Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Nghiên cứu về tính hợp lý của việc chuyển nhượng quyền nhân thân tác giả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.65 KB, 14 trang )

Nghiên cứu về tính hợp lý của việc chuyển nhượng quyền nhân thân tác giả
1
Quyền tác giả còn được gọi là bản quyền, là một bộ phận tạo thành quan
trọng của quyền sở hữu trí tuệ, nội dung của nó bao gồm hai bộ phận là quyền nhân
thân của tác giả và quyền tài sản của tác giả. Quyền nhân thân của tác giả còn được
gọi là quyền nhân cách, quyền tinh thần của tác giả, là quyền lợi nhân thân của tác
giả được sản sinh ra từ việc sáng tạo tác phẩm; Quyền tài sản của tác giả còn được
gọi là quyền kinh tế, là quyền của tác giả đối với việc sử dụng tác phẩm và cho
phép người khác sử dụng đồng thời được hưởng thù lao đối với tác phẩm. Do quyền
tác giả có thuộc tính quyền lợi kép, nó có tính phức tạp hơn so với việc giao dịch
quyền sở hữu trí tuệ khác, đặc biệt là sau khi bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ 20, sự
phát triển của kỹ thuật thông tin đã đem đến những thách thức lớn cho chế độ quyền
tác giả truyền thống, việc chuyển tải bằng chữ số hoá làm cho các quyền năng của
con người đối với quyền tác giả không thể không được xác định lại vị trí, đồng thời
cũng mang đến sự thách thức nhiều hơn cho chế độ giao dịch quyền tác giả ở Trung
Quốc. Đồng thời với việc xác nhận tính có thể chuyển nhượng về quyền tài sản của
tác giả, làm thế nào để thực hiện việc chuyển giao quyền nhân thân của tác giả có
hiệu quả, để cho tác giả có thể được hưởng quyền và lợi ích về quyền tác giả một
cách toàn diện và đầy đủ hơn, đó chính là vấn đề mà các nhà luật pháp Trung Quốc
đang quan tâm.
1. Các quy định của lập pháp nước ngoài về vấn đề chuyển giao quyền
nhân thân của tác giả:
Do sự khác biệt về chính trị, xã hội, kinh tế và ý thức văn hoá, các nước trên
thế giới trong lĩnh vực bảo vệ quyền tác giả đã hình thành các truyền thống văn hoá
với phong cách khác nhau và thể hiện xu hướng giá trị pháp trị không giống nhau,
sự hình thành này có ảnh hưởng không thể phủ nhận được đối với chế độ giao dịch
quyền tác giả, trong đó có vai trò chủ đạo dẫn đầu là hai dòng tư tưởng lớn là hệ
thống thông luật với Anh, Mỹ làm đại biểu và hệ thống luật lục địa với Pháp, Đức
làm đại biểu.
1.1. Quy định của các nước theo hệ thống luật Anh-Mỹ:
Luật quyền tác giả của các nước theo hệ thống luật Anh-Mỹ xây dựng trên cơ


