Tải bản đầy đủ (.doc) (149 trang)

Giải pháp chủ yếu giúp hộ nông dân nghèo tiếp cận tín dụng vi mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.52 KB, 149 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của loài người, nghèo đói vẫn là vấn đề xã hội rộng
lớn và mang tính toàn cầu. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nhiều quốc gia vẫn
chưa giải quyết được vấn đề nghèo đói. Do nhận thức, phương pháp giải quyết và
điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi nước, mỗi vùng là khác nhau mà mức độ nghèo đói
và số người nghèo đói khác nhau. Việt Nam vốn là nước nông nghiệp, hiện có
70,4% dân số sống ở khu vực nông thôn. Lao động nông nghiệp chiếm 52% tổng
lao động cả nước. Đến năm 2009, cả nước có 2,4 triệu hộ nghèo, chiếm 13% tổng
số hộ, trong đó 90% số hộ sống ở khu vực nông thôn với hơn 30% các hộ nông dân
nghèo nhất đang sinh sống ở các vùng nghèo nhất của cả nước. Vì vậy, vấn đề xóa
đói giảm nghèo là một trong những nội dung xuyên suốt trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội không chỉ của riêng Việt Nam mà của cả các nước đang phát triển
và là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Chính phủ các nước.
Kết quả của các cuộc điều tra kinh tế - xã hội do nhiều tổ chức khác nhau
tiến hành đều cho một kết luận chung là đại bộ phận số hộ ở nông thôn, đặc biệt là
các hộ nghèo đều trong tình trạng thiếu vốn và có nhu cầu vay vốn cho sản xuất
kinh doanh. Thiếu vốn là nguyên nhân trước hết cản trở sự mở rộng các hoạt động
sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và tăng thu nhập ở nông thôn, đặc biệt là ở các hộ
nghèo. Vốn tín dụng có vai trò mạnh mẽ trong bổ sung sự thiếu hụt đó nhằm phát
triển nông nghiệp và nông thôn. Trong đó tín dụng vi mô là một phương tiện dịch
vụ tài chính bền vững có thể giúp người nghèo không chỉ tạo thêm thu nhập, gây
dựng vốn liếng mà còn có thể giúp họ giảm bớt những tổn thương do những tác
động của ngoại cảng mang lại. Hình thức tín dụng vi mô được coi là một giải pháp
cơ bản giúp các hộ nghèo có thể chuyển từ việc kiếm ăn hàng ngày sang tích lũy
cho tương lai, đầu tư tốt hơn cho các chế độ dinh dưỡng, cải thiện điều kiện sống:
mua sắm thêm các phương tiện sản xuất và tiêu dùng, chăm sóc sức khỏe và giáo
dục cho trẻ em.
1
Ở Việt Nam, khu vực kinh tế nông thôn hiện nay đang phát triển mạnh và
ngày càng thể hiện được sự đóng góp quan trọng của nó đối với nền kinh tế quốc


dân. Sự chuyển đổi kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn đã tạo ra các cơ hội đầu tư
vào các trang trại, các dự án sản xuất nông nghiệp. Nhu cầu đầu tư vốn phát triển
sản xuất kinh doanh của các hộ nông dân một phần là tự đáp ứng, phần khác được
huy động từ các nguồn tín dụng chính thức và phi chính thức. Do đó, cung cấp các
khoản vay có lãi suất phù hợp có thể thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, mở rộng
sản xuất lương thực và tăng thu nhập trong nông nghiệp (Zeller và cs, 1997).
Tính đến tháng 6/2008, dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất nông nghiệp của
ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân,
cộng với vốn của ngân hàng Chính sách xã hội cho vay hộ nghèo và các đối tượng
chính sách đạt khoảng 181.500 tỷ đồng, số dư nợ này chỉ chiếm khoảng 17% tổng
dư nợ cho vay các thành phần kinh tế của các tổ chức tín dụng Việt Nam. Ở Việt
Nam đã có nhiều nghiên cứu về thị trường tài chính nông thôn cả tín dụng chính
thức và tín dụng không chính thức cho hộ nông dân ở các mức độ và khía cạnh khác
nhau. Lê Thị Thanh (2008) đã chỉ ra rằng, hộ nông dân có thể dễ dàng tiếp cận với
các tổ chức tín dụng nông thôn với những khoản vay nhỏ (lên đến 10 triệu đồng).
Tuy nhiên, đối với các khoản vay lớn hơn 10 triệu đồng hay với các khoản vay
trung và dài hạn, các hộ nông dân dường như gặp phải rất nhiều khó khăn do thiếu
kế hoạch đầu tư khả thi và chưa có hệ thống cảnh báo rủi ro sớm đối với khách hàng
khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Trong một nghiên cứu về tiếp cận vốn tín dụng chính thức, Vu (2001) đã chỉ
ra các đặc điểm của hộ nông dân có ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nguồn vốn tín
dụng chính thức. Nguồn tín dụng chính thức bị ảnh hưởng bởi các yếu tố: diện tích
đất, trình độ học vấn của các chủ hộ, số lao động và số người còn phụ thuộc, độ
tuổi, giới tính, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hộ có khả năng vay được từ
các nguồn tín dụng phi chính thức (Pham và Izumida, 2002; Nguyên Văn Ngân và
Lê Khương Ninh, 2008). Năm 2009, Trần Hữu Cường và cs đã chỉ ra rằng, tín dụng
là một trong các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định đầu tư vốn của các hộ
nông dân. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy, khả năng vay vốn tín dụng của
2
hộ nông dân từ các tổ chức tín dụng chính thức bị chi phối bởi các nhân tố như tài

sản thế chấp, kế hoạch đầu tư khả thi và thủ tục vay vốn rườm rà.
Yên Dũng là một huyện miền núi và cũng là huyện còn nhiều khó khăn nhất
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Tính đến hết năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo của huyện Yên
Dũng là 13,12%, chiếm một tỷ lệ khá cao so với toàn tỉnh. Trong những năm qua,
huyện Yên Dũng đã triển khai nhiều chương trình tín dụng hỗ trợ cho người nghèo
có điều kiện phát triển kinh tế, kết quả đã đạt được những thành công nhất định.
Tuy nhiên, theo nhiều nguồn số liệu thống kê thì việc tiếp cận nguồn vốn và sử
dụng nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng chính thức đối với hộ nông dân nghèo
vẫn chưa thật sự hiệu quả. Hơn nữa, việc phân khúc thị trường cho người nghèo hầu
như các ngân hàng hoàn toàn không chú trọng đến. Mặc dù, tỷ lệ hộ nghèo trong
những năm gần đây đã có xu hướng giảm dần nhờ vào các chính sách xóa đói giảm
nghèo thông qua các chương trình tín dụng nông thôn, tín dụng người nghèo (huyện
Yên Dũng mới chỉ rà soát được những hộ khá hơn để cho thoát nghèo, đa số các hộ
thoát nghèo là nhờ vào việc đưa lao động gia đình đi làm việc ở nước ngoài).
Nhưng thực tế không phải tất cả các hộ nông dân nghèo đều có thể tiếp cận được
nguồn vốn tín dụng từ các tổ chức tín dụng chính thức, đặc biệt là ngân hàng Chính
sách xã hội. Có nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan dẫn đến vấn đề trên,
do đó nghiên cứu này được thực hiện với mong muốn đánh giá thực trạng tiếp cận
tín dụng vi mô đối với người nghèo trên địa bàn huyện Yên Dũng và xác định các
nhân tố tác động đến khả năng tiếp cận tín nguồn tín dụng của hộ nông dân nghèo
huyện Yên Dũng; tìm hiểu tại sao một số hộ nông dân nghèo sử dụng tín dụng
chính thức trong khi các hộ khác thì không. Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn của
địa phương, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Giải pháp chủ yếu giúp hộ nông dân
nghèo tiếp cận tín dụng vi mô ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang” làm luận văn
Thạc sỹ kinh tế.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng tiếp cận nguồn vốn tín dụng vi mô của hộ nông dân
nghèo trên địa bàn huyện Yên Dũng trong thời gian qua, trên cơ sở đó đề xuất định
3

