Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

luận văn khoa kinh tế luật Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. Thực tiễn áp dụng tại văn phòng luật sư Interla

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.86 KB, 49 trang )

TÓM LƯỢC
Ở Việt Nam, DVPL mới khởi động và phát triển từ những năm 90 của thế kỷ 20 trở
lại đây. So với bề dầy truyền thống nghề luật ở các nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh,
Pháp…thì kinh nghiệm hành nghề của giới luật gia Việt Nam là quá ít ỏi và chưa bài bản.
Các tổ chức, cá nhân cũng chưa có thói quen sử dụng DVPL cho các hoạt động của mình.
Tình trạng quan liêu, hách dịch, cửa quyền của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước
ở Việt Nam vẫn còn, với sự thiếu hiểu biết của mợt bợ phận người dân nên rất cần có sự
trợ giúp của nhà cung cấp DVPL. Pháp luật điều chỉnh HĐDVPL ở Việt Nam hiện nay
cịn chưa hồn chỉnh và được quy định ở rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, như: Bộ
luật Dân sự năm 2005, Luật Thương mại năm 2005. Các đạo luật chuyên ngành và một số
văn bản dưới luật, bước đầu đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động DVPL của các nhà cung cấp
DVPL ký kết HĐDVPL với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng DVPL.
Các văn bản pháp luật nêu trên quy định về hợp đồng, HĐDV và DVPL chứ
khơng quy định trực tiếp về HĐDVPL. Điều đó dẫn đến một thực tế là trong một số
trường hợp cùng một vấn đề nhưng lại được điều chỉnh bằng nhiều quy định của các
văn bản khác nhau và những quy định đó lại chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Ngược
lại, có nhiều vấn đề lại khơng được quy phạm pháp luật nào điều chỉnh hoặc quy định
không rõ ràng hoặc quá chung chung…gây khó khăn, lúng túng cho các chủ thể
HĐDVPL, cho hoạt động QLNN và hoạt động giải quyết tranh chấp về HĐDVPL.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của các cá nhân, tổ chức có nhu cầu sử dụng các
HDDVPL vì vậy để làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật về vấn đề giao kết và thực
hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại văn phòng luật sư Interla: Những mặt thuận lợi, tích
cực cũng như những khó khăn, hạn chế. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm góp
phần vào việc hồn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý
trong thương mại nói chung đồng thời nâng cao hiệu quả quá trình giao kết và thực
hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại văn phòng luật sư Interla đối với các khách hàng.
Vấn đề về giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý trong thương mại rất rộng lớn và còn
nhiều vấn đề. Với khoảng thời gian nghiên cứu không nhiều, em chưa thể đề cập được chi
tiết, mọi khía cạnh vấn đề nghiên cứu và khơng tránh khỏi những sai sót, em rất mong
nhận được sự chỉ bảo cũng như ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô. Đây là một đề
tài có tính thời sự và thực tiễn cao. Hoàn thành đề tài này sẽ là một đóng góp đáng kể vào


việc hoàn thiện pháp luật HĐDVPL và phát triển TMDVPL ở Việt Nam.
i


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường Đại học
Thương Mại, những người đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt những kiến thức bổ ích
cho em, đó chính là những nền tảng cơ bản, là hành trang vô cùng quý giá, là bước đầu
tiên cho em bước vào sự nghiệp sau này. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn đến TS. Trần
Thành Thọ, cảm ơn thầy đã tận tình quan tâm, giúp đỡ em trong thời gian qua, nhờ đó
em mới có thể hồn thành được khóa luận tốt nghiệp này. Sau đó, em cũng xin gửi lời
cảm ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học Thương Mại, Khoa Kinh tế - Luật, Bộ môn
Luật Căn Bản Trường Đại học Thương Mại đã tạo điều kiện giúp em hoàn thành bài
khóa luận này.
Trong thời gian thực tập tại văn phịng luật sư Interla, em đã nhận được sự giúp
đỡ và tạo điều kiện của trưởng văn phòng luật sư, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình
của các cơ chú, anh chị của các phịng ban đã giúp em tìm hiểu thực tế về mơi trường
làm việc của văn phịng luật sư Interla. Qua đó, em đã có được những kiến thức nhất
định về pháp luật , đây sẽ là hành trang cho sự nghiệp của em sau này. Vì vậy, em xin
chân thành cảm ơn tới Ban lãnh đạo, toàn thể các cô chú, anh chị trong thời gian thực
tập vừa qua.
Trong q trình làm khóa luận vì trình độ của bản thân và thời gian thực tập còn
hạn chế nên em kính mong nhận được sự góp ý, nhận xét từ phía các thầy cơ giáo để
kiến thức của em được hồn thiện hơn và bài khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !

ii


MỤC LỤC


PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tăt
BLDS
DVPL
HĐDVPL
TMDVPL
LDN
LTM
LLS
VPLS
CCHN
HĐDV

Giải nghĩa của từ viết tắt
Bộ luật dân sự
Dịch vụ pháp lý
Hợp đồng dịch vụ pháp lý
Thương mại dịch vụ pháp lý
Luật doanh nghiệp
Luật thương mại
Luật luật sư
Văn phòng luật sư
Chứng chỉ hành nghề
Hợp đồng dịch vụ

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn


DN
DNTN
WTO

Doanh nghiệp
Doanh nghiệp tư nhân
Tổ chức thương mại thế giới

GATS

Hiệp định thương mại dịch vụ

iii


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ ngày càng trở nên một yêu cầu tất yếu,
cấp bách đối với Việt nam. Trong bối cảnh đó, các tổ chức và cá nhân cần có sự trợ
giúp pháp lý một cách thường xuyên nhằm đảm bảo sự an toàn về mặt pháp lý cho các
giao dịch của mình. Q trình tồn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển
của DVPL cho các tổ chức và cá nhân ở tầm quốc tế. Các chủ thể tham gia nhiều giao
dịch liên quan đến nhiều lĩnh vực được điều chỉnh bởi pháp luật trong nước và pháp
luật quốc tế. Hình thức pháp lý của các giao dịch đó là hợp đồng. Để các giao dịch của
các chủ thể diễn ra an tồn và hiệu quả thì cần phải có sự trợ giúp pháp lý từ phía các
nhà cung cấp DVPL. Việc trợ giúp pháp lý của nhà cung cấp DVPL đối với bên sử
dụng DVPL được thể hiện dưới hình thức HĐDVPL. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể HĐDVPL, đặc biệt là của bên sử dụng DVPL và phòng ngừa
tranh chấp xảy ra, đòi hỏi pháp luật về HĐDVPL phải khơng ngừng hồn thiện. Đồng

thời hệ thống pháp luật quốc gia về HĐDVPL phải phù hợp với các Điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết.
Do đó khi áp dụng các qui phạm pháp luật về DVPL vào thực tế cho thấy còn nhiều
tồn tại. Xuất phát từ thực tế nêu trên và từ thực tiễn trong các hoạt động DVPL mà em
nhận thấy được trong q trình thực tập văn phịng luật sư Interla. Em cho rằng việc hoàn
thiện các văn bản qui phạm pháp luật về hợp đồng thương mại nói chung và HĐDVPL
nói riêng là việc làm vơ cùng quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế của một
đất nước đang hội nhập kinh tế với nền kinh tế thế giới như Việt Nam ta.
2. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan.
Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, DVPL
đã được ghi nhận, cho phép thành lập và hoạt động (tuy chỉ đối với hoạt động của luật
sư) và chỉ được xác lập trở lại và phát triển khá mạnh mẽ từ hơn hai thập kỷ qua.
Trong khoảng thời gian đó, đã có một số nghiên cứu về DVPL ở các khía cạnh khác
nhau với phạm vi nghiên cứu khác nhau, như giáo trình, sách chuyên khảo, chuyên đề,
nhưng chủ yếu tồn tại dưới hình thức những bài viết đăng trên tạp chí, đăng trên kỷ
yếu hội thảo và đề tài nghiên cứu của một số cá nhân, tổ chức về DVPL. Hiện nay,
chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về HĐDVPL. Có thể sắp xếp

