thứ ba, pháp luật hiện hành chưa thiết lập cơ chế pháp lý cụ thể để bảo
đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin một cách có hiệu quả, nhất là thiếu các
biện pháp cần thiết bảo đảm thực hiện; thiếu quy định về quy trình, thủ tục cung
cấp thông tin hoặc nếu có quy định thì còn thiếu rõ ràng, không thuận tiện cho
việc tiếp cận thông tin của người dân.
Dự án Luật Tiếp cận thông tin được khởi động từ năm 2008
6
và được Bộ
Tư pháp trình Chính phủ năm 2010 nhưng chưa được Chính phủ, Quốc hội
thông qua. Theo lộ trình xây dựng luật thì Dự án này sẽ tiếp được đưa ra thảo
luận tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XII tới. Đặc biệt, khi hiến pháp 2013 tiếp
tục hiến định đây là quyền cơ bản của công dân thì việc thể hóa quyền này là
một nhiệm vụ hết sức cần thiết.
Như vậy, nhiệm xây dựng và hòan thiện cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận
thông tin ở Việt Nam là hết sức cấp thiết. Để thực hiện nhiệm vụ này thì việc
nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc xây dựng cơ
chếđảm bảo quyền tiếp cận thông tin cũng như đánh giá việc thực trạng cơ chế
đảm bảo quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam để từ đó hoàn thiện thể chế đảm

bảo quyền tiếp cận của người dân và các giải pháp để đảm bảo các quy định đó
được thực thi trên thực tế là điều hết sức cần thiết, đó là lý do của việc lựa chọn
đề tài “Xây dựng cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam từ kinh
nghiệm ở các nước trên thế giới” làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sỹ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu Đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin là một vấn đề quan trọng hiện
nay đặt ra trong quá trình hoàn thiện thể chế ở Việt Nam. Đây là nội dung
nghiên cứu đánh giá một cách tổng thể hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật
cũng như tình hình thực thi các quy định về cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận
thông tin ở Việt Nam trong thời gian qua. Đây là công trình nghiên cứu mang
6
Nghị quyết số 27/2008/QH12 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XII
tính thực tiễn và ứng dụng, nhất là trong điều kiện hiện nay khi chúng ta xây
dựng Dự án Luật Tiếp cận thông tin
Liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài, trong những năm gần đây đã
có một số công trình nghiên cứu chủ yếu là các bài viết dưới dạng tham luận,
báo cáo khoa học viết cho các hội thảo hoặc đăng trên các tạp chí tiếp cận dưới
các góc độ khác nhau hoặc đề cập đến lý luận, thực tiễn về quyền tiếp cận thông
tin, trong đó, có các công trình nghiên cứu đáng chú ý như: Các tham luận trong
kỷ yếu hội thảo “Tiếp cận thông tin – quy định quốc tế, kinh nghiệm Việt Nam,
Đan Mạch” và hội thảo “ Tiếp cận thông tin – thực tiễn Việt Nam và kinh
nghiệm của Vương quốc Anh tổ chức tháng 10/2007 tại Hà Nội (Nguyễn Chí
Dũng – Quyền tiếp cận thông tin: Yêu cầu của quản lý nhà nước hiệu quả, vì
phát triển; TS. Dương Thanh Mai – Quyền được thông tin và sự tham gia của
người dân vào quá trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam; TS. Nguyễn Đức Thủy
– Quyền tiếp cận thông tin – Kinh nghiệm Việt Nam và Vương quốc Anh; TS. Vũ
Công Giao – Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan ở Việt