hướng và một số giải pháp chủ yếu giúp hộ nông dân nghèo tiếp cận hiệu quả hơn
các nguồn vốn tín dụng vi mô ở huyện Yên Dũng.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về tiếp cận vốn tín dụng
vi mô của hộ nông dân
- Đánh giá thực trạng tiếp cận tín dụng vi mô của hộ nông dân nghèo của
huyện Yên Dũng. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng vi mô của
các hộ nông dân nghèo
- Đề xuất định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường tiếp cận
tín dụng vi mô cho các hộ nông dân nghèo ở huyện Yên Dũng
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các hình thức và các điều kiện ảnh hưởng đến việc tiếp cận
nguồn vốn tín dụng vi mô của các hộ nông dân nghèo ở huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc
Giang
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về hoạt động tín dụng vi mô, đặc biệt là các hình thức tiếp cận vốn tín
dụng vi mô chính thống đối với các hộ nông dân nghèo
- Phạm vi về không gian: Đề tài được thực hiện trên địa bàn huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang
- Phạm vi về thời gian: đề tài thu thập các thông tin, số liệu thứ cấp theo số
liệu niên giám thống kê, số liệu từ các phòng ban có liên quan từ năm 2008 – 2010
và các số liệu khảo sát các hộ nông dân nghèo của huyện Yên Dũng trong khoảng
thời gian từ tháng 6 năm 2010 đến hết tháng 6 năm 2011.
4
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Cơ sở lý luận về tín dụng vi mô
2.1.1.1 Một số khái niệm tín dụng và tín dụng vi mô

a. Khái niệm tín dụng
Tín dụng xuất phát từ gốc La – tinh: Credittum tức là sự tin tưởng, tín nhiệm.
Tín dụng biểu hiện mối quan hệ kinh tế - xã hội gắn liền với quá trình tạo lập
và sử dụng vốn nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tạm thời cho các quá trình sản
xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.
Theo Đại Từ điển kinh tế thị trường “Tín dụng là những hành động cho vay
và bán chịu hàng hóa và vốn giữa những người sở hữu khác nhau. Tín dụng không
phải là hoạt động vay tiền đơn giản mà là hoạt động vay tiền có điều kiện, tức là
phải bồi hoàn thanh toán tức lợi. Tín dụng là hình thức đặc thù vận động giá trị khác
với lưu thông hàng hóa đơn thuần: vận động giá trị nên dẫn tới phương thức mượn
tài khoản, bồi hoàn giá trị thanh toán”.
Tín dụng là “phạm trù kinh tế thể hiện mối quan hệ giữa người cho vay và
người đi vay, trong quan hệ này người cho vay có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử
dụng tiền hoặc hàng hóa cho người đi vay trong thời gian nhất định, khi tới thời hạn
trả nợ người đi vay có nghĩa vụ hoàn trả số tiền hoặc hàng hóa cho người cho vay
kèm theo một khoản lãi” [Luật các tổ chức tín dụng và văn bản hướng dẫn thi hành,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002].
Như vậy, bên cho vay là người chủ sở hữu của số tiền hay hàng hóa đã
chuyển giao quyền sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định với mục đích
sinh lời.
Trong mối quan hệ trên xuất hiện một nhu cầu, đó là người cho vay muốn
bảo tồn giá trị của vốn bỏ ra và có lợi ích tăng thêm, do đó thỏa thuận với người đi
vay một phần giá trị tăng thêm, phần giá trị tăng thêm này chính là lãi hay còn gọi
là lợi tức tín dụng. Như vậy, lợi tức tín dụng chính là chi phí sử dụng tiền vay mà
người đi vay phải trả, đồng thời cũng là lợi ích mà người cho vay nhận được khi
5
quyết định chuyển giao quyền sử dụng hiện tại để tích lũy cho tiêu dùng tương lai.
Trong quan hệ tín dụng này, cả hai bên đều đạt được mục đích của mình, người đi
vay giải quyết được nhu cầu về vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, người cho vay thì
nhận được khoản lợi tức tín dụng của mình. Tuy nhiên việc người đi vay phải trả

bao nhiêu cho người cho vay còn phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Tỷ lệ lãi suất ngân hàng, tầm quan trọng của vốn trong đầu tư kinh doanh
của người đi vay
- Tình hình ổn định và xu hướng vận động của việc kinh doanh tiền tệ
- Tùy từng khả năng thanh toán của người đi vay trong điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định mà người đi vay phải chịu mức lợi tức cao hay thấp hơn mức lợi tức
bình thường.
- Các yếu tố rủi ro có thể của khoản vay
b. Khái niệm tín dụng vi mô
Tín dụng vi mô là tín dụng cho người nghèo, là những khoản vay nhỏ, rất
nhỏ do các ngân hàng hoặc một tổ chức nào đó cung cấp cho người nghèo. Mục
đích là giúp họ có thể tham gia hoạt động sản xuất hay tiến hành kinh doanh. Nói
mở rộng ra là toàn bộ những hình thức tín dụng ưu đãi cho người nghèo
* Mục tiêu của tín dụng vi mô là xóa đói giảm nghèo hiệu quả, tăng cường
năng lực và khả năng hội nhập của người nghèo, giảm mức độ tổn thương của họ
trước những rủi ro và biến động của nền kinh tế
* Đặc điểm của tín dụng vi mô:
- Tín dụng vi mô là những món tiền nhỏ giành cho người nghèo
- Tín dụng vi mô có mức lãi suất hợp lý, trả dần khoản nhỏ, tiết kiệm nhỏ và
được rút một món tiền lớn hơn
- Là hình thức vay vốn có thể không yêu cầu có thế chấp
- Tín dụng vi mô được xem là “cần câu” chứ không phải “con cá” đối với
các hộ
- Dành cho cá nhân vay, thông thường qua một tổ chức hay một nhóm người
(hình thức vay tín chấp)
- Chi phí hoạt động của hệ thống tài chính vi mô là khá lớn, chịu nhiều rủi ro
6
* Sự khác nhau giữa tín dụng vi mô và tài chính vi mô:
- Tín dụng vi mô chỉ đơn giản là một khoản vay nhỏ, do ngân hàng hay một
tổ chức nào đó cấp. Tín dụng vi mô thường dành cho cá nhân vay, không cần tài sản

thế chấp, hoặc thông qua việc cho vay theo nhóm.
- Tài chính vi mô đề cập đến các hoạt động cho vay, tiết kiệm, bảo hiểm,
chuyển giao dịch vụ và các sản phẩm tài chính khác đến cho nhóm khách hàng có
thu nhập thấp.
2.1.1.2 Bản chất, chức năng và phân loại tín dụng tín dụng vi mô
a. Bản chất của tín dụng vi mô
Các Mác đã viết về bản chất của tín dụng như sau: “Tiền chẳng qua chỉ rời
khỏi tay người sở hữu trong một thời gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay
người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động, cho nên tiền không phải được bỏ ra để
thanh toán, cũng không phải tự đem bán đi mà cho vay, tiền chỉ đem nhượng lại với
một điều kiện là nó sẽ quay trở về điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định”[Đỗ Tất
Ngọc (2006), Tín dụng ngân hàng đối với kinh tế hộ ở Việt Nam, NXB Lao động,
Hà Nội]. Đồng thời Các Mác cũng đã vạch rõ yêu cầu của việc tiền quay trở về
điểm xuất phát là phải “vẫn giữ nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn thêm
trong quá trình vận động”[ Đỗ Tất Ngọc (2006), Tín dụng ngân hàng đối với kinh tế
hộ ở Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội].
Tín dụng rất phong phú và đa dạng về hình thức và bản chất của tín dụng,
được thể hiện ở các phương diện sau: “Thứ nhất, người sơ hữu tiền hoặc hàng hóa
chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định. Lúc này, vốn
được chuyển từ tay người cho vay sang người vay. Thứ hai, sau khi nhận được vốn
tín dụng, người đi vay được quyền sử dụng để thỏa mãn một hay một số mục đích
nhất định. Thứ ba, đến thời hạn do hai bên thỏa thuận, người vay hoàn trả lại cho
người cho vay một giá trị lớn hơn vốn vay ban đầu. Phần tăng thêm này được gọi là
tiền lãi”[13].
Tóm lại, bản chất của tín dụng được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau,
nhưng đều đề cập đến mối quan hệ, một bên là người cho vay và một bên là người
đi vay. Trong mối quan hệ này nó được ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, chính sách
7
lãi suất và pháp luật hiện hành. Sự hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất vận động
của tín dụng, là dấu ấn phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm trù kinh tế khác.