sở "Quan điểm về giá trị tài sản", thực hiện Thuyết về quyền tác giả thương mại,
cho rằng thực chất của quyền tác giả chính là quyền lợi sao chép tác phẩm vì mục
đích thương mại. Quyền lợi của người sáng tác ở đây được thể hiện bằng
"copyright" (tức bản quyền), ẩn chứa ý về quyền sao chép. "Đạo luật của Nữ hoàng
Anne" năm 1709 là đạo luật về quyền tác giả sớm nhất của Anh và cũng là đạo luật
về quyền tác giả đầu tiên trong lịch sử thế giới, chính là được ban hành dựa vào các
tiền đề lớn là quan niệm kinh tế của chủ nghĩa trọng thương và quan niệm về quyền
lợi tài sản tư hữu, mục đích là "trao cho tác giả, nhà xuất bản có quyền sao chép, để
1
Ng i d ch: Tr n lê Anh Vi n NCKH Pháp lý B T pháp– –ườ ị ầ ệ ộ ư
1
khuyến khích sáng tạo", bảo đảm việc thực hiện đầy đủ chức năng truyền bá văn
hoá. Các điều khoản của Luật quyền tác giả ở Anh đa số xuất phát từ việc tính toán,
duy trì tính chất tài sản đơn nhất của "copyright" trong giao dịch thương mại, chưa
chú ý đến lợi ích nhân cách của tác giả. Khoản 1 Điều 36 Luật quyền tác giả năm
1956 và Khoản 1 Điều 90 Luật quyền tác giả năm 1988 của Anh quy định: "Quyền
tác giả có thể được dịch chuyển giống như động sản thông qua chuyển nhượng,
phân chia theo di chúc hoặc thực thi theo pháp luật". Luật quyền tác giả của Mỹ đã
kế thừa truyền thống của "Đạo luật của Nữ hoàng Anne" và cũng đã thể hiện lý luận
cơ bản của "Thuyết giá trị tài sản". Điều 201 (d) (i) Luật quyền tác giả năm 1976
của Mỹ quy định: "Quyền tác giả có thể được dịch chuyển thông qua bất kỳ phương
thức nào hoặc thực thi theo pháp luật". Nghiên cứu về nguyên nhân lập pháp quyền
tác giả, luật pháp về quyền tác giả của các nước theo hệ thống luật Anh-Mỹ chịu sự
ảnh hưởng sâu sắc về "Khế ước xã hội" triết học của chủ nghĩa công lợi, Nhà nước
vì lợi ích chung của xã hội yêu cầu tác giả sáng tạo và truyền bá tác phẩm ưu tú
nhiều hơn, ngược lại, Nhà nước sẽ bảo hộ tác giả được hưởng quyền lợi kinh tế do
tác phẩm mang đến trong thời gian nhất định. Đúng như một học giả Nhật Bản đánh
giá: "Việc bảo hộ đối với quyền tác giả không phải coi việc bảo hộ bản thân tác giả
là ý nghĩa quan trọng thứ nhất, mà là đặt vị trí thúc đẩy sự phát triển của khoa học
và công nghệ làm mục tiêu".

Song cần phải chỉ ra rằng, tuy Luật quyền tác giả thành văn của các nước
theo hệ thống luật Anh-Mỹ trong thời gian dài không có nội dung về quyền lợi nhân
thân, nhưng không có nghĩa là quyền lợi nhân thân của tác giả không được bảo đảm
ở những nước này, quyền nhân thân của tác giả có thể được bảo hộ dựa vào các
nguyên tắc của thông luật ngoài Luật quyền tác giả ra. Đặc biệt là mấy năm gần
đây, cùng với triết học lập pháp của những nước này từ chủ nghĩa công lợi thuần
tuý quay trở về với Thuyết quyền lợi tự nhiên, và do sự ảnh hưởng của các Công
ước quốc tế lấy tư tưởng Luật lục địa làm chủ đạo ngày càng rộng rãi, đại bộ phận
Luật quyền tác giả của những nước theo hệ thống Luật Anh-Mỹ đã bắt đầu xuất
hiện những quy định riêng có liên quan đến quyền lợi nhân thân, như Luật quyền
tác giả năm 1988 của Anh đã có một chương riêng quy định về 4 loại quyền lợi
nhân thân như quyền ký tên chống giả mạo của tác giả, quyền tư cách của tác giả,
quyền phản đối việc tiến hành xuyên tạc, sửa chữa đối với tác phẩm, quyền phản
đối tiến hành công khai mang tính thương mại đối với tác phẩm của người uỷ thác
các tác phẩm nhiếp ảnh và điện ảnh. Đồng thời quy định, quyền nhân thân có thể
được thực thi do chính tác giả, quyền được phân biệt là tác giả hay đạo diễn và
quyền phản đối các tác phẩm bị xuyên tạc, bóp méo, thời hạn bảo lưu quyền tài sản
của tác giả tác phẩm được duy trì, quyền chống giả mạo tác phẩm được kéo dài đến
20 năm sau khi tác giả chết. Quyền nhân thân trong giao dịch quyền tác giả không
thể chuyển nhượng được, nhưng có thể thừa kế và từ bỏ được. Từ bỏ quyền nhân
thân phải thông qua văn bản bằng chữ của tác giả, tác giả có thể từ bỏ quyền lợi
nhân thân khi giao dịch một tác phẩm hay quyền tác giả một lần, cũng có thể từ bỏ
quyền nhân thân đối với toàn bộ tác phẩm, thậm chí có thể từ bỏ trước quyền nhân
thân đối với tác phẩm chưa ra đời, có thể từ bỏ có điều kiện, cũng có thể từ bỏ vô
2
điều kiện

. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ 20 cho đến nay, Mỹ cũng lần lượt có hơn 10
bang trong Luật bảo hộ tác phẩm nghệ thuật của bang đã quy định tác giả của tác
phẩm nghệ thuật được hưởng quyền lợi về nhân thân, nội dung chủ yếu bao gồm

quyền đứng tên và quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm của tác giả. Đồng thời năm
1990, Nghị Viện Liên bang Mỹ cũng đã đưa nội dung về quyền nhân thân tương tự
với luật của các bang vào Luật quyền tác giả của Liên bang. Tuy Luật quyền tác giả
của Liên bang Mỹ rất hạn chế bảo vệ quyền lợi nhân thân, nhưng cũng đã quy định
rõ ràng quyền nhân thân của tác giả không những có thể từ bỏ,

mà còn bị hạn chế
sử dụng một cách hợp lý.
1.2. Quy định của những nước theo hệ thống Luật lục địa:
Những nước theo hệ thống Luật lục địa coi "Quan điểm về giá trị nhân cách'
là cơ sở triết học của luật pháp về quyền tác giả, đưa tư tưởng nhân quyền vốn có
vào phạm trù lý luận về quyền tác giả, xác lập quan niệm về quyền tác giả coi việc
bảo vệ quyền lợi nhân thân của tác giả là trung tâm. Dưới sự ảnh hưởng tư tưởng
của Luật tự nhiên này, tác phẩm được coi là sự kết tinh trí tuệ và sự kéo dài nhân
cách của tác giả, vì vậy tác giả có quyền lợi tự nhiên vốn có đối với tác phẩm giống
như quan hệ cha con vậy, họ không những có quyền sử dụng kinh tế, khống chế tác
phẩm giống như đối với quyền tài sản, mà còn có quyền bảo vệ mối liên hệ tinh
thần không thể cắt đứt được giữa nhân cách của tác giả với tác phẩm. Họ đã dùng
thuật ngữ "quyền tác giả" để nhấn mạnh sự bảo hộ đối với quyền lợi cá nhân của tác
giả, chứ không phải là sự bảo hộ đối với quyền lợi của nhà xuất bản; và nhấn mạnh
pháp luật không những cần phải bảo vệ quyền lợi tài sản của tác giả, mà còn cần
phải bảo vệ quyền lợi nhân thân của tác giả. "Luật quyền biểu diễn" năm 1791 và
"Luật quyền sao chép" năm 1973 của Pháp đã thể hiện sự quan tâm và bảo vệ của
các nhà lập pháp đối với quyền lợi tự nhiên của cá nhân đặc biệt là quyền nhân
cách. Ngoài quy định tác giả được hưởng các loại quyền lợi về tài sản, còn quy định
rõ quyền lợi nhân thân mà tác giả được hưởng lần đầu tiên trong lịch sử loài người.
Luật quyền tác giả của hệ thông luật lục địa đã phát triển thuộc tính quyền tài sản
đơn nhất trong quyền tác giả của hệ thống luật Anh-Mỹ thành quyền lợi tác giả có
nội dung kép, đã khắc hoạ bản chất lý tính vốn có của quyền tác giả, đó chính là
một sự tiến bộ lớn.

ở những nước theo hệ thống luật lục địa còn tồn tại hai loại học thuyết chủ
yếu là "Thuyết nhất nguyên" và "Thuyết nhị nguyên". "Thuyết nhất nguyên" lấy
nước Đức làm đại biểu, đồng thời bao gồm những nước như áo, Hungari, Tiệp
Khắc... Họ cho rằng quyền tác giả là thể phức hợp hữu cơ đặc biệt về quyền tài sản
và quyền nhân thân của tác giả, gắn bó với nhau, bảo vệ một quyền lợi nào trong đó
chắc chắn sẽ tạo thành sự bảo vệ đối với quyền lợi kia. Lý luận về "Thuyết nhất
nguyên" này thể hiện về mặt chế độ chuyển nhượng quyền tác giả, biểu hiện là:
quyền nhân thân của tác giả không được bảo hộ vĩnh viễn, mà là được hưởng thời
hạn bảo hộ tương đương cùng với quyền tài sản của tác giả. Quyền nhân thân của
tác giả không thể chuyển nhượng được, quyền tài sản của tác giả do có liên quan

Tham kh o i u 87 Lu t quy n tác gi c a Anh n m 1988ả Đ ề ậ ề ả ủ ă

Tham kh o i u 106A "Lu t quy n tác gi c a M "ả Đ ề ậ ề ả ủ ỹ
3
với quyền nhân thân của tác giả nên không thể tách rời được, do vậy việc chuyển
nhượng quyền tài sản của tác giả cũng bị phủ định. Chỉ khi di chúc được thực thi có
thể phát sinh sự dịch chuyển hoặc khi phân chia di sản giữa những người cũng được
thừa kế mới phát sinh việc chuyển nhượng.