1


nhóm các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến HĐDVPL đã được thực hiện ở Việt
Nam trong thời gian qua như sau:
1/ Nguyễn Như Chính (2011), Pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lý – những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội.
2/ Chuyên đề tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Mơ - Khoa luật, Trường đại
học Quốc gia Hà Nội (2011), “Những vấn đề pháp lý về hợp đồng dịch vụ - thực tiễn
giải quyết tranh chấp về hợp đồng dịch vụ”. Ngồi việc tìm hiểu những vấn đề pháp
lý về hợp đồng dịch vụ, đề tài đi sâu vào việc phân tích những vụ việc thực tế về giải
quyết tranh chấp hợp đồng dịch vụ.

3/ Phan Chí Hiếu (2005), Hồn thiện chế định hợp đồng, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp số 4.
4/ Hồng Thị Vịnh (2014), Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, Luận văn tiến
sĩ luật học. Học viên khoa học xã hội.
5/ Bài viết “Dịch vụ pháp lý và nhu cầu trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam” của TS. Nguyễn Văn Tuân đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số Chuyên
đề Pháp luật về Doanh nghiệp.
Tóm lại, các nhóm cơng trình trên đã nghiên cứu, đánh giá những vấn đề có liên
quan đến HĐDVPL ở những khía cạnh khác nhau và là tài liệu tham khảo hữu ích cho
việc nghiên cứu pháp luật HĐDVPL. Tuy nhiên, do có những mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu khác nhau nên các tác giả chưa đề cập một cách tồn diện, sâu sắc và có hệ
thống các vấn đề lý luận về DVPL cũng như pháp luật về HĐDVPL, mà chưa đi sâu
vào nghiên cứa các qui định về giao kết và thực HĐDVPL nên các thông tin về
HĐDVPL cịn bị hạn chế. Do đó có nhiều cách khác nhau trong việc áp dụng các qui
định của pháp luật về HĐDVPL vào thực tiễn cũng là điều tất yếu. Nhằm hiểu và áp
dụng các qui định của pháp luật về giao kết và thực hiện các HĐDVPL trong các hoạt
động thương mại như thế nào? Thực trạng áp dụng các qui định của pháp luật về hợp
đồng dịch vụ pháp lý của văn phòng luật sư Interla diễn ra như thế nào? Các đề xuất
giải pháp hoàn thiện các qui định pháp luật về giao kết và thực HĐDVPL.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
Qua thời gian tìm hiểu thực tế từ ngày 05/01/2015 đến ngày 29/04/2015 về các hợp
đồng dịch vụ pháp lý của văn phòng luật sư Interla cho thấy bên cạnh những kết quả đạt

2


được thì vẫn cịn tồn tại những hạn chế nhất định trong việc hoàn thiện về hợp đồng dịch
vụ pháp lý của văn phòng luật sư Interla. Do vậy để vấn đề giao kết và thực hiện hợp
đồng dịch vụ pháp lý trở thành đòn bẩy đối với văn phòng luật sư Interla, thực sự phát huy
vai trị của mình thì cần phải có những biện pháp để hồn thiện hơn việc giao kết và thực

hiện HĐDVPL của văn phòng luật sư hiện nay là cần thiết. Trên cơ sở đó em lựa chọn đề
tài: “ Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. Thực tiễn áp dụng tại
văn phòng luật sư Interla” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp là: Các quan điểm, tư tưởng luật
học về DVPL và HĐDVPL, các văn bản pháp luật thực định của Việt Nam về
HĐDVPL, cam kết của Việt Nam trong các Điều ước quốc tế về DVPL, pháp luật
nước ngoài và pháp luật quốc tế về HĐDVPL, thực tiễn xây dựng, áp dụng pháp luật
HĐDVPL ở Việt Nam.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài khóa luận
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Việt
Nam.
Thứ hai, phân tích thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại
Văn phịng luật sư Interla. Từ đó, đánh giá những bất cập, hạn chế trong qui định của
pháp luật, của công ty.
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, khóa luận đưa ra
một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong giao kết và thực hiện hợp đồng dịch
vụ pháp lý tại Văn phịng luật sư Interla nói riêng, cũng như của Việt Nam nói chung.
4.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài khóa luận
Do kiến thức cịn hạn hẹp và thời gian nghiên cứu khơng nhiều nên khóa luận chỉ
tập trung nghiên cứu:
- Những quy định hiện hành của pháp luật trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý, như
LTM 2005, BLDS 2005,... và một số văn bản luật chuyên ngành khác.
- Việc giao kết và thực hiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ pháp lý tại Văn
phòng luật sư Interla

3



5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, khóa luận vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là phương pháp luận khoa
học được vận dụng nghiên cứu trong tồn bộ khóa luận để đánh giá khách quan sự thể
hiện của các qui định của pháp luật về HĐDVPL. Khóa luận cũng được nghiên cứu
dựa trên đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phát triển TMDV và hội
nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
cụ thể khác nhau như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp
lịch sử cụ thể và phương pháp nghiên cứu trực tiếp qua khảo sát thực tế nhằm minh
chứng cho những lập luận, cho những nhận xét đánh giá, kết luận khoa học của khóa
luận và đặc biệt là phương pháp so sánh luật học và phương pháp lịch sử được sử dụng
xuyên suốt khóa luận để phân tích, đối chiếu so sánh những quy định pháp luật về
HĐDVPL để thấy sự phát triển của pháp luật về HĐDVPL của nước ta cũng như
những điểm tương đồng và khác biệt, những hạn chế, bất cập của pháp luật về
HĐDVPL của Việt nam so với các quy định của WTO và pháp luật quốc tế. Để hoàn
thành mục đích nghiên cứu thì có sự kết hợp giữa các phương pháp trong từng phần
của khoá luận. Đối với mỗi mục thì có một số phương pháp nghiên cứu chủ đạo để
làm rõ mục đích nghiên cứu.
6. Kết cấu khóa luận
Ngồi tóm lược, lời cảm ơn, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, kết
luận, nội dung khóa luận kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện
hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện hợp đồng
dịch vụ pháp lý tại văn phòng luật sư Interla.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giao kết và thực hiện hợp
đồng dịch vụ pháp lý.