b. Chức năng của tín dụng
Tín dụng có các chức năng quan trọng trong đó có ba chức năng cơ bản sau:
- Thứ nhất, chức năng phân phối lại tài sản dưới hình thức vốn tiền tệ của
người tạm thời chưa dùng đến chuyển cho người tạm thời cần sử dụng
Đó là chuyển nhượng quyền sử dụng vốn. Việc luân chuyển vốn tiền tệ này
xuất phát từ lợi ích của cả hai bên, được thực hiện một cách tự nguyện theo thỏa
thuận xuất phát từ chức năng của tài chính về phân phối của cải bằng tiền, chức
năng bảo đảm vốn và thúc đẩy vận động liên tục tiền vốn.
Các tổ chức, cá nhân có vốn tiền tệ tạm thời chưa dùng đến không muốn vốn
đó nằm im, không sinh lời nên đã nhượng cho tổ chức, cá nhân khác thiếu vốn cần
sử dụng tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội.
Nhà nước, ngân hàng đã sử dụng chức năng này của tín dụng để thu hút vốn
nhàn rỗi trong nền kinh tế. Các tổ chức, cá nhân thừa vốn và thiếu vốn được thực
hiện thông qua tín dụng, vừa khắc phục được tình trạng thừa thiếu vốn, vừa phát
huy hiệu quả sử dụng vốn.
Chức năng phân phối của tín dụng được thực hiện thông qua hai con đường
là a) phân phối trực tiếp chuyển từ người cho vay sang người vay, không qua trung
gian và b) phân phối gián tiếp là sự phân phối qua người trung gian, môi giới tức là
qua trung gian tài chính.
- Thứ hai, chức năng tạo vốn tiền tệ của tín dụng
Những nguồn vốn nhàn rỗi được huy động từ các tổ chức và nhân dân hình
thành nguồn vốn lớn của các tổ chức tín dụng rồi từ đó cung ứng cho các doanh
nghiệp sản xuất, dịch vụ và các tổ chức tín dụng khác. Chức năng này thúc đẩy thị
trường vốn ngắn và dài hạn ngày càng sôi động và mở rộng.
- Thứ ba, chức năng kiểm tra của tín dụng
Vốn tiền tệ cho vay không làm thay đổi quyền sở hữu của người cho vay có
vốn cho vay. Người cho vay vốn luôn tính tới sự bảo toàn vốn gốc và còn phải có
tiền lời, tức là phát triển được số vốn đã có, chống mọi sự rủi ro mất vốn. Chính vì
8
vậy mà họ phải kiểm tra sử dụng vốn của người vay.

Chức năng kiểm tra của tín dụng phát huy trước khi quan hệ tín dụng phát
sinh, trong quá trình sử dụng vốn tín dụng và đến khi quan hệ tín dụng kết thúc.
Người sử dụng vốn tín dụng phải chứng minh là vốn tín dụng sử dụng có hiệu quả,
có vật chất bảo đảm cùng với sự tín nhiệm. Sự kiểm tra vốn tín dụng là nhằm bảo
đảm vốn tín dụng sử dụng đúng mục đích, được cung ứng theo kế hoạch sử dụng để
phát huy hiệu quả, ngăn chặn rủi ro bằng tài sản thế chấp để bảo đảm vốn được thu
hồi. Những điều đó được thể hiện trong nguyên tắc tín dụng. Tín dụng với ba chức
năng cơ bản này thực sự là một công cụ quan trọng trong việc phân phối và quản lý
các hoạt động kinh tế đất nước.
c. Phân loại tín dung
Tùy thuộc vào các tiêu chí khác nhau mà có cách phân chia tín dụng ra các
loại khác nhau.
(1) Phân loại theo thời hạn tín dụng
Căn cứ vào thời gian cho vay, tín dụng được phân thành ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn là tín dụng có thời gian sử dụng từ một năm trở xuống
- Tín dụng trung hạn là tín dụng có thời gian sử dụng từ 1 năm đến 5 năm
- Tín dụng dài hạn là tín dụng có thời gian sử dụng trên 5 năm
(2) Phân loại theo mục đích trả nợ
Căn cứ vào mục đích sử dụng, tín dụng được phân thành tín dụng sản xuất và
tín dụng tiêu dùng
- Tín dụng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhau như
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, du lịch…
- Tín dụng tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
(3) Phân loại theo tính chất đảm bảo an toàn
- Tín dụng có đảm bảo là loại tín dụng được áp dụng đối với khách hàng
chưa quen (vay vốn lần đầu) hoặc khách hàng chưa có uy tín đối với bên cấp tín
dụng. Khi vay vốn thuộc loại này, bên vay bắt buộc phải có tài sản làm đảm bảo.
- Tín dụng không có bảo đảm là loại tín dụng thường được áp dụng đối với
9

những khách hàng truyền thống có quan hệ tín dụng lâu năm với ngân hàng, đồng thời
đó là những khách hàng có tình trạng tài chính vững chắc, sản xuất kinh doanh ổn định,
có lãi, có quan hệ tốt trong giao dịch với khách hàng, nợ nần được thanh toán đầy đủ,
đúng hạn. Thông thường khi cấp loại tín dụng này, các ngân hàng thường căn cứ
vào phương án sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng
(4) Phân loại theo nguồn vốn được cung cấp
- Hệ thống quỹ đầu tư phát triển
- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
- Ngân hàng Chính sách xã hội
- Ngân hàng Thương mại Nhà nước
- Các hợp tác xã tín dụng
- Các quỹ tín dụng nhân dân
- Các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ,…
2.1.1.3 Hệ thống tín dụng vi mô ở Việt Nam
a. Lịch sử hình thành tín dụng vi mô ở Việt Nam
Lịch sử hình thành tín dụng vi mô ở Việt Nam được chia thành 3 thời kỳ
chính sau:
- Thời kỳ mở đầu tín dụng vi mô đến với hộ nghèo bằng nguồn vốn huy động
lãi suất cao để cho vay ưu đãi hộ nghèo lãi suất thấp. Người nghèo vì thiếu vốn nên
muốn làm gì cũng không được, vì vậy, muốn giúp hộ nghèo trước hết là phải giúp
họ về tài chính. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thành lập “Quỹ
cho vay ưu đãi hộ nghèo” (do 3 ngân hàng tham gia đóng góp: ngân hàng Nông
nghiệp, ngân hàng Nông thôn Việt Nam và ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam) với nguồn vốn huy động theo lãi suất thị trường nhưng để cho
hộ nghèo vay thì phải theo lãi suất ưu đãi. Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo lúc bấy giờ
chỉ đạt khoảng 400 tỷ đồng và tồn tại không dài nhưng thực tế đã gặt hái được nhiều
thành quả đáng khích lệ, làm thay đổi quan điểm nhận thức đối với người nghèo,
tạo nên tiền đề hình thành chủ trương chiến lược Xóa Đói Giảm Nghèo trên phạm
vi cả nước. Khẩu hiệu “cho cần câu, hơn cho xâu cá” đã nâng vị thế và uy tín của
ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam lên một bước đáng kể