Tức là ở những quốc gia này không
tồn tại việc chuyển nhượng quyền tác giả, chỉ tồn tại chế độ uỷ quyền sử dụng tác
phẩm. "Thuyết nhị nguyên" lấy Pháp làm đại biểu, bao gồm các nước như ý, Tây
Ban Nha, Nhật Bản.v.v., họ cho rằng quyền tác giả là "nhất quyền lưỡng thể", do
quyền tài sản và quyền nhân thân của tác giả độc lập với nhau tạo nên, ngoài ra hai
loại quyền lợi này được sự bảo hộ hoàn toàn khác nhau. Quyền tài sản của tác giả
chỉ có thể được bảo hộ trong thời hạn nhất định, nhưng nó có thể tách rời với nhân
thân của tác giả, có thể chuyển nhượng cho người khác trong lưu thông thương mại
hoặc do tác giả từ bỏ; Còn quyền nhân thân của tác giả bao gồm quyền công bố, nó
không thể tách rời với nhân cách của tác giả, vừa không thể chuyển nhượng vừa

không thể từ bỏ, chỉ có sau khi tác giả chết mới có thể dịch chuyển cho người thừa
kế theo pháp luật hoặc người được thừa kế theo di chúc.

Ngoài ra mỗi khi việc
thực thi quyền tài sản của tác giả xảy ra xung đột với quyền nhân thân của tác giả,
thì quyền nhân thân của tác giả có hiệu lực ưu tiên, đã thể hiện sự bảo hộ ưu tiên đối
với quyền nhân thân của tác giả.
Vấn đề đáng đề cập tới là "Công ước Berne"- Công ước bảo hộ quyền tác giả
có tính quốc tế rộng rãi cũng chịu sự ảnh hưởng tương đối nhiều của triết học luật tự
nhiên ở hệ thống luật lục địa. Trong khoản 2 Điều 6 "Công ước Berne" một mặt đã
cho thấy quyền kinh tế của tác giả có thể chuyển nhượng được, mặt khác đã quy
định rõ ràng sau khi quyền kinh tế được chuyển nhượng thì tác giả vẫn có quyền
đứng tên và quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, quyền lợi nói trên vẫn có hiệu lực
sau khi tác giả chết, ít nhất cho đến khi thời hạn bảo hộ quyền kinh tế của tác giả
chấm dứt.
1.3. Những nghi ngờ đối với lý luận truyền thống:
Xu hướng giá trị của quyền tác giả ở hệ thống Luật Anh - Mỹ và ở hệ thống
luật lục địa mặc dù bắt nguồn từ các lý luận tư tưởng khác nhau, nhưng đều dựa vào
nguyên lý chung của Bộ luật dân sự, cho rằng: Quyền tài sản của tác giả có thể tồn
tại độc lập tách rời với tác giả, có thể xử lý, tiến hành chuyển nhượng và cho phép
theo nguyện vọng tự do của tác giả. Còn quyền nhân thân của tác giả do không thể
tách rời với chủ thể, vì vậy cũng không thể chuyển nhượng được. Sau khi phân tích
quy định lập pháp của hai hệ thống pháp luật lớn và các nước khác nhau, tác giả bài
viết giữ thái độ phủ định đối với lý luận về quyền nhân thân của tác giả không thể
tách rời với chủ thể, lý do như sau:
Thứ nhất, quyền nhân thân của tác giả có thể thừa kế được. Bất luận là Luật
quyền tác giả của Anh hay là Luật quyền tác giả của Pháp cũng đều thừa nhận
quyền nhân thân của tác giả có thể chuyển giao cho người thừa kế theo Luật thừa
kế. Điều này đã chứng minh đầy đủ rằng quyền nhân thân của tác giả có thể tách rời