4



CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ
GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ
1.1. Một số khái niệm cơ bản của hợp đồng dịch vụ pháp lý.
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng
Hợp đồng là một khái niệm xuất hiện từ rất lâu và hiện tại có khá nhiều khái
niệm về hợp đồng. Trên thực tế, sự tiếp cận khái niệm hợp đồng trong các hệ thống
pháp luật cũng khác nhau. Quan niệm của các luật gia thuộc hệ thống Civil Law xem
hợp đồng như một kết quả phức hợp của ý chí tự do cá nhân cùng nhiều nguyên tắc
pháp lý cơ bản của Luật Tư. Theo Geoffrey Samuel: “Khái niệm hợp đồng trong hệ
thống Civil law bị chi phối bởi ba nguyên tắc. Thứ nhất, hợp đồng được xem là kết
quả chung của sự gặp gỡ ý chí của các bên. Thứ hai, đó là pháp luật do các bên lập ra
để ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của hợp đồng khơng chỉ
là hiệu lực pháp lý được dự liệu bởi các bên, mà đó cịn là hiệu lực được đảm bảo bởi
pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, nhằm xác lập trách
nhiệm thực thi hợp đồng phù hợp với bản chất của hợp đồng. Nguyên tắc thứ ba là tự
do hợp đồng: các bên được tự do, trong phạm vi giới hạn của luật công và trật tự
công cộng, để tạo ra loại hợp đồng mà họ muốn, thậm chí điều đó có thể là vơ lý theo
cách nhìn nhận của người khác 1
Khác với quan niệm của các nước theo hệ thống Civil Law, trong hệ thống
Common Law (Thông luật), ban đầu người ta xem hợp đồng như là kết quả của các
cam kết đơn giản, thể hiện bằng những hành vi pháp lý cụ thể của mỗi bên. Sau
này,“các thẩm phán theo chủ nghĩa thực dụng (pragmatic) ở Anh đã xem xét hợp
đồng như là một nghĩa vụ được tạo ra bởi sự gặp gỡ ý chí giữa các bên” 2
Có thể nói, thuật ngữ ‘Hợp đồng’ là một phạm trù đa nghĩa và có thể được xem
xét nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm ‘hợp đồng’
theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan, ‘hợp
đồng’ là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật Dân sự, bao gồm các “qui
phạm pháp luật được qui định cụ thể trong BLDS nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội

Sammuel, Geoffrey, Law of Obligations and legal Remedies, 2nd ed., Cavendish,
London 2001. (Tr 278)
2
Sammuel, Geoffrey, Law of Obligations and legal Remedies, 2nd ed., Cavendish,
London 2001. (tr.283 – 284).
1

5


(chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các
chủ thể với nhau”. Theo nghĩa chủ quan, hợp đồng “là sự ghi nhận kết quả của việc
cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể giao kết hợp đồng” hay “là kết quả của việc thỏa
thuận, thống nhất ý chí của các bên, được thể hiện trong các điều khoản cụ thể về
quyền và nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện”. 3
Ở Việt Nam, khái niệm hợp đồng không được định nghĩa cụ thể trong văn bản
pháp luật nào, BLDS 2005 định nghĩa về hợp đồng dân sự như sau: “Hợp đồng dân sự
là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”.4
Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là kết quả
của quá trình thương thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp
luật có qui định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên. Xét
về vị trí, vai trị của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng là một loại giao dịch dân
sự, là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
Như vậy: Hợp đồng là phương tiện pháp lý để các bên tạo lập quan hệ nghĩa vụ.
Có thể nói, định nghĩa trên đã hàm chứa tất cả dấu hiệu mang tính bản chất của hợp
đồng và thể hiện rõ chức năng, vai trò của hợp đồng trong việc làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
1.1.2 Khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý

Quan hệ cung ứng DVPL được xác lập và thực hiện thơng qua hình thức pháp lý
là HĐDVPL. HĐDVPL có bản chất chung của hợp đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ cung ứng DVPL.
Theo nguyên tắc áp dụng luật chung và luật chuyên ngành trong trường hợp cùng điều
chỉnh quan hệ HĐDVPL thì các nguyên tắc và quy định đối với HĐDV trong BLDS
và LTM 2005 cũng được áp dụng cho HĐDVPL.
BLDS 2005 định nghĩa: “HĐDV là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên làm
dịch vụ thực hiện một công việc cho bên thuê dịch vụ, cịn bên th dịch vụ phải trả
tiền cơng cho bên làm dịch vụ” (Điều 518). Điều 74 LTM 2005 không định nghĩa hợp
Đinh Văn Thanh, Đặc trưng pháp lý của hợp đồng dân sự, Luật học, số 4/1999,
(Tr.19)
4
Điều 388, BLDS 2005 về: “Hợp đồng dân sự”
3

6


đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại. Nội dung các quy định về HĐDV trong
LTM được xây dựng theo xu hướng cụ thể hóa các nguyên tắc và quy định về HĐDS
trong BLDS.
LLS 2006 quy định “Luật sư thực hiện DVPL theo HĐDVPL, trừ trường hợp
luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và luật sư hành
nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức.
HĐDVPL phải được làm thành văn bản” (Điều 26). Như vậy, đối với hoạt động cung
ứng DVPL của luật sư, pháp luật đã có quy định chính thức về việc quan giữa luật sư
và khách hàng là quan hệ HĐDVPL và phải được thể hiện dưới hình thức văn bản.
Các luật chuyên ngành khác về DVPL, tuy không đưa ra định nghĩa về HĐDVPL
nhưng căn cứ vào bản chất kinh tế cũng như bản chất pháp lý của các quan hệ cung
ứng DVPL cụ thể cũng như xem xét các quan hệ cung ứng này trong sự so sánh với

quan hệ cung ứng DVPL của luật sư, có thể khẳng định quan hệ giữa bên cung ứng
DVPL và bên sử dụng các loại hình DVPL khác là quan hệ HĐDVPL.
Từ các quy định của BLDS, LTM và các luật chuyên ngành về DVPL, có thể
khẳng định HĐDVPL là một dạng của HĐDVTM. HĐDVPL mang đầy đủ các dấu
hiệu của HĐDVTM đó là: i) là sự thỏa thuận giữa hai bên (bên cung ứng DVPL và
bên sử dụng DVPL); ii) Nội dung HĐDVPL chứa đựng quyền và nghĩa vụ của các
bên. Đa số HĐDVPL là loại hợp đồng song vụ, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên
kia và ngược lại. Có một số ít HĐDVPL là loại hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba
(trường hợp thân nhân của bị can, bị cáo bị tạm giam mời luật sư bào chữa cho họ).
Theo đó, bên cung ứng thực hiện cho bên sử dụng DVPL một hoặc nhiều cơng việc có
liên quan đến pháp luật thuộc lĩnh vực hành nghề đã đăng ký hoạt động cho bên sử
dụng DVPL cịn bên sử dụng DVPL có quyền sử dụng DVPL theo thỏa thuận và có
nghĩa vụ thanh tốn; iii) Mục đích của bên cung ứng DVPL là nhận thù lao cịn mục
đích của bên sử dụng DVPL là nhằm thỏa mãn nhu cầu về DVPL; iv) HĐDVPL không
bắt buộc phải được thể hiện dưới hình thức văn bản.
HĐDVPL là loại HĐTMDV chứa đựng đặc điểm của một số loại HĐTMDV
khác. Cụ thể là một số HĐDVPL có những điểm tương đồng với hợp đồng đại diện
cho thương nhân, đó là bên đại diện được nhân danh và vì lợi ích của bên được đại
diện để tiến hành các công việc do bên được đại diện giao, mang lại quyền và nghĩa vụ