10
không những với nhân dân lao động trong cả nước mà cả đối với cộng đồng quốc tế.
Trong lịch sử hoạt động tiền tệ tín dụng ngân hàng, lần đầu tiên một số ngân
hàng Thương mại quốc doanh dùng vốn huy động thị trường với lãi suất cao (2,1%
tháng) để cho vay hộ nghèo với lãi suất thấp (1,2% tháng) chỉ vì mục đích phục vụ
người nghèo, góp phần ổn định kinh tế - xã hội đất nước.
- Thời kỳ tăng trưởng nguồn vốn mở rộng tín dụng trong nước và ngoài
nước. Trên thực tế, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
không có tư cách pháp nhân và khả năng tạo lập nguồn vốn; và để tiếp tục mở rộng
tín dụng đối với người nghèo, càng không thể tiếp tục huy động vốn theo lãi suất
cao để cho vay theo lãi suất thấp. Đã đến lúc phải có một tổ chức tín dụng được Nhà
nước hỗ trợ về vốn hoạt động như một ngân hàng Thương mại quốc doanh mới có
thể đảm đương được nhiệm vụ. Vì vậy, ngân hàng phục vụ người nghèo thuộc ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã được ra đời theo quyết định số 525
ngày 31/8/1995 của Thủ tướng Chính phủ, khai trương hoạt động ngày
01/01/1996.Vốn tín dụng của ngân hàng phục vụ người nghèo đã lồng ghép vào các
chương trình dự án của địa phương, giải ngân kịp thời vụ, đúng cơ hội. Các hộ
nghèo sử dụng đúng mục đích có tác dụng phát triển sản xuất, đưa lại hiệu quả kinh
tế xã hội thiết thực. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới thì “Xóa Đói Giảm
Nghèo là một trong những thành công nhất của Việt Nam, trong phát triển kinh tế.
- Thời kỳ sản xuất phát triển toàn diện, mức vốn cho vay cao, cần phải đưa
hộ nghèo từ sản xuất tự cung tự cấp chuyển dần sang sản xuất hàng hóa; đó là năm
2003, ngân hàng Chính sách xã hội ra đời trên cơ sở tổ chức lại ngân hàng phục vụ
người nghèo. Ngân hàng Chính sách xã hội là một dạng ngân hàng chính sách trực
tiếp phục vụ các chương trình mục tiêu kinh tế và xã hội theo đúng định hướng xã
hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đối tượng chính
có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển của ngân hàng Chính sách xã hội hiện tại và
tương lai vẫn là cho vay Xóa Đói Giảm Nghèo, giải quyết việc làm và một số đối
tượng chính sách khác. Sau nhiều năm thành lập và hoạt động, có thể nói Ngân
hàng Chính sách xã hội đã có những bước phát triển mạnh hơn hẳn. Ngân hàng

Chính sách xã hội đã bắt đầu tạo được các điều kiện cần và đủ để mở rộng đối
11
tượng và nâng mức cho vay so với các thời kỳ trước.
Kết quả cho vay hộ nghèo của ngân hàng phục vụ người nghèo trước đây đã
giúp người nghèo khôi phục và ổn định sản xuất, đời sống của họ đã được nâng lên
ít nhiều, có dành dụm và thực tế đã xóa được đói và giảm được nghèo, tự túc được
một phần chi phí sản xuất thời vụ. Đây là yếu tố quan trọng để ngân hàng Chính
sách xã hội chuyể dần cơ cấu vốn cho vay, có thể nâng dần tỷ trọng cho vay trung
hạn từ 20 – 28% lên 79,72% và giảm dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn từ 80% xuống
còn 20% so với các thời kỳ trước đây. Việc thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, nâng cao
đầu tư từ 10 triệu đồng lên 30 triệu đồng/hộ là biện pháp hữu hiệu giúp các hộ
nghèo có điều kiện về tài chính để chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, thâm canh
năng suất và giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo một cách bền vững.
Nhiều năm đã đi qua kể từ khi có chủ trương cho vay hộ nghèo và nay là tổ
chức và hoạt động của ngân hàng Chính sách xã hội về lý thuyết cũng như thực tế,
chính sách tín dụng đã thực sự góp phần vào cuộc chiến chống đói nghèo, hợp ý
Đảng lòng dân, góp phần đắc lực phấn đấu thực hiện vì mục tiêu cao đẹp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
b. Hệ thống tín dụng vi mô khu vực nông thôn
Do tính chất của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nên hoạt động
tín dụng nông nghiệp nông thôn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày càng phát
triển đa dạng và phong phú. Điều này thể hiện ở hệ thống các tổ chức cung cấp tài
chính tín dụng vi mô cho nông dân, các hình thức tín dụng, các phương pháp cho
vay và trả nợ…
Nếu xét trên phương diện quản lý thì nguồn cung cấp tín dụng cho khu vực
nông thôn bao gồm 3 bộ phận sau đây:
- Khu vực tín dụng chính thống: Bao gồm tổ chức được thành lập và hoạt
động theo Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng. Các tổ chức này hoạt động
dưới sự kiểm tra và giám sát của ngân hàng Trung ương (Ngân hàng Nhà Nước).
Đó là hệ thống các ngân hàng Thương mại, ngân hàng tiết kiệm, quỹ tín dụng và

các công ty tài chính, bao gồm:
+ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam: Ngân hàng
12
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam được thành lập năm 1988 sau khi
tách ra từ bộ phận tín dụng nông nghiệp của ngân hàng Nhà nước và đi vào hoạt
động từ tháng 12 năm 1990, sau khi luật ngân hàng có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1990.
Ngân hàng NN&PTNT tiếp quản mạng lưới chi nhánh của ngân hàng Nhà nước ở
nông thôn. Tính đến cuối năm 2001, ngân hàng NN&PTNT có khoảng 2.600 chi
nhánh nằm rải rác khắp cả nước.
Ngân hàng áp dụng hình thức cho vay theo nhóm cùng chịu trách nhiệm
chung. Mỗi nhóm có từ 10 – 20 người. Các thành viên trong nhóm thỏa thuận cùng
chịu trách nhiệm trả nợ. Cán bộ ngân hàng giữ liên lạc mật thiết với các trưởng
nhóm. Tuy nhiên, không có đơn xin vay chung cả nhóm, mỗi đơn xin vay sẽ được
giải quyết cá nhân. Tương tự, những người có gửi tiền tiết kiệm cũng có sổ tiết kiệm
riêng. Ngoài ra, ngân hàng còn phối hợp với các tổ chức quần chúng để cung cấp
các dịch vụ tài chính cho hội viên của những tổ chức quần chúng đó. Những tổ chức
quần chúng như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân đứng ra lập những nhóm
được bảo lãnh để vay tiền tín dụng và có đảm bảo chung là sẽ hoàn trả nợ vay.
Các hộ nông dân muốn vay cũng phải có tài sản thế chấp (và thường phải có
bảo lãnh của chính quyền xã), và chỉ được vay dưới 70% giá trị tài sản thế chấp.
Tuy ngân hàng có chức năng cung cấp tín dụng với mọi kỳ hạn, các khoản vay
thường là ngắn hạn và trung hạn, khoảng 75% các khoản vay là dưới 12 tháng, lãi
suất thường là 1%/tháng (hoặc 1,5%/tháng đối với vay dài hạn).
+ Ngân hàng phục vụ người nghèo: Ngân hàng phục vụ người nghèo là một
tổ chức phi lợi nhuận được thành lập vào tháng 8 năm 1995 và bắt đầu hoạt động
ngày 1/1/1996. Mục tiêu chính của ngân hàng là phục vụ chương trình Xóa đói
giảm nghèo. Ngân hàng không thiết lập hệ thống của riêng mình trên toàn quốc, mà
sử dụng mạng lưới chi nhánh và cán bộ của ngân hàng NN&PTNT, không huy động
tiết kiệm, mà chủ yếu dựa vào Chính phủ và các ngân hàng quốc doanh để có nguồn
vốn cho vay.

