Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

TỔNG QUAN VỀ LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.22 KB, 10 trang )

Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Huyền
SBD: 27
Lớp: KTTG 17B
NHÓM I : LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TỔNG QUAN VỀ LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ 2005
I. Giới thiệu về sở hữu trí tuệ
1. Khái niệm về sở hữu trí tuệ
Trên thực tế có rất nhiều sản phẩm trí tuệ. Việc huấn luyện viên Weigang tuyển
chọn Hồng Sơn, Huỳnh Đức vào đội tuyển quốc gia Việt Nam, sắp xếp đội hình thi đấu ở
Seagame 18 chắc chắn là một sản phẩm trí tuệ. Tuy nhiên Weigang không được sở hữu
sản phẩm trí tuệ của mình. Ngược lại, hai chữ cái P/S - nhãn hiệu kem đánh răng không có
gì là “trí tuệ” thì lại được coi là sản phẩm của sở hữu trí tuệ. Vậy không phải mọi thứ “trí
tuệ” đều được bảo hộ dưới dạng quyền sở hữu trí tuệ. Ngược lại, không phải mọi quyền sở
hữu trí tuệ đều là sản phẩm của trí tuệ. Mặc dù không có định nghĩa chính thống và trực
tiếp thế nào là sở hữu trí tuệ, nhưng tại Điều 2 (8) của Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu
trí tuệ thế giới (WIPO) ký ngày 14-7-1967 quy định: “Sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền
liên quan đến các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; các cuộc biểu diễn của nghệ
sĩ biểu diễn, các bản ghi âm và các chương trình phát sóng; các sáng chế trong tất cả các
lĩnh vực sáng tạo của con người; các khám phá khoa học; các kiểu dáng công nghiệp; các
nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ và các tên thương mại; bảo hộ chống lại sự cạnh
tranh không lành mạnh; và tất cả các quyền khác nảy sinh từ kết quả của hoạt động trí tuệ
thuộc các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghiệp”.
Theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 thì tại Khoản 1 điều 4 của Luật sở hữu trí
tuệ đã định nghĩa:
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm
quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền
đối với giống cây trồng.
Hay hiểu một cách khác, quyền sở hữu trí tuệ là các quyền đối với tài sản vô hình là
thành quả của lao động sáng tạo, hay uy tín kinh doanh của các chủ thể được pháp luật quy
định bảo hộ.
2. Tài sản vô hình có thể là sở hữu được không?


Khi phân tích khái niệm sở hữu trí tuệ, chúng ta thấy một số vấn đề cần được giải
thích rõ. Trước hết là khái niệm tái sản vô hình. Nó khác với tài sản tại Điều 161 Bộ luật
dân sự (Bộ luật dân sự - các tài sản hữu hình). Tài sản vô hình là những tài sản không nhìn
thấy được, nhưng trị giá được bằng tiền và có thể trao đổi (ví dụ như thương quyền, uy
tín).
Tiếp đến là khái niệm “thành quả lao động sáng tạo”. Yếu tố hiện diện trên hầu hết
các đối tượng sở hữu trí tuệ là sự sáng tạo. Nếu không có sự sáng tạo thì cuộc sống của
chúng ta ngày hôm nay cũng không khác gì cuộc sống của nhiều năm về trước. Cuộc cách
mạng công nghiệp đã thay đổi cách nhìn của mọi người về giá trị của sự sáng tạo. Một loạt
sáng chế, cải tiến ra đời cho thấy sáng tạo là động lực phát triển của xã hội. Và vì thế nhà
nước cần có cơ chế khuyến khích hoạt động sáng tạo thông qua quy định bảo hộ. Tuy
nhiên, pháp luật chỉ bảo hộ những thành quả lao động sáng tạo có đóng góp nhất định đối
với sự phát triển của kinh tế xã hội. Một số thành quả lao động sáng tạo không đem lại lợi
ích thực tế gì và không ứng dụng vào thực tế cuộc sống được (ví dụ như một trò ảo thuật
biến một chiếc cốc vàng thành một chiếc cốc đỏ) không được bảo vệ dưới dạng sở hữu trí
tuệ. Ngoài ra, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng nâng cao được chất lượng sản phẩm. Ví dụ
như câu chuyện về đèn Davy: Humphry Davy (1778-1829) phát minh ra chiếc đèn an toàn
mà ở Việt Nam gọi là đèn Măng-xông. Loại đèn này được đặt trong mạng lưới dây dẫn để
ngăn không cho lửa tràn ra ngoài, gay cháy nổ, giải quyết được nguy cơ lớn nhất cho người
thợ mỏ khi phải sử dụng nến trong hầm lò. Tuy nhiên, Davy đã không xin cấp bằng sáng
chế bởi ông muốn đó là sáng chế để cứu người. Kết quả là rất nhiều thương gia đã sản xuất
đèn an toàn và bán tràn lan bất chấp chất lượng thấp và đã gây ra nhiều vụ nổ hầm lò khiến
nhiều người thietj mạng. Qua thảm kịch này cho chúng ta thấy: bằng độc quyền sáng chế
còn được dùng để bảo đảm chất lượng sản phẩm của nhà sản xuất.
Bên cạnh thành quả lao động sáng tạo thì uy tín thương mại cũng là một tài sản có
giá trị lớn. Đó là những tài sản vô hình, song đôi khi lại là tài sản có giá trị nhất và cần
được bảo vê. Thí dụ trong khi góp vốn liên doanh xây dựng nhà máy sản xuất kem đánh
răng Elida P/S, giá trị nhà xưởng và quyền sử dụng đất của phía Việt Nam được định giá
chưa đến 1 triệu USD, trong khi đó nhãn hiệu P/S được mua với giá hơn 4 riêu USD. Vì
sao một nhãn hiệu lại được định giá cao như vậy? bởi vì đằng sau nhan hiệu là cả một quá