Nam; TS. Tường Duy Kiên – Quyền được thông tin – cách tiếp cận quốc tế và
đặc điểm chung của luật tiếp cận thông tin một số nước trên thế giới; ). Các
tham luận trong kỷ yếu hội thảo “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt
Nam” tổ chức tháng 5/2009 tại Hà Nội (James Anderson, Chuyên gia cao cấp về
quản trị quốc gia của Ngân hàng thế giới – Kinh nghiệm của một số nước Đông
Âu trong việc thực thi Luật tiếp cận thông tin; Jairo Acuna Alfaro, Cố vấn chính
sách về cải cách hành chính và chống tham nhũng của UNDP tại Việt Nam –
Quyền tiếp cận thông tin tại các nước khu vực Đông Nam Á; Matt Ottoson, Đại
sứ quán Thụy Điển – Kinh nghiệm của Thụy Điển về việc thực thi Luật Tiếp cận
thông tin; Ts. Hoàng Thị Ngân – Kết quả nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về
Luật tiếp cận thông tin của một số quốc gia trên thế giới; ). Các tham luận tại
hội thảo “Luật tiếp cận thông tin – kinh nghiệm một số nước trên thế giớ” tổ
chức ngày 19-20/8/2009 tại Nha Trang (GS.TSKH. Đào Trí Úc – Tổng quan về
luật tiếp cận thông tin và vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong việc thực
hiện quyền tiếp cận thông tin ở các nước trên thế giới; GS.TSKH Lê Cảm –
Pháp luật và phát triển – vai trò của giới luật gia trong việc thúc đẩy quyền tiếp
cận thông tin; Toje R. Ruud - Luật tiếp cận thông tin của Na Uy và vai trò của
các tổ chức xã hội trong việc xây dựng và thực hiện luật này.; GS. Sung Nak In,
Đại học quốc gia Seoul – Luật tiếp cận thông tin (Luật công khai thông tin của
các cơ quan nhà nước) ở Hàn Quốc và vai trò của các tổ chức xã hộii trong việc
xây dựng và thực hiện luật này; ); Các tham luận tại kỷ yếu hội thảo “ Xây
dựng luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam” tổ chức ngày 23-24/9/2010 tại tỉnh
Hòa Bình (TS. Dương Thanh Mai – Những vấn đề chung về quyền tiếp cận
thông tin; TS. Nguyễn Ngọc Anh – Giới hạn của quyền tiếp cận thông tin ).
Các bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17 tháng 09/2009
(PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng, Quyền tiếp cận thông tin – điều kiện thực hiện các
quyền con người và quyền công dân; ThS. Dương Thị Bình – Thực trang quyền
tiếp cận thông tin ở Việt Nam; TS. Nguyễn Thị Thu Vân – Cơ chế bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin ). Các bài viết trong số chuyên đề “Xây dựng luật tiếp
cận thông tin năm 2010 của Tạp chí Dân chủ và pháp luật (Lê huy – Khái niệm

và cơ sở chính trị, pháp lý của quyền tiếp cận thông tin; Thoa Quế - Cơ quan
cung cấp thông tin – Kinh nghiệm quốc tế và hướng quy định trong dự thảo Luật
tiếp cận thông tin của Việt Nam; Mai Nguyễn – Cung cấp thông tin theo yêu cầu
– cơ chế hữu hiệu bảo đảm quyền tiếp cận thông tin; ) TS. Phan Huy Hồng -
Quyền và đảm bảo quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế, luật nước
ngoài và Luật Việt Nam; TS. Vũ Công Giao – Luật Tiếp cận thông tin, một số
vấn đề lý luận, pháp luật thực tiễn trên thế giới, Tạp chí Khoa học ĐHQG, Luật
học 26 (2010); ACT!ONAID - Truyền thông có sự tham gia của cộng đồng một
số mô hình giúp người dân tiếp cận thông tin; Bộ Tư pháp, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ 2011 – Cơ sở lý luận và thực tiến của việc hòan thiện pháp luật
về tiếp cận thông tin phục vụ xây dựng Luật tiếp cận thông tin
Ở mỗi công trình nghiên cứu thì các nhà nghiên cứu đều có cách nhìn, phân
tích trên các bình diện khác nhau về lịch sử phát triển, khái niệm quyền tiếp cận
thông tin, các quy định về các quyền tiếp cận thông tin trong các văn kiện quốc
tế, trong các đạo luật về tiếp cận thông tin. Các nội dung các nhà nghiên cứu
thường đề cập đến đó là phạm vi áp dụng, nội hàm của quyền tiếp cận thông tin,
chủ thể cung cấp thông tin, phương thức cung cấp thông tin, trình tự giải quyết
yêu cầu cung cấp thông tin, cơ chế giám sát, giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về
tiếp cận thông tin Do đó, có thể nói có rất nhiều công trình nghiên cứu liên
quan đến nội dung của đề tài tác giả đang chọn. Tuy nhiên, qua nghiên cứu bước
đầu tác giả thấy rằng, các công trình nghiên cứu hiện hành về kinh nghiệm quốc
tế thường chỉ dưới dạng liệt kê các quy định đang có ở các nước chưa khái quát
dưới dạng mô hình, xu hướng. Đặc biệt các công trình này chưa có sự đối chiếu
so sánh với các quy định về nội dung mới nhất của Dự thảo Luật tiếp cận thông
tin ở Việt Nam để đưa ra những nhận định Việt Nam cần theo “con đường nào”
để giải quyết vấn đề đó. Do đó, người nghiên cứu thấy rằng, việc tiếp tục nghiên
cứu kinh nghiệm các nước trong việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin để từ đó
xây dựng, hoàn thiện cơ chế ở Việt Nam là hết sức quan trọng.
2.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Có rất nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này ở khía cạnh chiều