Ngân hàng tham gia giảm nghèo đói bằng cách cấp tín dụng cho những ai
không đủ điều kiện vay từ ngân hàng NN&PTNT do không có tài sản thế chấp. Do
vậy, chính những hộ gia đình nào là thành viên của nhóm chịu trách nhiệm chung
13
(cũng do các tổ chức quần chúng hỗ trợ hình thành) mới được vay. Các hộ muốn
vay cũng phải nằm trong diện nghèo theo tiêu chuẩn nghèo của Việt Nam. Kỳ hạn
vay tối đa là 36 tháng và mức vay tối đa là 2,5 triệu đồng. Lãi vay là lãi suất ưu đãi
do ngân hàng Nhà nước ấn định ở mức 0,7%/tháng. Trong đó, tổ chức xã hội địa
phương giữ 0,1% cho chi phí giám sát, ngân hàng NN&PTNT giữ 0,25% cho chi
phí hành chính; và ngân hàng phục vụ người nghèo giữ 0,35% để trang trải chi phí
vốn. Tính đến cuối năm 1999, ngân hàng đã cấp tín dụng cho hơn 2,3 triệu hộ
nghèo với tổng dư nợ là 3.870 tỷ đồng.
+ Ngân hàng Chính sách xã hội: Ngày 4 tháng 10 năm 2003, Thủ tướng
Chính phủ đã ký quyết định thành lập ngân hàng Chính sách xã hội. Ngân hàng
Chính sách xã hội kế thừa các hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo và
thực hiện thêm các hoạt động tín dụng chính sách như cho vay sinh viên nghèo, cho
vay giải quyết việc làm… Ngân hàng Chính sách xã hội ra đời nhằm thực hiện mục
tiêu Xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước.
Ngân hàng Chính sách xã hội là tổ chức tín dụng Nhà nước, thực hiện cho
vay với lãi suất và các điều kiện ưu đãi. Lãi suất cho vay của ngân hàng Chính sách
xã hội thấp hơn nhiều so với lãi suất của các tổ chức ngân hàng Thương mại
Các mức lãi suất ưu đãi do Thủ tướng Chính phủ quyết định cho từng thời kỳ,
chênh lệch lãi suất huy động và cho vay được Bộ tài chính cấp bù, sau khi bù đắp
bằng quỹ dự phòng, chi phí hoạt động của ngân hàng Chính sách xã hội sẽ được Bộ
tài chính cấp. Như vậy, đây là một tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động ngân hàng
(huy động và cho vay) song dựa vào nguồn chi ngân sách hàng năm, tức là Nhà nước
thực hiện bao cấp một phần cho hoạt động của ngân hàng Chính sách xã hội
Quyền quyết định cao nhất thuộc về Hội đồng quản trị, gồm các thành viên
kiêm nghiệm và chuyên trách thuộc các cơ quan của Chính phủ và một số tổ chức
chính trị xã hội (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ…); tại các tỉnh, thành phố, quận, huyện, có

ban đại diện Hội đồng quản trị do chủ tịch hoặc phó chủ tịch UBND làm trưởng ban
+ Quỹ tín dụng Nhân dân: Quỹ tín dụng Nhân dân bắt đầu từ một chương
trình thí điểm chịu sự giám sát của ngân hàng Nhà nước vào tháng 7 năm 1993. Khi
đó, một trong những mục tiêu quan trọng của ngân hàng Nhà nước là khôi phục
lòng tin của người nông dân đối với hệ thống tín dụng nông thôn sau sự sụp đổ của
14
hàng loạt các hợp tác xã tín dụng
Quý tín dụng Nhân dân hoạt động theo luật hợp tác xã. Quỹ tín dụng Nhân
dân cho xã viên vay, nhận tiền gửi của các xã viên lẫn những người không phải là
xã viên. Tuy các khoản vay nhỏ không cần thế chấp, nhưng những khoản vay lớn
vẫn cần phải thế chấp bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay tài sản khác. Kỳ
hạn cho vay thường dưới 12 tháng. Lãi suất vay (khoảng 1,5%/tháng) và lãi suất
tiền gửi (khoảng 0,9%/tháng) do ngân hàng Nhà nước ấn định và thường cao hơn lãi
suất của ngân hàng NN&PTNT
Hệ thống quỹ tín dụng Nhân dân có ba cấp: quỹ tín dụng địa phương, quỹ tín
dụng vùng và quỹ tín dụng trung ương. Tính đến cuối năm 1999, có 981 quỹ tín
dụng ở cấp xã, vùng và trung ương, với khoảng 630.000 xã viên.
+ Ngân hàng cổ phần nông thôn: Ngân hàng Cổ phần nông thôn hình thành từ
việc sắp xếp lại hoặc sát nhập các hợp tác xã tín dụng. Các ngân hàng này tập trung
cho vay đối với những nông hộ và người buôn bán trong địa phương. Mức cho vay
thường thấp, từ 1 đến 3 triệu, và cho các mục đích ngắn hạn như mua hạt giống, phân
bón và thuốc trừ sâu… Lãi suất vay thường cao hơn 0,5% - 1% so với lãi suất của
ngân hàng NN&PTNT. Tất cả các ngân hàng này đều có yêu cầu phải có thế chấp
mới được vay. Những ngân hàng này phải chịu mức trần lãi suất tiền gửi do ngân
hàng Nhà nước ấn định, do vậy còn hạn chế về khả năng huy động tiết kiệm.
- Khu vực tín dụng bán chính thống: Là những tổ chức hoạt động tín dụng
không đặt dưới sự kiểm tra và giám sát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước, không
được cấp phép hoạt động tín dụng theo Luật các tổ chức tín dụng. Bao gồm các tổ
chức quần chúng như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Chương trình tín dụng ưu đãi của
Chính phủ cho nông nghiệp, nông thôn; Hợp tác xã nông nghiệp, tổ chức Phi chính

phủ và một số tổ chức khác…
- Khu vực tín dụng phi chính thống: Đó là nguồn tín dụng từ những người
chuyên cho vay ở nông thôn, các tư thương dưới hình thức bán chịu, các hình thức
chơi họ, hụi, phường, vay mượn bạn bè, họ hàng, làng xóm…
Nếu xét trên phương tiện tổ chức, một số tác giả cho rằng: tín dụng nông
nghiệp, nông thôn bao gồm 2 bộ phận là tín dụng chính thống và tín dụng không
chính thống.
15
2.1.2 Hộ nông dân nghèo với vấn đề tiếp cận tín dụng vi mô
2.1.1.1 Một số vấn đề cơ bản về nghèo đói
a. Khái niệm và quan điểm về nghèo đói
Cho tới nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về nghèo đói, vì nghèo đói là
một trạng thái có tính động. Nó thay đổi theo không gian và thời gian, xuất phát
điểm căn nguyên của nó là sự phát triển của sản xuất, mức tăng trưởng kinh tế, sự
tăng lên về nhu cầu con người và những biến động của xã hội.
Uỷ ban kinh tế khu vực Châu á Thái Bình Dương (ESCAP) năm 1993 đã đưa
ra định nghĩa: “Nghèo đói là một tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và thoả mãn nhu cầu của con người và đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ
phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương”.
Tại hội nghị thượng đỉnh Quốc tế về tín dụng vi mô đã nhận định “Nghèo đói
là nỗi bức xúc của thời đại” và đã đưa ra khái niệm chung về nghèo đói như sau:
“Người nghèo đói là những người có mức sống nằm dưới chuẩn mực nghèo đói của
từng quốc gia kể từ dưới lên”.
Ngân hàng phát triển Châu á đã đưa ra khái niệm nghèo đói tuyệt đối và
nghèo đói tương đối như sau:
- Nghèo đói tuyệt đối
Ngèo đói tuyệt đối là hiện tượng xẩy ra khi mức thu nhập hay tiêu dùng của
một người hay một hộ gia đình giảm xuống mức thấp hơn giới hạn nghèo đói (theo
tiêu chuẩn nghèo đói) vẫn thường được định nghĩa là: “Một điều kiện sống được
đặc trưng bởi sự suy dinh dưỡng, mù chữ và bệnh tật đến nỗi thấp hơn mức được