trình phán đấu đầu tư công sức (vô hình) của cả một tập thể nhà máy đưa một sản phẩm từ
khi chưa có chỗ đứng trên thị trường thành một sản phẩm nổi tiếng chiếm hơn 2/3 thi phần
Việt Nam (vào thời điểm liên doanh).
3. Phân loại sở hữu trí tuệ
Ở các nước bản quyền hay sáng chế xuất hiên từ thế kỷ 17 và thế kỷ 18. Không ai
dùng từ sỏ hữu trí tuệ cho đén khi xuất hiên lần đầu tiên vào năn 1952 bởi giáo sư
A.Bogsch, giám đốc Văn phòng Quốc tế về quản lý sáng chế đưa ra. Luật Việt Nam cũng
như luật các nước khác trên thế giới không có định nghĩa trực tiếp như thế nào là sở hữu trí
tuệ mà chỉ có định nghĩa gián tiếp thông qua phân loại sở hữu trí tuệ thành quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
a) Quyền tác giả
Quyền tác giả bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản của các tác giả và chủ sở
hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật. Quyền tác giả còn
được gọi là tác quyền hay bản quyền. Chúng ta thường thấy các thí dụ về quyền tác giả đối
với tác phẩm âm nhạc hay chương trình máy tính. Đối với quyền tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả được độc quyền sử dụng và khai thác tác phẩm. Mọi hành vi sao chép, trích dịch,
cong bố nhằm mục đích kinh doanh mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả
đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả. Sao băng đĩa lậu, sao chép phần mềm vi tính, in lậu
sách giáo khoa bán ra thị trường... cũng là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Trong một số
trường hợp, pháp luật cho phép chúng ta sao chép, trích đoạn một phần của tác phẩm
(người ta gọi là sử dụng hạn chế).
Quyền tác giả phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới hình thức nhất
định. Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm không bắt buộc phải đăng ký quyền tác giả tại cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Tác phẩm dù có đăng ký hay không đăng ký quyền tác giả đều được
hưởng sự bảo hộ như nhau từ phía Nhà nước. Tuy nhiên, việc đăng ký quyền tác giả lại cần
thiết và rất có ý nghĩa trong việc chứng minh quyền tác giả khi có tranh chấp xảy ra.
b) Quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền đối với sáng chế,giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý (bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hóa), tên
thương mại, bí mật kinh doanh, quyền chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các