rộng và chiều sâu như Freedom of information: Patrick Birkinshaw (2011), The
Law, the Practice and the Ideanl. Tác phẩm phân tích cụ thể những vấn đề liên
quan tới kinh nghiệm xây dựng các khung thể chế và thiết chế cụ thể để đảm bảo
thực thi quyền được thông tin theo các chuẩn mực quốc tế. Công trình cũng
nghiên cứu các quy định và thực thi quyền được thông tin ở một số quốc gia
điển hình như Hoa Kỳ, Canada, Đức ; John Wadham, Jonathan Grifiths and
Kelly Marris (2002), Blackstone’s Guide to the freedom of information act.
Công trình phân tích so sánh quyền tiếp cận thông tin trong mối quan hệ với các
quyền khác của con người đã được quy định trong các điều ước quốc tế như
quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo trí, vai trò của các quyền này
trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Patrick Birkinshaw (2006), Freedom
of information and opennes: fundamental human rights?. Công trình phân tích
sâu các quan điểm đa chiều của giới luật học về ưu điểm cũng như hạn chế của
pháp luật quyền được thông tin của một số nước trên thế giới; E. Eur Const.
Rev.102 (2000), Freedom of information and state secrects: phân tích mối quan
hệ quyền tự do thông tin và bí mật nhà nước Qua nghiên cứu các công trình
nghiên cứu về tiếp cận thông tin cho thấy các công trình nghiên cứu về tiếp cận
thông tin trên thế giới rất đa dạng và nghiên cứu rất sâu. Tuy nhiên, do những
hạn chế nhất định về ngôn ngữ, thời gian nên chúng tôi chưa thể nghiên cứu
được nhiều các công trình nước ngoài này.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu của đề tài: Hoàn thiện các quy định pháp luật trong việc đảm
bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Những vấn đề chung về Quyền tiếp cận thôn tin
- Cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin ở các nước trên thế giới và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam.
-Thực trạng pháp luật và cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của
người dân trong thời gian qua ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm đảm bảo

quyền tiếp cận thông tin của người dân ở Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật và các quan điểm, chủ trương can Đảng và Nhà nước ta về
dân chủ, quyền con người, quyền công dân.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp nghiên cứu tại chỗ.
Nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật, thu thập, nghiên cứu các tài liệu
trong và ngoài nước về các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của Đề tài.
b. Thu thập, thống kê số liệu:
+ Số liệu thống kê từ các website về cơ sở dữ liệu luật như:
; ; ;
; ; />dien-tu.html
+ Số liệu thống kê từ Cục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Vụ các
vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính,
+ Phương tiện truyền thông, báo chí, internet…
c. Phân tích, tổng hợp Để đi đến những kết quả cuối cùng một trong
những phương pháp không thể thiếu chính là sự phân tích, đánh giá, tổng hợp
mà tác giả nghiên cứu cần phải tiến hành sau khi đã có đầy đủ các thông tin, dữ
liệu cần thiết.
5. Những điểm mới của Luận văn
Đây là một trong những công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về cơ
chế bảo đảm quyền tiếp cận thông từ kinh nghiệm các nước trên thế giới và thực
tiễn đối ởViệt Nam một cách tương đối toàn diện và có hệ thống.
Luận văn làm rõ khái niệm, nhận diện đúng bản chất về quyền tiếp cận
thông tin, khác với các công trình nghiên cứu trước khi nghiên cứu về kinh
nghiệm các nước trên thế giới về quyền tiếp cận thông tin thì luận văn tiếp cận
dưới góc độ khái quát pháp luật tiếp cận thông tin ở các nước khác nhau để đưa
chúng vào các nhóm, các xu thế khác nhau và rút ra kinh nghiệm trong việc

hòan thiện thể chế ở Việt Nam. Bên cạnh đó, Luận văn còn đánh giá một cách
toàn diện về thực trạng cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam từ
đó đề xuất một số các giải pháp trong việc xây dựng và hòan thiện cơ chế đảm
bảo quyền tiếp cận thông tin được thực thi khi chúng ta xây dựng Luật tiếp cận
thông tin trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn được nghiên cứu trong bối cảnh Bộ Tư pháp đang trong quá
trình xây dựng và hòan thiện Dự án Luật tiếp cận thông tin. Theo đó, những phát
hiện, ý kiến của tác giả là một trong những nguồn tài liệu để Tổ biên tập, Ban
soạn thảo tham khảo. Với tư cách là một cán bộ đang công tác tại Bộ Tư pháp
thì tác giả sẽ tham gia tích cực hơn nữa trong công tác xây dựng và hòan thiện
Dự án luật này thông qua việc phản ánh, bày tỏ quan điểm cá nhân liên quan
các quy định trong dư thảo luật.
Các kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luận học và phần
nào có ý nghĩa đối với các cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật
để tìm hiểu, vận dụng các quy định hiện hành trong việc giải quyết các yêu cầu
của người dân trong việc tiếp cận các thông tin, tài liệu hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục từ viết tắt, danh mục bảng biểu
thì luận văn được kết cầu gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về quyền tiếp cận thông tin và cơ chế
đảm bảo quyền tiếp cận thông tin
Chương 2. Thực trạng cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thong tin ở Việt
Nam
Chương 3. Phương hướng, các giải pháp xây dựng và hoàn thiện cơ chế
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ CHẾ
BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN

1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của quyền tiếp cận thông tin
1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin
Khái niệm quyền được thông tin xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1766 tại
Thụy Điển trong Luật về tự do báo chí. Đạo luật này cho phép công dân có
quyền tự do ngôn luận “trừ trường hợp báng bổ và chỉ trích Nhà nước” và
quyền “tiếp cận tài liệu công”
7
. Việc Thụy Điển ghi nhận quyền tiếp cận thông
tin xuất phát từ quan niệm cho rằng, các cơ quan công quyền nắm giữ các thông
tin không phải cho chính bản thân các cơ quan này mà là phục vụ lợi ích cộng
đồng. Theo đó, các thành viên trong cộng đồng phải được trao khả năng tiếp cận
với các thông tin do các cơ quan công quyền nắm giữ, trừ trường hợp có lợi ích
công cộng khác quan trọng hơn buộc phải giữ bí mật. Quyền tự do ngôn luận và
quyền tiếp cận thông tin ở Thụy Điển được xem là nền tảng để quyền tiếp cận
thông tin được chính thức ghi nhận trong hai công ước quốc tế là Tuyên Ngôn
quốc tế nhân quyền 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
1966. Theo Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền quy định “Ai cũng có
quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền
không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp
nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không
7
Hội Luật gia Việt Nam (2009), Tài liệu Hội thảo quốc tế Nghiên cứu về Luật Tiếp cận thông tin của Bắc Âu,
Hà Nội.
kể biên giới quốc gia”
8
và khoản 2, Điều 29 Công ước quốc tế về quyền dân sự
và chính trị 1966 “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự
do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh
vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức
nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa

chọn của họ”
9
. “Các văn kiện về nhân quyền không quy định một cách cụ thể về
quyền đối với thông tin, do đó vào thời điểm các văn kiện này được thông qua
những bảo đảm chung về quyền tự do ngôn luận đã không được hiểu là bao gồm
bảo đảm với quyền tiếp cận thông tin được nắm giữ bởi các cơ quan công
quyền”
10
. Tuy nhiên, quyền tiếp cận thông tin được ghi nhận trong các công ước
này vẫn được tòa án áp dụng, điều này được thể hiện trong phán quyết của Tòa
án châu về về nhân quyền “Hiệp định châu âu về nhân quyền là một văn bản
sống và nó cần phải giải thích và hiểu trong bối cảnh thực tế”
11
hay phán quyết
của Tòa án về nhân quyền Hoa Kỳ “các điều ước quốc tế về nhân quyền là các
văn bản sống, việc giải thích và hiểu chúng phải phù hợp với từng thời kỳ, cụ
thể là với các điều kiện sống hiện tại”
12
.
Quyền tiếp cận thông tin sau đó tiếp tục được ghi nhận trong các văn
kiện pháp lý quốc tế như Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng
2003, Tuyên bố RIO về môi trường và phát triển 1992, Công ước Aarhus –
Công ước về tiếp cận thông tin, tham gia của công chúng và tiếp cận công lý đối
với các vấn đề môi trường 1998 Điều này thể hiện trong xu hướng ngày càng
có nhiều quốc gia ghi nhận đây là quyền hiến định và ban hành luật tiếp cận
thông tin. Tính đến năm 2009, đã có 86 nước ghi nhận thông qua đạo luật về tiếp
cận thông tin với tên gọi khác nhau như Luật về tự do thông tin hay Luật Tiếp
cận thông tin (Cộng hòa Slovenia, Canada), Luật tiếp cận của công chúng đối
8
/>9