cho là hợp lý cho một con người”.
- Nghèo đói tương đối
Nghèo đói tương đối được xét trong tương quan xã hội, phụ thuộc vào địa
điểm dân cư sinh sống và phương thức tiêu thụ phổ biến nới đó. Nghèo đói tương
đối được hiểu là những người sống dưới mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được
trong những địa điểm và thời gian xác định.
Đây là những người cảm thấy bị tước đoạt những cái mà đại bộ phận những
người khác trong xã hội được hưởng. Do đó, chuẩn mực để xem xét nghèo đói
16
tương đối thường khác nhau từ nước này sang nước khác hoặc từ vùng này sang
vùng khác. Nghèo đói tương đối cũng là một hình thức biểu hiện sự bất bình đẳng
trong phân phối và thu nhập.
Đánh giá về nghèo đói tương đối phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống chính
sách và giải pháp phát triển của từng nơi. Ngày nay, nghèo đói tương đối còn được
chú trọng nhiều hơn để có giải pháp thu hẹp sự khác biệt giữa người giàu và người
nghèo. Ngoài ra, xem xét nghèo đói tương đối còn có ý nghĩa lớn khi áp dụng các
giải pháp phát triển đối với những nhóm người khác nhau trong cộng đồng và
những cộng đồng khác nhau trong vùng.
Vấn đề nghèo đói thường đi đôi với phân phối và thu nhập. Sự phân phối và
thu nhập không đồng đều thường dẫn tới sự tăng nghèo đói. Do vậy, vấn đề xoá đói
giảm nghèo có liên quan mật thiết với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Hiện nay có hai loại quan điểm về nghèo đói
Một là, người nghèo đói là những người nghèo hèn kém, không biết làm ăn
nên qua bao đời họ luôn luôn thất bại trong cuộc sống, do đó cần phải có cứu giúp
họ. Quan điểm này đứng trên nhìn xuống, coi thường người nghèo, đưa ra cứu giúp
họ, không tin tưởng họ, hạn chế việc khai thác tiềm năng của họ.
Hai là, người nghèo đói cũng là người, cũng được sinh ra như những
người khác, chẳng qua họ không có cơ hội để làm được những điều mà người
khá giả làm được. Đói nghèo đã cướp đi quyền con người, do đó nếu tạo ra được
cơ hội cho họ để họ vượt qua đói nghèo thì họ có thể làm được những điều mà

người khác làm được.
Quan điểm này tôn trọng người nghèo, đặt niềm tin vào họ nên đã giúp họ
phát huy khả năng vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Như vậy, nghèo có thể xẩy ra với một người nào đó khi những người nay không
có cơ hội, điều kiện làm ăn như những người khác hoặc có điều kiện nhưng họ gặp rủi
ro trong quá trình làm ăn dẫn đến mất vốn, tài sản nên xẩy ra tình trạng nghèo đói.
Ở Việt Nam, qua nhiều cuộc điều tra, khảo sát nghiên cứu, các nhà nghiên
cứu và quản lý các bộ ngành đã đi đến thống nhất cần có một khái niệm riêng,
chuẩn mực riêng cho người nghèo đói như sau:
17
- Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thoả mãn một phần
nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng mức sống tối thiểu của
cộng đồng xét trên mọi phương diện.
- Nghèo đói là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống tối thiểu
không đảm bảo nhu cầu duy trì cuộc sống. Nhu cầu cơ bản của con người được chia
thành hai loại
Thứ nhất, nhu cầu thiết yếu gồm ba yếu tố: ăn, mặc, ở.
Thứ hai, nhu cầu sinh hoạt hàng ngày gồm 5 yếu tố: văn hoá, giáo dục, y tế,
đi lại và giao tiếp.
Ở đâu cũng có những người nghèo đói, cũng có những người không đủ ăn
nhưng mức độ khác nhau. Theo thống kê điều tra ở Việt Nam, nghèo đói chủ yếu
diễn ra ở nông thôn đặc biệt là vùng sâu vùng xa, hay những người làm nông
nghiệp, nói chung là nông dân. Vậy, hộ nông dân nghèo đói là gì? Căn cứ vào mức
sống chung của nông thôn chúng ta có thể tạm định nghĩa như sau
Hộ nông dân đói nghèo là những hộ sống ở nông thôn và làm nông nghiệp,
thu nhập không đủ chi tiêu, thiếu nguồn lực sản xuất hay thiếu vốn đầu tư sản xuất.
Theo quy định chuẩn nghèo của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2006 – 2010 thì
đây là những hộ có mức thu nhập bình quân thấp hơn 200.000đồng/tháng.
b. Tiêu chí xác định nghèo đói
* Theo quan điểm của thế giới

Việc xác định một công cụ để lượng hóa tỷ lệ nghèo đói, số lượng người
nghèo đói phần nào còn mang tính chủ quan và có nhiều quan điểm khác nhau.
Ngay cả trong một quốc gia cũng có nhiều tiêu chuẩn khác nhau, thậm chí giữa các
vùng cũng có nhiều tiêu chuẩn khác nhau.
Hiện nay trên thế giới người ta thường dùng hai thước đo cụ thể để lượng
hóa tỷ lệ nghèo đói. Hầu hết các nghiên cứu dùng số liệu tỷ lệ nghèo đói dựa trên cơ
sở chuẩn thu nhập 1USD/người/ngày. Một số nghiên cứu khác lại dùng thay đổi tỷ
lệ thu nhập của nhóm 20% người nghèo nhất trong tổng thu nhập như một thước đo
gần đúng để đo sự thay đổi về nghèo đói.
Vì thế, trong quá trình nghiên cứu nghèo đói tùy theo đặc điểm của từng
18
quốc gia, của từng vùng mà nên sử dụng chuẩn nghèo của quốc gia đó, vùng đó là
thích hợp nhất.
*Quan điểm của Việt Nam
Ở Việt Nam chuẩn nghèo ngoài mục tiêu đo lường và nhận biết mức độ và
quy mô nghèo đói, còn một số mục tiêu quan trọng hơn nhiều là giúp xây dựng
các chính sách, các chương trình dự án xóa đói giảm nghèo cho từng thời kỳ phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội nói chung, cũng như các vùng và các địa
phương nói riêng.
Ngoài ra, chuẩn nghèo cũng sử dụng như một thước đo trong việc theo dõi
và giám sát tình hình thực hiện các chính sách, chương trình, các giải pháp xóa đói
giảm nghèo
Với sự phát triển kinh tế và tăng lên về thu nhập và mức sống của người dân,
định hướng chung là từng bước tiếp cận với các nước đang phát triển trong khu vực
về xóa đói giảm nghèo. Tính từ năm 1993 đến nay, Bộ LĐ-TB-XH Việt Nam đã 5
lần công bố chuẩn nghèo. Và ngày 8/7/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định
số 170/2005/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 –
2010 như sau:
- Hộ nghèo ở vùng nông thôn miền núi có mức thu nhập bình quân <=
200.000 đồng/người/tháng

