Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.29 KB, 18 trang )

Cấu trúc bài luận
Trang

A. Đặt vấn đề……………………………………………………...1
B. Nội dung vấn đề………………………………………………..1
I. Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách………………………………………..1
1. Khái niệm Ngân sách Nhà nước….............................................................1
2. Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là gì?.................................2
3. Nguyên nhân của việc phải cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước……………………………………………………………...…2
4. Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
theo Luật Ngân sách Nhà nước (Nguyên tắc ngân sách thăng bằng)…………....4
4.1. Nội dung của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước theo Luật Ngân sách Nhà nước…………………………………...4
4.2. Đặc điểm của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước theo Luật Ngân sách Nhà nước…………………………………...6
4.3. Ý nghĩa của nguyên tắc cân đối (nguyên tắc ngân sách
thăng bằng)……………………………………………………………………….…7
4.4. Mối quan hệ giữa nguyên tắc cân đối với hoạt động
ngân sách nhà nước………………………………………………………………...8
4.5. Tác động của nguyên tắc cân đối đối với hoạt động
ngân sách nhà nước………………………………………………………………...9
II. Một số vấn đề thực tiễn………………………………………………...10
1. Thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước ở Việt Nam……………………………………………………..…10
2. Những thành tựu và hạn chế khi áp dụng nguyên tắc
cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt Nam……………………....11
2.1. Những thành tựu đạt được…………………………………….............11
2.2. Một số hạn chế khi áp dụng nguyên tắc này………………………….13
3. Những đánh giá, nhận xét về thực tế áp dụng nguyên tắc


cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách
Nhà nước ở Việt Nam hiện nay………………………………………………...…14
III. Một số phương hướng nhằm phát huy vai trò của nguyên tắc
cân đối (nguyên tắc ngân sách thăng bằng) trong hoạt động ngân sách
nhà nước ở Việt Nam……………………………………………………………..14
C. Tổng kết………………………………………………….....…15
* Chú thích, Danh mục tài liệu tham khảo……………..…...………….....16
1
A. Đặt vấn đề
Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là một vấn đề quan trọng được
đặt ra đối với mỗi nhà nước, nó đảm bảo cho nhà nước thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình. Đặc biệt khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nhà
nước phải phát huy vai trò vượt trội của mình để can thiệp tới vấn đề này nhằm ổn
định tình hình, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia vào nền kinh tế với
mục tiêu phát triển đất nước. Để làm được điều đó, nhà nước phải cần đến một công
cụ sắc bén là ngân sách nhà nước, công cụ này có sự tác động mạnh mẽ tới hoạt
động kinh tế và cũng chịu sự ảnh hưởng không nhỏ bởi các hoạt động kinh tế nói
chung. Cho nên, để tiếp tục phát huy được vai trò là công cụ kinh tế sắc bén thì nhà
nước phải không ngừng hoàn thiện và đổi mới nguyên tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách với ý nghĩa giúp cho nhà nước kiểm soát tốt nền kinh tế tài chính của đất
nước. Trước hết, muốn bổ sung, hoàn thiện nó chúng ta phải có sự nhìn nhận, cách
hiểu đúng đắn về nguyên tắc này – nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước theo quy định của pháp luật và những thành tựu đạt được, hạn chế khi sử
dụng nó. Sau đây là phần phân tích cụ thể.
B. Nội dung vấn đề
I. Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước theo Luật Ngân sách
1. Khái niệm Ngân sách Nhà nước
Khi nói đến ngân sách nhà nước thì tồn tại hai phương diện có liên quan là
ngân sách nhà nước theo phương diện kinh tế và ngân sách nhà nước theo phương