/>dan-s-chinh-tr-1966&catid=6:b-lut-nhan-quyn-quc-t&Itemid=20
10
Lê Huy, Khái niệm và cơ sở chính trị, pháp lý của Quyền tiếp cận thông tin, Tạp chí dân chủ pháp luật (2010),
số chuyên đề xây dựng Luật tiếp cận thông tin, Hà Nội.
11
Lê Huy, Khái niệm và cơ sở chính trị, pháp lý của Quyền tiếp cận thông tin, Tạp chí dân chủ pháp luật (2010),
số chuyên đề xây dựng Luật tiếp cận thông tin, Hà Nội.
12
Lê Huy, Khái niệm và cơ sở chính trị, pháp lý của Quyền tiếp cận thông tin, Tạp chí dân chủ pháp luật (2010),
số chuyên đề xây dựng Luật tiếp cận thông tin, Hà Nội.
với tài liệu hành chính công (Na Uy, Vương Quốc Anh) hay Pháp lệnh về công
khai thông tin của Chính quyền (Trung Quốc), Luật tiếp cận các hồ sơ hành
chính công (Đan Mạch), Luật thúc đẩy tiếp cận thông tin (Nam Phi) Dù có tên
gọi khác nhau như quyền được thông tin hay còn gọi là quyền tự do thông tin
hoặc quyền tiếp cận thông tin thì hầu hết các quốc gia có chung quan điểm công
nhận quyền tiếp cận thông tin là một quyền con người, quyền cơ bản của công
dân và quyền này có tác dụng củng cố cho nền dân chủ và được ghi nhận như
một trong những quyền cơ bản của con người, công dân.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm quyền được thông tin được sử dụng để
biểu đạt một loại quyền rất căn bản mà mọi người ở tất cả các quốc gia đều có
quyền được hưởng. Đó là quyền được tiếp cận các thông tin đang được các cơ
quan công quyền quản lý, kiểm soát để thỏa mãn nhu cầu trong của sống của
mình hay để bảo vệ và thực hiện các quyền năng khác được pháp luật ghi nhận.
Thông tin theo cách hiểu của Luật mẫu bao gồm tất cả các tài liệu được nắm giữ
bởi một số tổ chức, cơ quan nào đó. Thông tin không phân biệt hình thức và
cách thức được lưu trữ, nguồn gốc thông tin và ngày sản xuất. Theo đó, quyền
tiếp cận thông tin bao gồm quyền được xem các tác phẩn, tài liệu, hồ sơ, được
ghi chép, trích dẫn, sao chụp các tài liệu, hồ sơ đó, được thu thập thông tin dưới
dạng các đĩa mền, thẻ nhớ hoặc bất kỳ dạng thiết bị điện tử nào
Ở Việt Nam quyền tiếp cận thông tin được hiến định trong nhóm quyền

cơ bản của con người, công dân tại Điều 25, Hiến pháp 2013 “Công dân có
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu
tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Đây không phải là
lần đầu tiên Việt Nam hiến định về quyền tiếp cận thông tin, bởi quyền này
trong Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 đã hiến định với tên gọi là quyền
được thông tin tại Điều 69 Hiến pháp 1992. Bên cạnh đó, trong các văn kiện,
cương lĩnh của Đảng qua các thời kỳ luôn hướng đến tối đa hóa các thông tin mà
nhà nước đang nắm giữ phổ biến, cung cấp cho người dân. Trong các lĩnh vực
cụ thể khác nhau thì nhà nước cũng ban hành các đạo luật có các quy định liên
quan đến quyền tiếp cận thông tin và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong việc công khai, minh bạch và các văn bản, tài liệu thuộc các lĩnh vực khác
nhau như luật đất đai, luật doanh nghiệp, luật phòng, chống tham nhũng…đặc
biệt là Luật Báo chí 1989 và Pháp lệnh dân chủ cơ sở 2007 thể hiện được quyền
làm chủ và quyền được thông tin của người dân. Mặc dù, pháp luật hiện hành
chưa đươc ra được cách hiểu, khái niệm thế nào là quyền tiếp cận thông tin tuy
nhiên, thực tiễn ban hành hành và thực thi pháp luật về tiếp cận thông tin trong
khoa học pháp lý thì cũng không có nhiều tranh luận về khái niệm về quyền tiếp
cận thông tin mặc dù về tên gọi trong pháp luật các nước, văn bản quốc tế không
hoàn toàn giống nhau. “Theo nghĩa hẹp nhất quyền tiếp cận thông tin là quyền
của mỗi cá nhân đối với việc xem xét hoặc sao chụp các tài liệu được các cơ
quan nhà nước nắm giữ; Quyền tiếp cận thông tin theo nghĩa rộng nhất bao quát
cả quyền tự do thể hiện ý kiến và thông tin qua việc tự do tìm kiếm , tiếp nhận
và truyền bá thông tin”
13
.
Như vậy, khái niệm quyền tiếp cận thông tin không phải là khái niệm
mới. Quyền tiếp cận thông tin trải qua quá trình phát triển, được xuất phát từ
quyền được biết sự thật và phản ánh nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm mọi người
biết sự thật về các vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, quản
lý tư pháp, quản lý hành chính và các vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền và sự