7


cho bên được đại diện. Tuy nhiên, đại diện trong hoạt động DVPL là để thực hiện các
công việc có liên quan đến pháp luật thuộc lĩnh vực hành nghề của bên cung ứng
DVPL (chẳng hạn luật sư đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn để khởi kiện và tham
gia tố tụng trong vụ kiện đòi nợ), còn đại diện cho thương nhân trong hoạt động
thương mại là để thực hiện các công việc thuộc lĩnh vực hoạt động của bên giao đại
diện (hợp đồng đại lý là một điển hình). Bên cạnh đó, hai loại hợp đồng này cịn có sự
khác nhau ở yếu tố chủ thể. Chủ thể HĐDVPL chỉ yêu cầu bên cung ứng DVPL là tổ

chức hành nghề chuyên nghiệp (đa số trong số đó là thương nhân), chủ thể hợp đồng
đại diện cho thương nhân bắt buộc hai bên đều phải là thương nhân. HĐDVPL cũng
có nhiều điểm tương đồng với một số HĐDV khác (hợp đồng dịch vụ kiểm toán, hợp
đồng dịch vụ giám định, hợp đồng bán đấu giá hàng hóa...), đó là bên cung ứng dịch
vụ thực hiện cho bên sử dụng dịch vụ một công việc thuộc lĩnh vực hành nghề đã đăng
ký hoạt động của mình và những dịch vụ này phải do những cá nhân có CCHN của
bên cung ứng dịch vụ thực hiện. Tuy nhiên, công việc thuộc lĩnh vực hành nghề của
bên cung ứng dịch vụ trong những hợp đồng nêu trên không phải là DVPL và CCHN
của cá nhân thực hiện công việc là đối tượng hợp đồng không phải là CCHN cung ứng
DVPL. Người thực hiện DVPL trong HĐDVPL là người có CCHN cung ứng một loại
hình DVPL nhất định và để được cấp CCHN, người thực hiện DVPL phải đáp ứng
nhiều điều kiện gắn với nghề luật, trong đó có một điều kiện đặc trưng về trình độ
chun mơn phải có bằng đại học luật và phải có kỹ năng hành nghề luật qua yêu cầu
phải tốt nghiệp lớp đào tạo nghề cung ứng DVPL (chẳng hạn lớp đào tạo nghề luật sư),
đã trải qua thời gian tập sự hành nghề cung ứng DVPL (để làm thử công việc cung ứng
DVPL dưới sự hướng dẫn của các cá nhân có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực cung
ứng DVPL) và phải là thành viên của một tổ chức hành nghề cung ứng DVPL (không
được làm một nghề khác, thể hiện sự chuyên tâm vào việc hành nghề cung ứng
DVPL). Người thực hiện dịch vụ trong các HĐDV nói trên cũng phải đáp ứng những
điều kiện về chuyên môn và kỹ năng hành nghề nhưng không gắn với chuyên môn
“nghề luật” mà gắn với từng chun mơn khác nhau (nghiệp vụ kiểm tốn, nghiệp vụ
giám định các sản phẩm văn học, nghệ thuật, nghiệp vụ đấu giá hàng hóa,...).
Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra định nghĩa về hợp đồng dịch vụ pháp lý
như sau: Hợp đồng dịch vụ pháp lý là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên cung

8


ứng cung cấp một hoặc nhiều dịch vụ pháp lý cho bên thuê dịch vụ để nhận thù lao,
còn bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.

1.1.3. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ pháp lý.
1.1.3.1. Bên cung ứng DVPL phải là các tổ chức hành nghề có đủ các điều kiện
theo qui định của pháp luật
Để có năng lực chủ thể tham gia vào quan hệ HĐDVPL với tư cách là bên cung
ứng DVPL, bên cung ứng DVPL phải là các tổ chức hành nghề tồn tại hợp pháp, có
thẩm quyền cung cấp DVPL và có quyền cung ứng loại hình DVPL đã đăng ký. Cụ
thể, bên cung ứng DVPL phải đáp ứng các điều kiện sau:
a) được tổ chức dưới hình thức các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL hoặc
người cung ứng DVPL hành nghề với tư cách cá nhân (gọi chung là tổ chức cung ứng
DVPL) b) đã đăng ký hoạt động cung ứng DVPL và được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép hoặc cấp giấy phép hoạt động DVPL
c) cung ứng loại DVPL đúng lĩnh vực và đúng loại hình DVPL của tổ chức hành
nghề. Ví dụ. Tổ chức hành nghề luật sư chỉ được đăng ký hành nghề đối với một số
hoặc cả 4 lĩnh vực hành nghề luật sư quy định tại LLS 2006, không được đăng ký và
cung ứng các DVPL thuộc loại hình DVPL (lĩnh vực hành nghề) của công chứng viên
hoặc của thừa phát lại và ngược lại. Ngồi ra, tổ chức cung ứng DVPL khơng được
đăng ký kinh doanh để hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ đối với bất kỳ
ngành, nghề nào khác.
1.1.3.2. Phương thức ký kết và hình thức tồn tại đặc biệt của hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Đa số các HĐDVPL được ký kết theo hai phương thức ký kết HĐDV truyền
thống đó là phương thức trực tiếp và phương thức gián tiếp và tồn tại dưới các hình
thức do pháp luật quy định. Tuy nhiên, có một số loại HĐDVPL, phương thức ký kết
và hình thức tồn tại rất đặc biệt nhưng vẫn thể hiện được đầy đủ sự thỏa thuận của các
bên. Việc đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng được thể hiện bằng những cách thức
và dưới những hình thức rất đặc thù hay nói cách khác hồn tồn khơng tờn tại mợt
bản HĐDVPL đợc lập, chứa đựng đầy đủ nội dung của một HĐDVPL và khơng được
thể hiện dưới một hình thức truyền thống nhất định nào mà tồn tại dưới hình thức sự
pha trộn các hình thức tồn tại của một HĐTMDV. HĐDVPL loại này được giao kết và
phát sinh hiệu lực khi bên sử dụng DVPL có yêu cầu và bên cung ứng chấp nhận thực