- Hộ nghèo ở vùng thành thị có mức thu nhập bình quân <= 260.000
đồng/người/tháng
c. Đặc điểm của những hộ nghèo
Người nghèo sống ở hầu hết khắp nơi trong xã hội, nhưng nhìn chung, những
người nghèo đói có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, gần 80% người nghèo làm việc trong khu vực nông nghiệp và sống
ở nông thôn. Theo TS. Đỗ Thiên Kính thì xác suất là hộ nghèo của các hộ gia đình
sống dựa vào nghề nông cao hơn so với các hộ phi nông nghiệp là khoảng 8%.
Thứ hai, người nghèo thường có trình độ học vấn thấp hơn đại bộ phận dân cư.
Các số liệu thống kê cho thấy rằng khoảng 90% người nghèo có trình độ phổ thông
cơ sở hoặc thấp hơn. Điều này được giải thích rằng trình độ học vấn của các hộ nghèo
19
làm giảm lợi tức tài sản và nguồn lực mà họ có, và ngăn cản họ tìm kiếm công việc
tốt hơn trong các ngành trả lương cao. Cũng theo tác giả Đỗ Thiện Kính, nếu tăng
thời gian đi học của các chủ hộ lên 1 năm thì xác suất hộ nghèo sẽ giảm xuống 2%.
Tác giả Kim Thị Dung khi nghiên cứu vai trò của tài chính vi mô đối với xóa đói
giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã bất ngờ phát hiện ra rằng có nhiều người
nghèo khi vay vốn tín dụng họ không thể viết và ký tên được mà phải điểm chỉ.
Thứ ba, người nghèo thường có ít hoặc không có đất đai và tài sản khác,
chính điều này đã làm cho họ gặp khó khăn trong quá trình làm ăn, không tận dụng
được các cơ hội có lợi từ bên ngoài.
Thứ tư, các hộ gia đình nghèo có xu hướng là các hộ đông người với tỷ lệ
người ăn theo cao. Các hộ gia đình đông con và ít lao động đa phần là nghèo. Theo
TS. Đỗ Thiên Kính, trong năm 1998, mỗi bà mẹ trong nhóm nghèo nhất có trung
bình 3,5 con, so với 2,1 con trong nhóm giàu nhất.
Thứ năm, phần lớn người nghèo thường sống ở các vùng nông thôn, các
vùng xa xôi hẻo lánh dễ bị thiên tai tác động, là những nơi có cơ sở hạ tầng vật chất
tương đối kém phát triển. Do mức thu nhập của họ rất thấp và không ổn định, họ có
khả năng tiết kiệm thấp và khó có thể đương đầu với tình trạng mất mùa, mất việc
làm, thiên tai, suy sụp sức khỏe và các tai họa tiềm năng khác.

2.1.2.2 Vai trò của tín dụng vi mô đối với hộ nông dân nghèo
Trong phát triển kinh tế đất nước nói chung và phát triển kinh tế hộ nông dân
nói riêng, vốn đóng một vai trò không thể thiếu được. Vốn là một trong những yếu tố
đầu vào quan trọng nhất của bất cứ ngành sản xuất nào. Các cuộc điều tra kinh tế - xã
hội do nhiều tổ chức khác nhau tiến hành đều cho một kết quả chung là đa số hộ ở
nông thôn có nhu cầu vay vốn cho sản xuất kinh doanh. “Thiếu vốn là nguyên nhân
hàng đầu cản trở sự mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và tăng
thu nhập ở nông thôn”[Kim Thị Dung (2005), Vai trò của quỹ tín dụng nhân dân cơ
sở đối với kinh tế nông thôn, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (số 24)].
Hệ thống tín dụng ở nông thôn hoạt động có hiệu quả sẽ có vai trò rất to lớn trong
việc thúc đẩy huy động vốn nhàn rỗi trong dân, mở rộng cho vay mà trước hết đối với hộ
nông dân; thu hẹp cho vay nặng lãi, tham gia vào chương trình Xóa đói giảm nghèo, góp
20
phần phát triển kinh tế nông thôn nói riêng và kinh tế xã hội nói chung.
Trong những năm 50 và đầu những năm 60 của thế kỷ 20, việc cung cấp tín
dụng được coi như là một công cụ then chốt để phá vỡ vòng luẩn quẩn của thu nhập
thấp, tiết kiệm thấp và năng suất thấp. Từ những năm 60 trở lại đây, những người
nông dân sản xuất nhỏ và những khu vực nông thôn nghèo trở thành mục tiêu chính
của sự can thiệp của tín dụng.
Khu vực nông thôn và nông nghiệp là nơi nhận nhiều tiền vay nhất từ các
quỹ hỗ trợ trong nước cũng như nước ngoài. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vai trò
và ảnh hưởng của vốn tín dụng đến hoạt động kinh tế xã hội của hộ nông dân. Họ đều
khẳng định vai trò to lớn của vốn tín dụng, đặc biệt là hệ thống vốn tín dụng chính
thống đối với nông nghiệp, nông thôn và kinh tế hộ nông dân và các hộ nghèo.
Vốn tín dụng đáp ứng nhu cầu đầu tư thâm canh (mua các yếu tố đầu vào
như phân bón, giống, bảo vệ thực vật…) làm tăng sản lượng nông nghiệp, tăng năng
suất cây trồng, vật nuôi, từ đó tăng thu nhập cho các hộ nghèo.
Vốn tín dụng góp phần tăng cường trang thiết bị máy móc, tài sản cố định,
nâng cao năng lực sản xuất cho các trang trại, nông hộ. Tạo tiền đề nâng cao năng
suất lao động, hiệu quả kinh tế, đời sống vật chất, tinh thần cho hộ nông dân nói

chung và cho các hộ nông dân nghèo nói riêng.
Vốn tín dụng tạo điều kiện tiên quyết để các hộ đầu tư mở rộng nganh nghề,
đa dạng hóa nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Vốn tín dụng thúc đẩy lựa chọn kỹ thuật mới của người nông dân, từ đó bổ
sung một cách thiết thực những đầu vào cần thiết đối với sự thành công của cuộc
cách mạng xanh. Tạo điều kiện cho nông dân tiếp thu kỹ thuật mới.
Vốn tín dụng có vai trò rất quan trọng đối với hộ nông dân nghèo. Ở các
nước đang phát triển, muốn phát triển kinh tế xã hội nông thôn, trước hết phải bắt
đầu từ những người nghèo, phải có những chính sách giảm sự nghèo đói. Một trong
những chính sách mà hầu hết các nước đều đang áp dụng đó là chính sách tín dụng,
cung cấp vốn tín dụng cho hộ nông dân nghèo với những ưu đãi về lãi suất và các
thủ tục cho vay.
21
Vốn tín dụng giúp giải quyết việc làm cho những lao động nông nghiệp dư
thừa ở nông thôn. Điều đó không những tạo điều kiện tăng thu nhập cho kinh tế hộ,
mà còn hạn chế lao động nông thôn di chuyển từ nông thôn ra thành thị tìm kiếm
việc làm, gây nên sự quá tải và gia tăng các tệ nạn xã hội ở thành phố.
Tóm lại, tín dụng có vai trò rất to lớn trong phát triển nông nghiệp nông thôn
nói chung và kinh tế các hộ nông dân nghèo nói riêng. Đảng và Nhà nước đã có
những chính sách đối với các tổ chức tín dụng nhằm sử dụng vốn tín dụng như một
công cụ để phát triển các ngành kinh tế trong khuc vực nông thôn. Ngày nay, vốn
tín dụng đến với hộ nông dân nghèo ngày càng nhiều và đa dạng về hình thức, cùng
với sự hỗ trợ của các tổ chức tín dụng trong nước thì sự hỗ trợ của các tổ chức quốc
tế như SIDA, UNDP, FAO… cũng đã góp phần đáng kể vào công cuộc phát triển
nông nghiệp và kinh tế hộ nông dân nghèo.
2.1.2.3 Đặc điểm của tín dụng vi mô đối với hộ nông dân nghèo
- Tín dụng vi mô đối với hộ nông dân nghèo cung cấp dịch vụ tài chính quy
mô nhỏ chủ yếu là tín dụng và tiết kiệm. Các ngân hàng thường cho rằng cho vay và
tiết kiệm món nhỏ không có lãi, và vì thế họ không quan tâm tới các món nhỏ này.