tự do của mọi cá nhân, công dân. Tinh thần của quyền tiếp cận thông tin chính là
sự công khai hóa các hoạt động, các thông tin do Nhà nước nắm giữ đối với
công chúng. Các thông tin được tiếp cận được xác định là thông tin do cơ quan
công quyền thay mặt người dân nắm giữ, do đó các cơ quan này phải có trách
nhiệm lưu giữ và tạo điều kiện thuận lợi để các cá nhân, công dân được tiếp cận.
Việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển
xã hội, góp phần thúc đẩy sự công bằng, thực thi pháp luật,dân chủ trong xã hội,
góp phần củng cố mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội. Việc bảo đảm quyền
tiếp cận thông tin sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân,
làm tăng tính hiệu quả, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà
nước. Đây là một sự bảo vệ quan trọng chống lại các hình thức làm dụng, các
13
Viện Khoa học Pháp lý (2011), Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp
luật về tiếp cận thông tin phục vụ xây dựng luật tiếp cận thông tin”, Hà Nội 2011.
việc làm sai trái và tham nhũng. Quyền này cũng có thể đem lại lợi ích cho
Chính phủ qua việc đem lại sự minh bạch và cởi mở trong quá trình ra quyết
định và cải thiện lòng tin của công chúng đối với các hoạt động của Chính phủ.
1.2. Cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin
Cơ chế là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Từ điển Le
Petit Larousse (1999) giảng nghĩa "mécanisme" là "cách thức hoạt động của một
tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau"
14
. Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt,
“Cơ chế là cách thức tổ chức sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ cở theo
đó mà thực hiện”. Nội hàm của khái niệm cơ chế bao hàm vấn đề cơ cấu và thủ
tục. Do đó, cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin là nói đến cơ cấu tổ chức,
các quy trình, thủ tục để đảm bảo thực hiện quyền này của người dân, trách
nhiệm của cơ quan công quyền và các điều kiện đảm bảo để người dân thực hiện
được quyền đó. Trong chuyên đề nghiên cứu của TS. Nguyễn Thị Thu Vân khi
nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị về cơ chế bảo đàm quyền tiếp cận

thông tin trong Dự án Luật tiếp cận thông tin tác giả đi theo hướng giải quyết 02
vấn đề chính đó là bảo đảm về thủ tục quyền tiếp cận thông tin của người dân,
bảo đảm liên quan đến trách nhiệm của cơ quan nhà n ước trong việc chủ động
cung cấp tông tin cho công chúng. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi thì
02 vấn đề đó chưa đủ để tạo thành cơ chế đủ để bảo đảm quyền tiếp cận thông
tin của người dân trong thực tế. Theo TS. Vũ Công Giao “về bản chất, cơ chế
đảm bảo quyền tiếp cận thông tin chính là nói đến các quy định và cách thức tổ
chức nhằm bắt buộc các cơ quan công cộng phải công khai các hoạt động và các
quyết định giải quyết công việc trên các phương tiện thông tin đại chúng”
15
.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm này bởi, cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông
tin chính là giải quyết mối quan hệ giữa bên nắm giữ thông tin và bên đề nghị,
có quyền được thông tin. Để giải quyết được mối quan hệ này theo chúng tôi thì
yếu tố thể chế mà trực tiếp hệ thống các quy định pháp luật và yếu tố thiết chế -
14
/>%BF_l%C3%A0_g%C3%AC%3F
15
TS. Vũ Công Giao, Cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam. Nguồn:
Khoa Luật – Đại học Quốc gia (2011), Tiếp cận thông tin: Pháp luật và Thực tiến trên thế giới và ở Việt Nam.,
NXB ĐHQG, Hà Nội.
đó là cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đảm bảo
cho quyền tiếp cận thông tin của người dân là hai yếu tố cơ bản nhất đảm bảo
cho quyền tiếp cận thông tin được thực thi trên thực tế. Theo PGS.TS. Phạm
Duy Nghĩa thì điều kiện tiên quyết “để đảm bảo cho tự do thông tin thì cần đến
điều kiện pháp luật và thể chế tổng thể hơn”
16
. Điều này có ý nghĩa rằng, yếu tố
thể chế mà trực tiếp là các quy định pháp luật điều chỉnh đảm bảo quyền tự do
thông tin của người dân có vai trò quan trọng để người dân thực hiện quyền và