diện pháp lý. Tuy nhiên chúng ta chỉ xem xét chủ yếu ngân sách nhà nước theo quy
định của pháp luật (phương diện pháp lý), bởi lẽ đây là công cụ được nhà nước thừa
nhận trong pháp luật và được ứng dụng trong thực tiễn.
Về phương diện kinh tế: ngân sách nhà nước là một khái niệm thuộc phạm trù
kinh tế học hay hẹp hơn là tài chính học. Theo đó, ngân sách nhà nước được hiểu là
bảng dự toán về các khoản thu và các khoản chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thực hiện trong một khoảng thời hạn nhất
định, thường là một năm. Khái niệm ngân sách nhà nước định nghĩa theo phương
diện này có hai yếu tố được đề cập:
Một là, ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc
gia, thông qua hành vi kinh tế là xác lập nội dung thu - chi liên quan đến ngân quỹ
của nhà nước. Do đó phải được Quốc hội với tư cách là người đại diện cho toàn thể
nhân dân trong quốc gia đó quyết định trước khi chính phủ đem ra thi hành trên
thực tế để đảm bảo cho việc thu, chi ngân sách có hiệu quả và phù hợp với người
dân. Ngoài ra, Quốc hội còn là người giám sát chính phủ trong quá trình thi hành
ngân sách và có quyền phê chuẩn bảng quyết toán ngân sách hàng năm do chính
phủ đệ trình khi năm ngân sách kết thúc.
Hai là, ngân sách nhà nước có hiệu lực trong vòng một năm, tức là việc dự
toán thu, chi đã được đề ra phải hoàn thành trong năm ngân sách đó tính từ ngày
01/01 đến ngày 31/12 hàng năm. Đây là khoảng thời gian mà pháp luật quy định
nhằm giới hạn rõ việc thực hiện dự toán ngân sách nhà nước. Khoảng thời gian này
có thể trùng hoặc không trùng với năm dương lịch tùy theo tập quán của mỗi nước.
Việc quy định rõ thời gian này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ngân
2
sách nhà nước, tránh sự tùy tiện, độc đoán của nhà nước trong việc thu nộp và chi
tiêu ngân sách.
Về phương diện pháp lý: theo quy định tại Điều 1 Luật Ngân sách Nhà nước
thì: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Với quy định này, chúng ta

thấy rằng ngân sách nhà nước chính là một đạo luật tài chính do Quốc hội ban hành,
dự toán về các khoản thu, chi thực hiện trong một năm của một quốc gia, bên cạnh
đó đây còn là công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện và điều tiết các
hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước.
2. Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là gì?
Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia trong
đó dự trù các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên thực tế, quá
trình thu, chi ngân sách nhà nước luôn trong trạng thái biến đổi không ngừng, nó bị
ảnh hưởng bởi sự vận động của nền kinh tế quốc gia, có khi những khoản thu dự
kiến không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong năm đó hoặc có khi mức thu lại vượt
xa những khoản chi. Do vậy, các khoản chi tiêu và thu ngân sách nhà nước phải
được tính toán chính xác và phù hợp với thực tế để đảm bảo cho ngân sách nhà
nước trong trạng thái cân bằng, ổn định. Thu và chi ngân sách là hai vấn đề quan
trọng để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân đối, hai vấn đề này lại nằm
trong mối tương quan giữa tài chính và kinh tế, vì kinh tế có phát triển thì Nhà nước
mới huy động được nguồn thu vào ngân sách nhà nước còn kinh tế không ổn định,
kém phát triển thì nguồn thu vào ngân sách nhà nước giảm và còn phải chi nhiều để
hổ trợ. Điều đó dễ dẫn đến ngân sách nhà nước bị mất cân đối.
“Xét về bản chất, cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là cân đối giữa
các nguồn thu mà Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong
một năm và sự phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước trong năm đó;
Xét về góc độ tổng thể, cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước phản ánh
mối tương quan giữa hoạt động thu và hoạt động chi trong một tài khóa. Nó không
chỉ là sự tương quan giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý
giữa cơ cấu các khoản thu và cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước do các
cơ quan có thẩm quyền thực hiện;
Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp
ngân sách, giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để thực

hiện chức năng và nhiệm vụ được giao.
Tựu trung lại ta có thể hiểu: Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là
một bộ phận quan trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan
hệ tương tác giữa hoạt động thu và hoạt động chi ngân sách nhà nước nhằm thực
hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội mà Nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa
bàn cụ thể”
(1)
.
3. Nguyên nhân của việc phải cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
Thứ nhất, hoạt động ngân sách nhà nước chính là hoạt động thu ngân sách từ
các nguồn thu khác nhau và hoạt động chi ngân sách do cơ quan nhà nước có thẩm
3
quyền thực hiện nhằm hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu đặt ra trước nhà nước,
trước đất nước để làm ổn định và phát triển kinh tế- xã hội. Do vậy, để thực hiện tốt
và đến cùng các mục tiêu kinh tế- xã hội mà nhà nước đã đặt ra thì nguồn tài chính,
tiền tệ của đất nước phải ổn định, cân đối, trong đó các nhiệm vụ chi không được
vượt quá khả năng các nguồn thu mà phải ở trong trạng thái cân bằng hoặc thấp hơn
các nguồn thu để tránh tình trạng thâm hụt ngân sách, kiệt quệ tài chính. Như vậy,
nguyên nhân đầu tiên của việc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước chính là
xuất phát từ việc đảm bảo cho các mục tiêu kinh tế- xã hội của đất nước được thực
hiện đến cùng. Nếu như các nhiệm vụ chi luôn cao hơn khả năng thu của đất nước
thì điều tất yếu là sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện các mục tiêu khác nhau
của các lĩnh vực khác nhau của đất nước mà cần phải có nguồn tài chính để điều
chỉnh. Ngược lại, nếu chúng ta luôn đạt được bội thu ngân sách thì tất cả các mục
tiêu của đất nước sẽ luôn được hoàn thành mà không một mục tiêu nào không được
thực hiện đến cùng.
Thứ hai, việc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn bắt nguồn từ
chủ trương ổn định hệ thống chính sách tài khóa tiến tới ổn định việc tiến hành
những công việc đã đề ra theo kế hoạch. Điều này có nghĩa là, khi đề ra những chủ
trương, kế hoạch cho công việc cụ thể phải tiến hành của đất nước nhằm phục vụ