quyền sở hữu công nghiệp khác do pháp luật quy định. Quyền sở hữu công nghieepk bảo
hộ quyền sử dụng độc quyền vì mục đích kinh tế và quyền định đoạt của các chủ sở hữu
các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Luật về sở hữu công nghiệp bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo và uy tin kinh doanh.
Sở hữu công nghiệp không phải là một loại sở hữu có liên quan tới tài sản hữu hình dùng
trong công nghiệp mà là sở hữu đối với tài sản vô hình như sáng chế, giải pháp hữu ích...
Kể cả những đối tượng mà chúng ta có thể tưởng là tài sản hữu hình như kiểu dáng công
nghiệp hay nhãn hiệu hàng hóa cũng không phải là tài sản hữu hình. Cái mà pháp luật
hướng tới bảo vệ trong quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu công nghiệp không phải là kiểu
dáng của một chiếc xe hay một bộ quần áo, hay một dấu hiệu găn trên hàng hóa mà là
những đối tượng vô hình đứng đằn sau kiểu dáng hay nhãn hiệu , là thành quả lao động
sáng tạo hay uy tín kinh doanh của chủ sở hữu đối tượng đó.
c) Quyền đối với giống cây trồng
Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại thực vật thấp
nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống, có thể nhận biết được
bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc sự phối hợp của các kiểu gen quy định
và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một
tính trạng có khả năng di truyền được. Thí dụ, sự kết hợp của giống lúa jasmin hạt dài của
Ấn Độ có mùi hương đặc biệt với giống lúa hạt vàng của Mỹ có tính kháng bệnh và cho
năng suất cao, song có mùi khó chịu có thể cho ra một giống lúa vừa có tính kháng bệnh và
cho năng suất cao, vừa có mùi hương dễ chịu.
Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức,cá nhân đối với giống cây trồng
do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. Đối tượng
được bảo hộ đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhân giống. Cái mà
pháp luật hướng tới bảo vệ đối với giống cây trồng chính là tính mới, tính ổn định, đồng
nhất và khả năng phân biệt với các giống cây trồng khác. Quyền đối với giống cây trồng
được xác lập trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký được quy định tại Luật sở hữu trí tuệ.
II. Luật sở hữu trí tuệ 2005
1. Nguyên nhân ra đời của Luật sở hữu trí tuệ 2005

Hầu hết các nước trên thế giới đều quy định sở hữu trí tuệ là một ngành luật riêng,
trong khi đó các quy định về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam lại được sáp nhập vào Bộ Luật dân
sự. Tuy việc tách hay nhập mang tính hình thức nhiều hơn nội dung, vẫn có nhiều ý kiến
cho rằng cần phải tách ội dung của sở hữu trí tuệ ra khỏi nội dung của Bộ Luật dân sự. Các
lý do cho lập luận trên được tập trung vào ba nhóm:
Thứ nhất, quan hệ pháp luật về sở hữu trí tuệ mang cả tính chất hành chính lẫn tính chất
dân sự. Ví dụ như việc đăng ký bảo hộ mang tính chất hành chính, trong khi quyền và
nghĩa vụ mang tính chất dân sự.
Thứ hai, các quy định về sở hữu trí tuệ tương đối phức tạp về khái niệm, cách phân biệt, lại
tập trung giải quyết vấn đề vô hình, một vấn đề mà các phần khác của Bộ Luật dân sự
không đề cập đến. Như vậy cũng không có sự đan xen kết hợp giữa các phần khác của Bộ
Luật dân sự với phần 6 (quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ) của Bộ Luật dân
sự.
Thứ ba, việc ban hành các quy định về sở hữu trí tuệ, một loại quy định phụ thuộc vào ý
chí của Nhà nước, thay đổi theo thời gian vào một bộ luật có tính ổn định cao như Bộ Luật
dân sự sẽ khiến việc sửa đổi những quy định bất hợp lý về sở hữu trí tuệ gặp nhiều khó
khăn.
Các ý kiến ban hành một đạo luật riêng về sở hữu trí tuệ đã được nhiều chuyên gia trong
nước và ngoài nước cung như các doanh nhiệp ủng hộ. Năm 2003. Luật Sở hữu trí tuệ đã
được đưa vào chương trình làm luật của Quốc hội. Tại kỳ họp quốc hội khóa X, kỳ họp thứ
10, vào ngày 29/11/2005 Luật Sở hữu trí tuệ đã được Quốc hội ban hành và có hiệu lực từ
ngày 1/7/2006. Như vậy Luật Sở hữu trí tuệ đã trở thành một ngành luật độc lập trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Luật Sở hữu trí tuệ đã tiếp thu được các giá trị của nhiều quy
phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ đã được thẩm

×