các cơ quan khác can thiệp, bảo vệ quyền đó của người dân.
Từ cách hiểu trên, chúng tôi cho rằng cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận
thông tin bao gồm các nội dung sau: (i) Các quy định pháp luật làm cơ sở, nền
tảng pháp lý để người dân thực hiện quyền của mình như hiến định, luật hóa
quyền tiếp cận thông tin, các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp
cận thông tin; (ii) các quy định về trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin;
(iii) cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; (iv) cơ
chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện quyền tiếp cận thông tin. Tất cả các yếu tố
này có mỗi liên hệ tương quan hỗ trợ cho nhau cùng hướng đến một mục tiêu
chung đó là đảm bảo quyền của người dân trong việc tiếp cận các thông tin Nhà
nước đang nắm giữ.
2. Kinh nghiệm một số nước trong việc đảm bảo quyền tiếp cận
thông tin
2.1. Hoàn thiện thể chế trong việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin
Xuất phát từ ý nghĩa và sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế về quyền tiếp
cận thông tin đã và đang nhiều quốc gia trên thế giới công nhận rộng rãi. Theo
Tony Mendel, chuyên gia nghiên cứu hàng đầu của Liên hợp quốc về tiếp cận
thông tin thì “Quyền với thông tin ngày càng nhận được nhiều sự công nhận với
một số lý do đầy thuyết phục. Điều đáng ngạc nhiên là đã mất một thời gian khá
dài để đạt được một sự công nhận rộng rãi về quyền con người để làm nền tảng
quan trọng cho nền dân chủ. Quan điểm phổ biến hiện nay là các cơ quan công
quyền nắm giữ thông tin không phải cho chính bản thân họ mà là cho lợi ích
16
Phạm Duy Nghĩa (2009), Tương quan giữa Luật tiếp cận thông tin, Luật tự do báo chí và Pháp lệnh bảo vệ bí
mật nhà nước ở Việt Nam, Nha Trang.
công cộng đã in sâu vào ý nghĩ mọi người trên khắp thế giới”
17
. Ở một số quốc
gia như Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pakistan, Israel, Pháp, tòa án nhân dân tối
cao đã ra phán quyền rằng, quyền tiếp cận thông tin là quyền hiến định và là một

yếu tố điển hình về quyền tự do ngôn luận và quyền tự do báo chí. “Theo Báo
cáo tự do thông tin thế giới năm 2006 có trên 90 quốc gia ghi nhận quyền tiếp
cận thông tin trong Hiến pháp của nước họ”
18
và ghi nhận đây là quyền cơ bản
của công dân. Việc hiến định và ban hành đạo luật riêng để đảm bảo quyền tiếp
cận thông tin đã trở thành xu thế tất yếu được cộng đồng quốc tế khuyến khích
và đưa ra yêu những yêu cầu có tính ràng buộc trong việc đảm bảo quyền tiếp
cận thông tin. Theo Tổ chức quốc tế về quyền đời tư, tính đến tháng 9/2009 có
140 nước ban hành luật tiếp cận thông tin
19
. Đối với báo cáo phục vụ dự án xây
dựng luật tiếp cận thông tin của Bộ Tư pháp thì “tính đến thời điểm năm 2009
có 86 nước ban hành Luật về tiếp cận thông tin”
20
và các quốc gia này nằm ở tất
cả các châu lục.
Do phạm vi thông tin nhà nước nắm giữ ở các lĩnh vực, hoạt động khác
nhau là khác nhau nên pháp luật tiếp cận thông tin các nước đều thừa nhận chỉ
quy định mang tính chất nguyên tắc, “luật khung” và thường có những nội dung
như: Phạm vi cung cấp thông tin/giới hạn cung cấp thông tin; các nguyên tắc
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin; Các cơ quan có nghĩa vụ cung cấp thông tin;
Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin; nội dung quyền tiếp cận thông tin; Trình
tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin; giải quyết khiếu nại, khiếu kiện
quyền tiếp cận thông tin, phí cung cấp thông tin.
Như vậy, quyền tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản của
công dân đã được Hiến pháp nhiều nước trên thế giới ghi nhận và được cụ thể
hóa bằng một đạo luật riêng để đảm bảo quyền này của người dân. Việc hiến
định và cụ thể hóa bằng các văn bản pháp luật là một trong những cơ sở quan
trọng đề người dân thực hiện quyền và đảm bảo quyền đó được thực thi trên

17
Thái Vĩnh Thắng, Lịch sử hình thành và phát triển của quyền tiếp cận thông tin,Khoa luật ĐHQG
18
Bộ Tư pháp (2011), Báo cáo phục vụ
19
Vũ Công Giao (2010), Luật Tiếp cận thông tin: Một số vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn trên thế giới, Hà
Nội.
20
Bộ Tư pháp (2011), Báo cáo phục vụ
thực tế. Ở Việt Nam thì quyền được thông tin
21
, nay là quyền tiếp cận thông
tin
22
cũng đã được hiến định. Để cụ thể hóa quy định này, Việt Nam cũng đã đưa
việc xây dựng Luật tiếp cận thông tin vào chương trình xây dựng luật tại Nghị
quyết số 27/2008/QH12
23
ngày 15/11/2008 của Quốc hội về chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011). Tuy nhiên, đến nay Luật
tiếp cận thông tin vẫn chưa được Chính phủ trình và thông qua. Do đó, việc tiếp
tục nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về pháp luật tiếp cận thông tin để từ đó xây
dựng, hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam là hết sức
cần thiết, đặc biệt khi Hiến pháp sửa đổi 2013 tiếp tục hiến định quyền tiếp cận
thông tin là quyền cơ bản của công dân.
2.1.1. Phạm vi cung cấp thông tin
Quyền tiếp cận thông tin là quyền cơ bản của công dân nhưng bị giới hạn
trong phạm vi nhất định. Điều này thể hiện không phải thông tin nào nhà nước
cũng phải cung cấp cho công dân khi họ yêu cầu. Trong những trường hợp nhất