9


hiện một hoặc nhiều công việc thuộc lĩnh vực hành nghề của mình cho bên yêu cầu.
Quá trình thực hiện cũng đồng thời là quá trình các bên tiếp tục đưa ra những thỏa
thuận và đề nghị mới thuộc nội dung hợp đồng. HĐDVPL của Công chứng viên và
Thừa phát lại là những loại hợp đồng có phương thức ký kết và hình thức tồn tại điển
hình của trường hợp này.
1.1.3.3. Hợp đồng dịch vụ pháp lý có tính đối nhân và tính rủi ro cao.
Thứ nhất: Hợp đồng dịch vụ pháp lý có tính đối nhân
Tính đối nhân của HĐDVPL thể hiện ngay trong yếu tố hình thức tổ chức của các tổ
chức cung ứng DVPL. Hiện nay, pháp luật qui định cho hầu hết tổ chức hành nghề cung
ứng các loại hình DVPL dưới hình thức Văn phịng hoặc cơng ty hợp danh. Đối với hình
thức Văn phịng, các luật chuyên ngành qui định “hoạt động như một loại hình doanh
nghiệp tư nhân” (Điều 33 LLS), mà DNTN là loại hình DN phải chịu trách nhiệm vơ hạn
về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản phát sinh trong kinh doanh. Đối với hình thức cơng ty
hợp danh, cũng đồng nghĩa với việc các thành viên của tổ chức hành nghề phải chịu trách
nhiệm liên đới và vô hạn về các nghĩa vụ tài sản của tổ chức hành nghề. Ngoài ra, pháp
luật cũng cho phép các tổ chức hành nghề tổ chức dưới hình thức Cơng ty TNHH để được
hưởng chế độ chịu TNHH trong kinh doanh nhưng các công ty luật TNHH đăng ký kinh
doanh DVPL ngoài việc tuân theo các quy định của LDN cho loại hình cơng ty TNHH thì
cịn phải tn thủ các qui định của các luật chuyên ngành về DVPL để nhà nước quản lý
và kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động hành nghề của nó.
Tính đối nhân của DVPL còn được thể hiện bởi yếu tố người thực hiện DVPL.
Nhà đầu tư thành lập các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL đồng thời là người thực
hiện DVPL (trách nhiệm cao hơn người lao động bình thường). Các cơng việc thuộc
lĩnh vực đã đăng ký hành nghề của tổ chức hành nghề phải do chính nhà đầu tư hoặc
thành viên của tổ chức hành nghề thực hiện và họ không được giao lại công việc cho
người khác thực hiện nếu không được sự đồng ý của khách hàng.
Thứ hai: Hợp đồng dịch vụ pháp lý có tính rủi ro cao

HĐDVPL hàm chứa yếu tố rủi ro cao hơn các loại HĐDV khác, bởi các nguyên
nhân sau:
- Các bên chủ thể HĐDVPL sự bất cân xứng về kiến thức pháp luật HĐDVPL

10


Xuất phát từ đặc điểm của DVPL là gắn liền với pháp luật và bên cung ứng phải
là tổ chức hành nghề cung ứng DVPL, tất yếu dẫn đến việc có sự bất cân xứng về ý
thức pháp luật giữa các bên đặc biệt là kiến thức pháp luật về HĐDVPL.
Bên cung ứng DVPL thường có lợi thế “tuyệt đối” so với bên sử dụng DVPL,
bởi lẽ, từ bộ máy quản lý và đội ngũ người thực hiện DVPL đều là các chun gia
pháp lý, có trình đợ chun mơn và kỹ năng hành nghề luật chuyên nghiệp, hoạt động
cung ứng DVPL là hoạt động nghề nghiệp nhằm mục đích sinh lời. Bên sử dụng
DVPL là tổ chức, cá nhân bất kỳ, có thể có hiểu biết pháp luật ở mức độ nhất định
nhưng không thể so sánh với bên kia.
- Do tính khó xác định của chất lượng DVPL
Xuất phát từ bản chất vơ hình của sản phẩm DVPL dẫn đến tính khó xác định
chất lượng của DVPL. Điều này gây rất nhiều khó khăn, lúng túng cho các chủ thể hợp
đồng, đặc biệt là cho bên sử dụng DVPL. Bên sử dụng DVPL trong nhiều trường hợp
thường là thiếu hiểu biết pháp luật nên mới cần đến sự giúp đỡ của bên kia, nhưng khi
thỏa thuận về điều khoản chất lượng thì chính bên sử dụng DVPL cũng không hiểu rõ
DVPL được yêu cầu cung ứng phải đạt chất lượng như thế nào để đáp ứng được mục
đích sử dụng và điều khoản chất lượng phải thỏa thuận như thế nào thì mới đạt được
sự rõ ràng, chính xác và hợp pháp. Việc khó xác định chất lượng DVPL làm cho chủ
thể HĐDVPL khơng có cơ sở pháp lý để thỏa thuận chất lượng công việc. Mặt khác, là
một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm hợp đồng mà chủ yếu là từ
phía cung ứng DVPL nhưng bên sử dụng DVPL khơng có căn cứ pháp lý để bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình.
- Kết quả DVPL trong một số trường hợp bị phụ thuộc vào trình độ công nghệ

của các phương tiện kỹ thuật có liên quan.
Quá trình cung ứng một số DVPL, bên cung cấp không chỉ cần sử dụng những tri
thức pháp lý và kỹ năng nghề nghiệp, mà còn cần phải dựa trên kết quả hoạt động của
các phương tiện kỹ thuật hoặc kết quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức chun mơn.
Do đó, chất lượng DVPL phụ thuộc phần lớn vào mức độ hiện đại của khoa học công
nghệ tương ứng (giả thiết kỹ thuật viên khách quan, cơng tâm và khơng có bất kỳ tác
động nào đến kết quả). Ví dụ: Dịch vụ tranh tụng của luật sư tại các cơ quan tiến hành tố
tụng hiện nay trong một số trường hợp phải dựa trên kết quả giám định của cơ quan

11


chức năng có thẩm quyền với việc sử dụng máy móc, thiết bị hiện đại như: Giám định
tâm thần tư pháp, giám định pháp y, giám định ADN,…
- Trong một sớ trường hợp chủ thể HĐDVPL khơng kiểm sốt được kết quả công
việc. Gồm:
Trường hợp việc thực hiện bị phụ thuộc vào hoạt động của bên thứ ba
Đối với những loại hình DVPL khi thực hiện bị phụ thuộc vào hoạt động của bên
thứ ba thì chủ thể HĐDVPL bị phụ thuộc vào bên thứ ba ngay từ giai đoạn bàn bạc,
thương lượng để đi đến ký kết HĐDVPL. Giai đoạn này, hai bên chủ thể đã phải chú ý
để điều chỉnh những điều khoản của HĐDVPL phù hợp với quy định của pháp luật về
tổ chức và hoạt động của bên thứ ba. Có như vậy thì thỏa thuận của chủ thể HĐDVPL
mới hợp pháp và đảm bảo khả năng thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Trong quá trình
thực hiện HĐDVPL, nhiều DVPL là những hoạt động phối hợp với hoạt động của bên
thứ ba trong một hoạt động tổng thể nhất định vì thế kết quả cơng việc nằm ngồi sự
kiểm sốt của chủ thể hợp đờng và phụ thuộc có chất quyết định vào chất lượng hoạt
động của bên thứ ba trong đó có các yếu tố chủ yếu như chất lượng của nền hành
chính nhà nước và nền tư pháp. Bởi lẽ, kết quả công việc không chỉ là kết quả thực
hiện của bên cung ứng mà còn là kết quả hoạt động của bên thứ ba. Nói cách khác,
hoạt động của nhà cung cấp trong một số trường hợp không cho kết quả độc lập mà

cho kết quả tổng hợp, gắn với kết quả hoạt động của bên thứ ba.
Trường hợp công việc được thực hiện bởi nhiều người
Trong trường hợp công việc được thực hiện bởi nhiều người (nhiều luật sư bào
chữa cho một bị can, bị cáo hoặc cùng bảo vệ quyền lợi cho một đương sự) thì kết quả
cơng việc phụ thuộc vào trình độ chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức hành
nghề, sự tận tâm với công việc của mỡi luật sư trong sớ đó và như vậy kết quả tổng
hợp của việc bào chữa hoặc bảo vệ quyền lợi của các luật sư sẽ không dự liệu trước
được. Việc dự liệu trước kết quả tổng hợp của DVPL càng khó khăn hơn khi những
người thực hiện DVPL hành nghề tại các tổ chức hành nghề khác nhau. Tương tự như
vậy, cùng một DVPL nhưng nếu được thực hiện bởi người thực hiện khác nhau cũng
sẽ cho kết quả rất khác nhau.