Tham kh o i u 28, 29, 64 "Lu t quy n tác gi c"ả Đ ề ậ ề ả Đứ

Tham kh o i u L121-1 "B lu t quy n s h u trí tu c a Pháp"ả Đ ề ộ ậ ề ở ữ ệ ủ
4
với chủ thể, sau khi tác giả chết thì do người thừa kế hoặc người thứ ba được chỉ
định theo di chúc của họ thực thi.
Thứ hai, Luật quyền tác giả của Anh quy định: cấm giả mạo quyền đứng tên
của tác giả kéo dài đến 20 năm sau khi tác giả chết, Công ước Berne cũng quy định,
các quốc gia thành viên đối với việc bảo hộ quyền nhân thân của tác giả không
được ít hơn thời hạn bảo hộ quyền kinh tế tương ứng, và Công ước đồng thời còn
quy định thời hạn bảo hộ quyền kinh tế không được dưới 50 năm sau khi tác giả
chết, rõ ràng là sự bảo hộ quyền nhân thân của tác giả cũng không được dưới 50
năm sau khi tác giả chết. Vậy thì tất cả những tác phẩm được công bố sau khi tác
giả chết cho đến trước khi thời hạn có hiệu lực về quyền nhân thân của tác giả hết
thì các quyền lợi nhân thân có liên quan là hoàn toàn tách rời với chủ thể, điều này
cũng đã bác bỏ lý luận về quyền nhân thân không thể tách rời với chủ thể.
Thứ ba, những quốc gia theo "Thuyết nhất nguyên", tuy nhấn mạnh quyền tác
giả là một chỉnh thể (bao gồm quyền tài sản và quyền nhân thân) không thể chuyển
nhượng được, nhưng có thể được thực hiện thông qua sự uỷ quyền cho phép, trong
đó sự cho phép về quyền tài sản là không có sự nghi ngờ gì, nhưng quyền nhân thân
liệu có thể cho phép người khác sử dụng hay không thì chỉ có thể suy đoán là không
thể. Cố vấn pháp luật của Bộ tư pháp áo trên tạp chí "Bản quyền" của Tổ chức sở
hữu trí tuệ thế giới đã chỉ ra rằng: do đại đa số các tác giả âm nhạc và tác giả kịch
của áo đã uỷ thác toàn quyền về quyền sử dụng và quyền thu tiền nhuận bút tác
phẩm thậm chí cả đến thủ tục tố tụng khi tác phẩm bị xâm phạm cho "Hiệp hội thu
thuế bản quyền" giải quyết. Trên thực tế, khi tác phẩm bị người thứ ba sử dụng liệu
có thể được đứng tên, đứng tên như thế nào, được sửa đổi hay không và sửa đổi ra
sao, ghi tên hoặc sửa đổi tác phẩm không đúng sẽ bị kiện đến Toà án như thế nào,
tất cả đều do Hiệp hội này (trong trường hợp không liên hệ với tác giả nữa) quyết
định, điều này tương đương với việc tác giả khi ký kết hợp đồng uỷ thác với Hiệp

hội này phải giao quyền tài sản và quyền nhân thân cho Hiệp hội này bằng phương
thức cho phép độc quyền, thậm chí có thể coi là đã chuyển nhượng cho Hiệp hội
này.
Thứ tư, Luật quyền tác giả của những nước theo hệ thống Luật Anh-Mỹ đều
cho thấy rõ, quyền nhân thân của tác giả có thể từ bỏ được, điều này trên thực tế
chính là một kiểu giải quyết của tác giả đối với quyền nhân thân của mình. Tưởng
tượng, khi một nhà xuất bản đàm phán với tác giả về vấn đề xuất bản sách, nhà xuất
bản yêu cầu tác giả huỷ bỏ quyền sửa đổi (một loại quyền nhân thân của tác giả) đối
với quyển sách đó, đồng thời đề xuất nếu tác giả từ bỏ quyền sửa đổi thì tiền nhuận
bút có thể tăng lên gấp đôi, nếu tác giả đồng ý thì cũng sẽ được tiền thù lao nhiều
gấp đôi, vậy thì điều này còn có sự khác biệt gì về bản chất so với việc chuyển
nhượng có bồi hoàn về quyền nhân thân của tác giả?
Từ đó có thể thấy rằng, luật pháp nước ngoài tuy cấm việc chuyển nhượng
quyền nhân thân của tác giả, nhưng trên thực tế tồn tại tính có thể tách rời thậm chí
tính phải tách rời giữa chủ thể và quyền nhân thân của tác giả. Năm 1985 khi Pháp
sửa đổi Luật quyền tác giả, để thích ứng với nhu cầu của giới doanh nghiệp, trong
5

×