định nhà nước sẽ loại trừ, hạn chế cung cấp một số thông tin để đảm bảo an ninh
quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự ổn định của nhà nước, chế độ văn hóa xã hội, ảnh
hưởng đến quan hệ quốc tế, ảnh hưởng đến quá trình tố tụng Các trường hợp
hạn chế cung cấp thông tin được coi như những ngoại lệ và ngoại lệ này không
nên mở rộng, phải được giới hạn càng ít càng tốt.
Pháp luật tiếp cận thông tin ở các nước không giống nhau và thường
được quy định ở hai dạng chính:
(i) Cách thứ nhất, liệt kê danh mục các thông tin cơ quan công quyền có
trách nhiệm cung cấp, công bố và liệt kê danh mục các thông tin được miễn trừ.
Điều này thể hiện trong luật tiếp cận thông tin các nước Ấn Độ, Nga, Trung
Quốc Ví dụ, Điều 4 Luật về tiếp cận thông tin của Ấn Độ liệt kê các thông tin
mà các cơ quan nhà nước phải công bố như chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
21
Hiến pháp 1992
22
Hiến pháp 2013
23
/>lenh-nam-2009-va-bo-sung-chuong-trinh-xay-dung-luat-phap-lenh-cua-Quoc-hoi-nhiem-ky-XII-
vb81885t13.aspx
của cơ quan đố, danh bạ điện thoại, ; Điều 8 thì liệt kê các thông tin mà Nhà
nước không có nghĩa vụ cung cấp đó là các thông mà việc tiết lộ có thể gây
những tác động tiêu cực tới chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ấn Độ, các
thông tin bị tòa án cấm công bố hoặc việc công bố có thể ảnh hưởng đến hoạt
động của tòa án ; Đối với Trung Quốc, tại Điều 9 Pháp lệnh về công khai thông
tin của chính quyền liệt kê các thông tin mà Chính quyền phải cung cấp như lợi
ích cốt yếu của công dân, pháp nhân hoặc tổ chức khác, các yêu cầu mở rộng
kiến thức hoặc sự tham gia của công chúng ; Đối với các thông tin không được
phép tiết lộ, Nhà nước được miễn trừ Trung Quốc không quy định cụ thể đó là
thông tin nào mà chỉ quy định mang tính nguyên tắc tại Điều 8 của Pháp lệnh đó
là “cơ quan Nhà nước không được gây tổn hại tới an ninh quốc gia, trật tự công

cộng, an ninh kinh tế và sự ổn định xã hội khi công bố thông tin của chính
quyền”
24
(ii) Cách thứ hai, chỉ xác định, liệt kê những thông tin không công khai,
hạn chế và miễn trừ tiếp cận. Đối với cách thức này luật tiếp cận thông tin một
số nước sử dụng như Luật về công khai các thông tin của các cơ quan chính
quyền của Hàn Quốc 1996, Luật về tiếp cận các tài liệu hành chính công của
Đan Mạch 1985, Luật về tiếp cận tài liệu của cơ quan hành chính nhà nước của
Na Uy 2009, Theo đó, các tài liệu hành chính docow quan hành chính nắm giữ
sẽ phải cung cấp cho bất kỳ người nào khi có yêu cầu, trừ các trường hợp ngoại
lệ đối với quyền tiếp cận. Theo đó, phạm vi tiếp cận thông tin của người dân đối
với cách cách thức ghi nhận này rất rộng, các cơ quan Nhà nước chỉ được phép
từ chối nếu yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu do Nhà nước đang nắm giữ đó
không thuộc danh mục được miễn trừ, từ chối cung cấp.
Ở các quốc gia khác nhau, danh mục hạn chế cung cấp hoặc từ chối
cung cấp thông tin cũng khác nhau. Các cơ quan công quyền chỉ được từ chối
cung cấp thông tin nếu những thông tin đó thuộc danh mục này. Theo nguyên
tắc thứ 4 của Bộ nguyên tắc của Liên hợp quốc, một số thông tin sau đây có thể
được đưa vào danh mục miễn trừ: (i) Những thông tin liên quan đến an ninh
24
Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Pháp lệnh về công khai thông tin của Chính quyền của nước
CHND Trung Hoa 2007, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

×