12


Khả năng sử dụng DVPL của khách hàng
Trong trường hợp cùng một công việc được thực hiện bởi cùng một cá nhân
nhưng người sử dụng DVPL khác nhau sẽ đạt hiệu quả khác nhau. Bởi lẽ, khả năng
tiếp nhận, thụ hưởng kết quả DVPL và sử dụng kết quả để giải quyết vấn đề của các
khách hàng là khác nhau.
Như vậy, trong những trường hợp nêu trên, các bên chủ thể ln khơng kiểm sốt
được chất lượng cơng việc là đối tượng HĐDVPL.
1.1.3.4. Quá trình giao kết và thực hiện hầu hết các HĐDVPL bị phụ thuộc vào
bên thứ ba
Do tính gắn liền với pháp luật nên q trình giao kết và thực hiện một số
HĐDVPL gắn liền và do đó bị phụ thuộc vào hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng (gọi tắt là bên
thứ ba). Trong những trường hợp này, hoạt động của bên thứ ba là cơ sở để các bên
tham gia quan hệ HĐDVPL thỏa thuận nội dung HĐDVPL, đồng thời cũng thông qua
hoạt động của bên thứ ba HĐDVPL mới có khả năng thực hiện được trên thực tế.

1.1.4. Phân loại hợp đồng dịch vụ pháp lý
1.1.4.1. Căn cứ vào loại hình tổ chức hành nghề cung cấp DVPL
HĐDVPL có thể chia thành 5 loại: HĐDVPL của tổ chức hành nghề luật sư;
HĐDVPL của tổ chức hành nghề công chứng; HĐDVPL của tổ chức hành nghề Thừa
phát lại; HĐDVPL của Trung tâm tư vấn pháp luật và HĐDVPL của các tổ chức khác.
1.1.4.2. Căn cứ vào nội dung của HĐDVPL
HĐDVPL có thể chia thành 8 loại: hợp đồng dịch vụ tranh tụng, hợp đồng dịch
vụ tư vấn pháp luật, hợp đồng dịch vụ công chứng, hợp đồng dịch vụ lập vi bằng, hợp
đồng dịch vụ tống đạt giấy tờ của tòa án và cơ quan thi hành án, hợp đồng xác minh
điều kiện thi hành án, hợp đồng thi hành án và HĐDVPL khác.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung điều chỉnh vấn đề giao kết và thực hiện hợp
đồng dịch vụ pháp lý.
1.2.1. Pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp
lý.

13


Theo Điều 518 BLDS thì Hợp đồng dịch vụ là sự thoả thuận giữa các bên, theo
đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch
vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.
Như vậy hoạt động dịch vụ pháp lý không chỉ chịu sự điều chỉnh của bộ LDS mà
còn chịu sự điều chỉnh của LTM năm 2005. Tùy từng lĩnh vực cụ thể như giám định,
tư vấn, đấu thầu, xúc tiến thương mại...chịu sự điều chỉnh của các qui định cụ thể khác
nhau. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên có qui định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có
qui định khác với quy định của LTM, BLDS thì áp dụng quy định của Điều ước quốc
tế. Các bên trong giao dịch nước ngoài được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài,
tập quán quốc tế nếu pháp luật nước ngồi, tập qn thương mại quốc tế đó khơng trái
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Như vậyHĐDVPL chịu sự điều chỉnh của LTM 2005, BLDS 2005, Điều ước
quốc tế và tập quán thương mại quốc tế có liên quan.
1.2.2. Một số nội dung cơ bản của pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng
dịch vụ pháp lý.
1.2.2.1. Vấn đề giao kết HĐDVPL.
Việc ký kết hợp đồng phải được xem xét trên các khía cạnh: nguyên tắc giao kết,
căn cứ giao kết, chủ thể của hợp đồng, đối tượng của hợp đồng, nội dung và hình thức
của hợp đồng, nội dung. Cụ thể:
• Ngun tắc giao kết hợp đồng
Nguyên tắc giao kết hợp đồng đó là những tư tưởng chỉ đạo được quán triệt trong
những quy phạm pháp luật về hợp đồng, có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể
trong khi tiến hành ký kết hợp đồng. Trong nền kinh tế thị trường, việc giao kết hợp
đồng, về ngun tắc khơng cịn là kỷ luật của nhà nước, là nhiệm vụ của các tổ chức,
cơ quan và các đơn vị kinh tế nữa. Đó là quyền tự do hợp đồng, một trong những nội
dung quan trọng của quyền tự do kinh doanh.
Theo điều 389, BLDS 2005, thì việc giao kết hợp đồng phải tuân thủ các nguyên
tắc: tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; Tự
nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
• Căn cứ giao kết hợp đồng
14


Căn cứ để giao kết hợp đồng đó là: theo định hướng kế hoạch của nhà nước, các
chính sách chế độ, các chuẩn mực kinh tế kỹ thuật hiện hành; căn cứ theo nhu cầu thị
trường, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng; căn cứ vào khả năng phát triển sản
xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của đơn vị mình; căn cứ vào tính hợp
pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng bảo đảm về tài sản của các bên
cùng ký kết hợp đồng.
• Chủ thể của hợp đồng
Chủ thể của hợp đồng là các bên tham gia quan hệ hợp đồng bình đẳng, tự

nguyện thỏa thuận để xác định những quyền và nghĩa vụ với nhau. Chủ thể của HĐDV
là các thương nhân. Theo điều 6, LTM 2005 thì thương nhân gồm tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và
có đăng ký kinh doanh. Để trở thành thương nhân các cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện để
kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật nếu có u cầu hoạt động thương
mại thì cơ quan nhà nước có tồn quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và
trở thành thương nhân.
Ngoài ra, chủ thể của hợp HĐDV có thể là chi nhánh của thương nhân nước
ngồi. Theo khoản 3, điều 19, LTM 2005 thì chi nhánh của thương nhân nước ngồi
có quyền giao kết hợp đồng tại Việt Nam phù hợp với nội dung hoạt động quy định
trong giấy phép thành lập chi nhánh và theo quy định của pháp luật.
• Đối tượng của hợp đồng
Đối tượng của HĐDV là cơng việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật
cấm, không trái với đạo đức xã hội. Theo điều 75, LTM 2005, thương nhân có quyền
cung ứng các dịch vụ sau: cung ứng dịch vụ cho người cư trú tại Việt Nam sử dụng
trên lãnh thổ Việt Nam; cung ứng dịch vụ cho người không cư trú tại Việt Nam sử
dụng trên lãnh thổ Việt Nam; cung ứng dịch vụ cho người cư trú tại Việt Nam và sử
dụng trên lãnh thổ nước ngồi; cung ứng dịch vụ cho người khơng cư trú tại Việt nam
sử dụng trên lãnh thổ nước ngồi.
• Hình thức của hợp đồng
Hợp đồng dịch vụ được thể hiện bằng lời nói, văn bản hoặc được xác lập bằng
hành vi cụ thể.
15


- Đối với các loại hợp HDVĐ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn
bản thì phải tuân theo các quy định đó.