Điều này đã dành chỗ cho tín dụng tư nhân phát triển, nhất là ở khu vực nông thôn.
Dịch vụ thương mại tư nhân luôn sẵn có cho những chi phí cho vay lớn (vì lãi suất
cao) cho người vay, nhất là người nghèo. Các tổ chức phi Chính phủ và các tổ chức
tài chính phi ngân hàng đã có phương pháp cung cấp tín dụng phù hợp cho những
người vay có thu nhập thấp.
- Đối tượng phục vụ là những người nghèo, chủ yếu là những người có thu
nhập thấp hay không có kế sinh nhai nhất định, nếu được cung cấp tài chính họ có
thể vươn lên. Người nghèo thường có nhiều phương thức kiếm sống khác nhau: làm
nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp, ngành nghề, dịch vụ, buôn bán, tái
chế, làm thuê…
- Tổ chức cung cấp tín dụng vi mô cho xóa đói giảm nghèo là những tổ chức
tài chính bền vững. Sự bền vững tài chính được thể hiện ở sự bù đắp được chi phí,
kể cả rủi ro, tăng nguồn thu, kích thích tiết kiệm, giám sát và hỗ trợ trong sử dụng
vốn tín dụng, tăng hiệu quả của việc sử dụng vốn. Tổ chức này thường là tổ chức đa
22
chức năng (của người vay kết hợp với các tổ chức ngân hàng, xã hội và phát triển).
Tín dụng vi mô đã bù đắp được tất cả các chi phí và rủi ro không cần trợ cấp, mang
lại lợi nhuận cho tổ chức tham gia.
- Tín dụng vi mô được xây dựng trên phương pháp đáp ứng cho từng cá nhân
hay nhóm khách hàng tham gia. Tín dụng cho xóa đói giảm nghèo thường được
cung cấp dịch vụ tài chính cho từng hộ hay nhóm hộ; cho từng hộ có những điều
kiện nhất định để tạo ra thu nhập, sẵn sàng trả những khoản vay và lãi vay, họ
thường là nhóm những người nghèo; cho vay nhóm khách hàng cực nghèo thông
qua các nhóm tín dụng và tiết kiệm.
- Tín dụng cho xóa đói giảm nghèo cung cấp dịch vụ tín dụng vi mô ngay tại
địa bàn mà người vay và tiết kiệm sinh sống, thu hút được nhiều người tham gia,
giảm chi phí tín dụng, tăng tính cộng đồng và tăng tính tiết kiệm.
- Tín dụng cho xóa đói giảm nghèo cung cấp lượng tài chính cho lượng
khách hàng lớn, thông qua các tổ chức tài chính đa chức năng đã cung cấp dịch vụ
tài chính cho hàng triệu khách hàng và có ảnh hưởng sâu rộng.

2.1.2.4 Đặc điểm hoạt động tín dụng vi mô đối với hộ nông dân nghèo
Xuất phát từ những đặc điểm của hộ nông dân nghèo mà hoạt động tín dụng
vi mô đối với hộ nông dân nghèo có những đặc điểm cơ bản sau:
- Về phương pháp cho vay: vì đối tượng cho vay là các hộ nông dân nghèo
có trình độ thấp, ít tài sản nên cho vay thông qua các tổ chức đoàn thể ở địa phương
có vai trò như một đại lý của các tổ chức tín dụng. Các tổ chức đoàn thể ở địa
phương có vai trò là cầu nối giữa hộ nghèo vay vốn và các tổ chức tín dụng, vừa là
người giúp hộ nghèo tiếp cận được với tổ chức tín dụng, vừa là người giao dịch,
giám sát, kiểm tra quá trình sử dụng vốn của hộ vay.
- Lượng vốn cho vay nhỏ, mức vốn vay/lần chỉ khoảng vài triệu đồng
- Thời hạn vay chủ yếu là trung và dài hạn
- Lãi suất vay thể hiện sự ưu đãi so với lãi suất thương mại
- Cách thu hồi nợ (bao gồm cả một phần gốc và lãi) được tiến hành thường
xuyên vừa hạn chế rủi ro đối với tổ chức cho vay, giám sát được quá trình sử dụng
vốn, có cơ chế hỗ trợ, đồng thời nâng cao ý thức của người đi vay trong việc sử
23
dụng vốn, làm ăn và tạo thu nhập
- Bảo đảm tiền vay không bằng tài sản mà bằng tín chấp thông qua các tổ
chức đoàn hội ở địa phương
- Hỗ trợ trước và sau khi vay rất quan trọng đối với hộ nghèo, việc cho vay
thường phải gắn với các hỗ trợ như về kỹ thuật, công nghệ, vật tư và thông tin.
2.1.2.5 Hộ nông dân nghèo tiếp cận tín dụng vi mô
a. Phương pháp tiếp cận tín dụng vi mô truyền thống:
Tiếp cận tín dụng vi mô được hiểu theo một nghĩa thông thường chính là
cách thức, là con đường, là phương pháp chung để khách hàng đến được với tín
dụng vi mô
Sơ đồ 2.1 Phương pháp tiếp cận tín dụng vi mô truyền thống
Với phương pháp tiếp cận truyền thống này, hộ nông dân vay vốn với mục
đích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp để tạo thu nhập và thu lợi
nhuận. Sau một thời hạn nhất định, người vay vốn phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho

Khách hàng
nhận vốn vay
đầu tiên
Đầu tư vào
hoạt động tạo
thu nhập
Thu lợi nhuận
từ việc đầu tư
Trả vốn và lãi
Vay vốn mới,
mức cao hơn
Giữ lại khoản lợi
nhuận dôi ra
24
các tổ chức tín dụng (chính thống và phi chính thống) và đồng thời họ giữ lại khoản
lợi nhuận dôi ra sau khi đầu tư. Nếu muốn tiếp tục phát triển sản xuất, người nông
dân lại bước vào một chu kỳ vay vốn tiếp theo với mức vay có thể cao hơn ban đầu.
Lý thuyết về cách tiếp cận truyền thống lập luận rằng cơ chế giá cả hay lãi
suất vẫn có chức năng vốn có của thị trường tín dụng. Lãi suất thấp sẽ khuyến khích
nông dân vay mượn, tích cực áp dụng kỹ thuật mới để đạt được sản lượng và thu
nhập cao. Lãi suất cao sẽ ngăn cản nông dân vay mượn. Trên cơ sở lập luận đó, lý
thuyết này đề xuất sự can thiệp cao của Chính phủ ở thị trường tín dụng bằng sự
duy trì chính sách lãi suất thấp và trợ cấp tín dụng cho nông dân nghèo. Tuy nhiên,
trong thực tế cơ chế giá cả hay lãi suất không hoạt động hoàn hảo nên xác định trần
lãi suất đã làm chệch hướng tín dụng về phía những người vay lớn và làm giảm huy
động tiết kiệm cũng như quỹ cho vay. Thực tế này cho thấy lãi suất không phải là
yếu tố quyết định tiếp cận tín dụng.
Để củng cố lập luận về sự can thiệp của Chính phủ ở thị trường tín dụng
nông thôn, lý thuyết này đã giải thích rằng tín dụng là một đầu vào hay yếu tố sản
xuất quan trọng bởi vì thiếu vốn là trở ngại chính đối với tăng trưởng kinh tế ở khu

vực nông thôn. Giả định này nêu lên vai trò quan trọng của tín dụng trong việc bù
đắp sự thiết hụt vốn và góp phần phát triển kinh tế nông thôn. Từ giả định này có
thể suy luận rằng yêu cầu tín dụng sẽ phụ thuộc vào các đặc điểm sản xuất của nông
dân vì tín dụng là một phần của yếu tố vốn phải kết hợp với các yếu tố sản xuất
khác trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, giả định này không phải luôn đúng vì vốn
tín dụng có thể sử dụng cho mục đích tiêu dùng.
b. Tiếp cận hạn chế tài chính tín dụng vi mô
Lý thuyết về cách tiếp cận hạn chế tài chính tín dụng vi mô lập luận rằng thị
trường tài chính không hoàn hảo, lãi suất thấp ở khu vực chính thống đã làm lệch
tín dụng bị giới hạn về phía những người vay lớn hay những người có địa vị kinh tế
xã hội. Những người cho vay có thể tập trung vào một số khoản cho vay lớn hơn
vào những người vay nhỏ vì có thể tối thiểu hóa chi phí quản lý của họ. Địa vị chính
trị xã hội của người vay sẽ ảnh hưởng tới uy tín của họ nên những người này sẽ dễ
dàng tiếp cận tín dụng hơn.
25

×