16



• Nội dung của hợp đồng
Nội dung của hợp đồng dịch vụ đó là những thỏa thuận của các bên. Các bên có
thể thỏa thuận về các nội dung chủ yếu (theo điều 402 Bộ Luật dân sự 2005) như:
+ Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không
được làm
+ Số lượng, chất lượng
+ Giá, phương thức thanh toán
+ Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng
+ Quyền, nghĩa vụ của các bên
+ Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
+ Phạt vi phạm hợp đồng
+ Các nội dung khác
Sau khi các bên đàm phán và ghi trong hợp đồng, mọi thỏa thuận ghi trong hợp
đồng ràng buộc các bên. Hợp đồng thể hiện rõ quyền lợi cũng như nghĩa vụ mà mỗi
bên trong hợp đồng có được. Các bên bắt đầu tiến hành thực hiện hợp đồng theo đúng
thỏa thuận ghi trong hợp đồng.
1.2.2.2. Vấn đề thực hiện HĐDVPL
• Nguyên tắc thực hiện
Những thỏa thuận HĐDVPL có hiệu lực sẽ có giá trị ràng buộc các bên. Các bên
phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận theo đúng hợp đồng. Để đảm bảo việc thực hiện
hợp đồng thì pháp luật quy định những nguyên tắc bắt buộc các chủ thể phải tn theo
trong q trình thực hiện hợp đồng. Đó là:
- Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, thời hạn, phương thức và các thỏa
thuận khác do các bên chủ thể thỏa thuận.
- Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các
bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau.
- Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác.

• Thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên
Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ:
Bên cung ứng dịch vụ sau khi giao kết hợp đồng phải có nghĩa vụ cung ứng các
dịch vụ và thực hiện những cơng việc có liên quan một cách đầy đủ phù hợp những thỏa
thuận như thực hiện công việc đúng số lượng, chất lượng, thời hạn, địa điểm và các thỏa
17


thuận khác. Không được giao cho người khác thực hiện thay cơng việc, nếu khơng có sự
đồng ý của bên th dịch vụ. Sau khi hồn thành cơng việc, bên cung ứng dịch vụ phải
bảo quản và giao lại cho khách hàng những tài liệu và phương tiện được giao để thực
hiện dịch vụ. Nếu những thông tin, tài liệu khơng đầy đủ, phương tiện khơng bảo đảm
để hồn thành cơng việc thì phải thơng báo ngay cho bên th dịch vụ. Trong thỏa thuận
có u cầu cần giữ bí mật về thơng tin mà mình biết thì trong q trình cung ứng dịch
vụ phải giữ bí mật theo đúng thỏa thuận. Trường hợp mất mát, hư hỏng tài liệu, phương
tiện được giao hoặc tiết lộ bí mật thơng tin thì phải bồi thường thiệt hại. 5
Để thực hiện tốt cơng việc của mình, bên cung ứng dịch vụ có quyền yêu cầu
khách hàng cung cấp thông tin, tài liệu, phương tiện có liên quan. Hoặc được thay đổi
điều kiện dịch vụ vì lợi ích của khách hàng mà khơng nhất thiết phải chờ ý kiến của
khách hàng, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho khách hàng, nhưng phải báo ngay
cho khách hàng. 6
Theo điều 82, LTM 2005 quy định về thời hạn hoàn thành dịch vụ. Cụ thể: bên
cung ứng dịch vụ phải hoàn thành đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Trường hợp không có thỏa thn về thời hạn hồn thành dịch vụ thì bên cung ứng dịch
vụ phải hồn thành dịch vụ trong một thời hạn hợp lý trên cơ sở tính đến tất cả các
điều kiện và hoàn cảnh mà bên cung ứng dịch vụ biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng, bao gồm bất kỳ nhu cầu cụ thể nào của khách hàng có liên quan đến thời gian
hồn thành dịch vụ. Trường hợp một dịch vụ chỉ có thể được hoàn thành khi khách
hàng hoặc bên cung ứng dịch vụ khác đáp ứng các điều kiện nhất định thì bên cung
ứng dịch vụ đó khơng có nghĩa vụ hồn thành dịch vụ của mình cho đến khi các điều

kiện đó được đáp ứng.
Sau khi hết thời hạn hồn thành việc cung ứng dịch vụ mà dịch vụ vẫn chưa hồn
thành, nếu khách hàng khơng phản đối thì bên cung ứng dịch vụ phải tiếp tục cung ứng
dịch vụ theo nội dung đã thỏa thuận và phải bồi thường thiệt hại, nếu có.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ (khách hàng):
Khách hàng phải có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ tiền cung ứng dịch vụ như đã
thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu có yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho
Điều 78, LTM 2005 & Điều 522 , BLDS 2005 về: “Nghĩa vụ của bên cung ứng
dịch vụ”
6
Điều 523, BLDS 2005 về: “Quyền của bên cung ứng dịch vụ”
5

18


việc thực hiện thì phải cung cấp kịp thời. Trường hợp một dịch vụ do nhiều bên cung
ứng dịch vụ cùng tiến hành hoặc phối hợp với bên cung ứng dịch vụ khác, khách hàng
có nghĩa vụ điều phối hoạt động của bên cung ứng dịch vụ để không gây cản trở đến
công việc của bất kỳ bên cung ứng dịch vụ nào và phải trả tiền dịch vụ cho bên cung
ứng dịch vụ theo như thỏa thuận trong hợp đồng. 7
Theo tinh thần điều 86, LTM 2005 và khoản 3, điều 524, BLDS 2005 thì trường
hợp khơng có thỏa thuận về giá dịch vụ, khơng có thỏa thuận về phương pháp tính giá
dịch vụ và cũng khơng có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá dịch vụ thì giá dịch vụ được
xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức
cung ứng, thời điểm cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh tốn và các điều
kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ.
Khách hàng phải trả tiền dịch vụ tại thời điểm hồn thành dịch vụ, nếu khơng có
thỏa thuận khác. Trường hợp dịch vụ được cung ứng không đạt được như thỏa thuận
hoặc công việc không được hồn thành đúng thời hạn thì khách hàng có quyền giảm

tiền dịch vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại. 8
1.3. Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh giao kết và thực hiện HĐDVPL
Việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của các bên nhằm thoả mãn những nhu cầu về
vật chất, văn hoá tinh thần của mỗi bên và phải hướng tới lợi ích chung của tồn xã
hội. Ngồi ra các bên còn phải thể hiện việc chấp hành pháp luật, thể hiện tinh thần tôn
trọng truyền thống đạo đức xã hội của trong quá trình thực hiện các giao dịch dân sự.
Khi giao kết và thực hiện HĐDVPL, các bên có liên quan phải tuân theo những
nguyên tắc cơ bản khi giao kết hợp đồng dân sự và những nguyên tắc cơ bản trong
hoạt động thương mại.
- BLDS 2005 quy định việc giao kết hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc sau: 9
Thứ nhất, tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã
hội: Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của hợp đồng. Theo nguyên tắc
này thì các bên đủ tư cách chủ thể có quyền tự do quyết định việc giao kết hợp đồng
theo ý muốn chủ quan và vì lợi ích của chính họ. Các bên chủ thể có quyền tự do lựa
chọn việc giao kết với ai, với nội dung như thế nào, hình thức ra sao. Mọi cam kết thoả
7
8
9

Điều 520, BLDS 2005 về: “Nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ”
Điều 521, BLDS 2005 về: “Quyền của bên thuê dịch vụ”
Điều 389, BLDS 2005 về “Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự”
19


thuận hợp pháp đều được nhà nước bảo hộ và khi khơng có sự tự nguyện của các bên
có thể bị tuyên bố vô hiệu. Tuy nhiên, sự tự do đó khơng được trái với pháp luật và
đạo đức xã hội. Khi đó thì hợp đồng giao kết mới được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Thứ hai, nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng: Theo nguyên tắc này các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng và

bảo đảm nội dung của quan hệ đó. Hợp đồng phải thể hiện được sự tương ứng về
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các bên. Các bên khi giao kết không được đe
dọa, cưỡng ép bên kia giao kết hợp đồng với mình mà khơng theo ý chí của họ. Nếu
phát hiện hợp đồng được giao kết mà bị đe dọa, cưỡng ép, lừa dối để giao kết thì hợp
đồng đó sẽ bị vơ hiệu.
Bên cạnh đó, trong q trình giao kết và thực hiện hợp đồng các bên phải thể
hiện rõ thái độ trung thực và ngay thẳng. Trung thực và ngay thẳng có nghĩa là các
phải nói rõ cho nhau biết về tình trạng và đặc tính của đối tượng, không được lừa dối
nhau, nếu che dấu khuyết tật của đối tượng hợp đồng nhằm mục đích tư lợi mà gây
thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường.
Ngồi ra, các bên phải có tinh thần hợp tác lẫn nhau. Trong quá trình thực hiện hợp
đồng, các bên tương trợ, giúp đỡ và thông tin cho nhau để đáp ứng nhu cầu và bảo đảm
lợi ích cho các bên. Theo nguyên tắc này, các bên phải luôn quan tâm đến nhau, tạo điều
kiện giúp nhau khắc phục khó khăn trong q trình thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Hơn
nữa, nguyên tắc này đòi hỏi cả hai bên phải cùng nhau tìm và thực hiện mọi biện pháp cần
thiết để ngăn chặn, hạn chế khi có thiệt hại xảy ra. Nếu bên nào có điều kiện mà khơng
thực hiện các biện pháp ngăn chặn sẽ bị coi là có lỗi và phải gánh chịu thiệt hại.
- LTM 2005 quy định các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại từ
Điều 10 đến Điều 15.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ GIAO KẾT VÀ
THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ TẠI VĂN PHÒNG LUẬT SƯ
INTERLA.

20


2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến giao kết và thực
hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý.
HĐDVPL là một chế định quan trọng trong Luật Thương mại 2005. Cùng với

đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác, HĐDV là
một hoạt động thương mại được quy định tại chương III của LTM 2005.
HĐDVPL là một chế định được thiết lập nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho các chủ thể khi tham gia thị trường thương mại dịch vụ, từ đó, giúp cho
các chủ thể kinh doanh dịch vụ có được mơi trường kinh doanh lành mạnh và bình
đẳng. Khi thị trường thương mại dịch vụ Việt Nam đang tiến tới tiến trình mở cửa theo
WTO sẽ xuất hiện nhiều cơ hội cũng như những thách thức đối với doanh nghiệp
thương mại dịch vụ Việt Nam thì hợp đồng dịch vụ pháp lý này sẽ là cơ sở pháp lý, là
công cụ hữu hiệu cho các doanh nghiệp nước ta nâng cao khả năng cạnh tranh trong
nước và thâm nhập thị trường nước ngoài.
Ở Việt Nam, các vấn đề liên quan đến hợp đồng dịch vụ pháp lý trong hoạt động
thương mại được điều chỉnh tương đối toàn diện trong các văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành:
Thứ nhất, nhóm các quy định chung về hợp đồng dịch vụ pháp lý: nhóm này quy
định những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc về các hoạt động dịch vụ pháp lý, các
hợp đồng dịch vụ pháp lý. Hiện nay, ta có thể dễ dàng tìm thấy các quy định chung về
hoạt động dịch vụ pháp lý và hợp đồng dịch vụ trong BLDS 2005 và LTM 2005.
Thứ hai, nhóm các quy định chuyên ngành về hợp đồng dịch vụ pháp lý: Bên
cạnh những quy định chung về hợp đồng dịch vụ trong BLDS 2005 thì LTM 2005
cũng chứa đựng rất nhiều những quy định về hợp đồng dịch vụ pháp lý. Ngồi ra cịn
một số các văn bản dưới luật khác như thông tư 06/2003/TT-BTP ngày 29 tháng 10
năm 2003 qui định về DVPL nước ngồi tại Việt Nam, Luật cơng chứng năm 2006,
nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24 tháng 7 năm 2009, về thí điểm thực hiện thừa phát
lại tại thành phố Hồ Chí Minh...
Thứ ba, nhóm các quy định về hợp đồng dịch vụ có yếu tố nước ngồi: (điển
hình là hiệp định về thương mại dịch vụ GATS) Cùng với tiến trình tự do hóa thương
mại, Việt Nam đang tích cực hội nhập kinh tế quốc tế nên việc thực hiện các giao dịch
có yếu tố nước ngồi là tương đối phổ biến. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng

21



hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước
ngồi, tập qn thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của LTM
2005, BLDS 2005 thì áp dụng qui định của Điều ước quốc tế. Các bên trong giao dịch
nước ngoài được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán quốc tế nếu pháp
luật nước ngoài, tập qn thương mại quốc tế đó khơng trái với các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam.
2.2. Thực trạng các qui phạm pháp luật điều chỉnh về giao kết và thực hiện
hợp đồng dịch vụ pháp lý.
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Đáp ứng nhu cầu hội nhập của nước ta trong những năm gần đây, đặc biệt là khi
Việt Nam trở thành thành viên của WTO, Quốc hội đã ban hành và sửa đổi pháp luật
cho phù hợp với nhu cầu thực tế, trong đó có Luật luật sư theo đó ban hành các quy
định phù hợp với các loại hình luật sư trên thế giới, nhằm giúp cho pháp luật của
chúng ta được thi hành một cách triệt để và chun nghiệp. Theo đó, hình thức tổ chức
hành nghề luật sư được mở rộng so với trước kia và phù hợp với thế giới, cụ thể là: tại
điểm b khoản 1 Điều 32 Luật luật sư năm 2006 qui định: Các luật sư có thể hành nghề
luật sư dưới dạng Công ty Luật. Như vậy không giới hạn là Văn phịng luật sư hay
Cơng ty hợp danh như trước kia mà bây giờ có thêm Cơng ty trách nhiệm hữu hạn 1
thành viên hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên (theo quy định tại
Điều 34 Luật luật sư 2006). Quy định này góp phần làm nâng cao tính chun nghiệp
của các luật sư để dễ dàng hội nhập với luật sư trên thế giới.
Văn phịng luật sư Interla thuộc Đồn Luật sư thành phố Hà Nội được thành lập
theo Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động số 01010547/TP/ĐKHĐ do Sở Tư pháp
thành phố Hà Nội cấp năm 2009. Với các Luật sư có trình độ cao, có nhiều năm kinh
nghiệm, kiến thức hiểu biết sâu rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp cùng đội ngũ
chuyên viên tư vấn trẻ, năng động và đầy nhiệt huyết. Đến nay văn phòng Luật sư
Interla đã và đang khẳng định là một trong những lựa chọn tin cậy của khách hàng
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý cho các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.

2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng luật sư Interla

22


×