cho nhu cầu nào đó thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã dự trù được nguồn kinh
phí cho việc tiến hành công việc đó và nguồn kinh phí đó đủ để thực hiện các công
việc đó mà trong quá trình tiến hành không phải bổ sung hay lấy nguồn kinh phí đầu
tư cho các công việc khác để bù đắp vào công việc đang thực hiện hay công việc
đang thực hiện lại phải dừng lại vì nguồn kinh phí đã không còn. Như vậy, việc ổn
định nguồn ngân sách sẽ là điều kiện cho việc tiến hành công việc cụ thể được triệt
để, giúp cho nguồn ngân sách không bị xáo trộn do những nguồn thu đáp ứng đủ
nhiệm vụ chi.
Thứ ba, khi chúng ta có sự định hướng những công việc nào phải tiến hành
trước, những công việc nào chưa cần thiết phải tiến hành mà nên lùi lại sau và nếu
như công việc tiến hành trước đó có sử dụng nguồn kinh phí thì nguồn đó từ đâu để
thực hiện thì chúng ta sẽ tập trung nguồn kinh phí cho những công việc được tiến
hành trước còn các nguồn thu mà chưa có nhiệm vụ chi cụ thể nào chúng ta sẽ dự
trữ để sử dụng sau, nếu có sự định hướng như vậy, không những chúng ta có thể ổn
định được giữa nguồn thu và nhiệm vụ chi mà còn có nguồn thu dư ra để dự trữ.
Như vậy, điều này có nghĩa là việc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn
xuất phát từ mục tiêu có vai trò quan trọng đó là để tăng nguồn dự trữ ngân sách
nhà nước, khi cần thiết sẽ sử dụng những nguồn ngân sách dự tữ này để đáp ứng
cho những mục tiêu cao cả của đất nước.
Thứ tư, nếu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có những tính toán cho
việc thu ngân sách, nguồn thu này có thể thu cao hay thấp hơn so với những năm
ngân sách trước và nguồn thu đó cũng đã được lên kế hoạch để đáp ứng chi cho
những nhiệm vụ chi cụ thể, điều này đòi hỏi “những cơ quan có thẩm quyền thu, cá
nhân thực hiện nhiệm vụ thu và những cơ quan và cá nhân có nghĩa vụ nộp vào
ngân sách những khoản bắt buộc mà pháp luật yêu cầu họ phải nộp phải thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ và nghĩa vụ của mình”
(i)
. Do những nguồn thu, mức thu
đã được lên kế hoạch, tính toán cụ thể cho nên không thể làm sai lệch những con số
4

cụ thể đó, “nhằm đảm bảo cho các nguồn thu đều được tập trung một cách đầy đủ
vào ngân sách nhà nước để cơ quan có thẩm quyền lên kế hoạch phân bổ những
nguồn vừa thu được từ các hoạt động do những cơ quan có thẩm quyền thu trực tiếp
tập trung về ngân sách nhà nước”
(ii)
. Như vậy, việc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước là xuất phát từ yêu cầu “đấu tranh phòng, chống tham nhũng, bởi lẽ
những nguồn thu và nhiệm vụ chi được lên kế hoạch cụ thể, có nghĩa là nguồn thu
này được phân bổ bao nhiêu cho nhiệm vụ chi cụ thể thì bắt buộc cơ quan có thẩm
quyền thu, người có nghĩa vụ nộp vào ngân sách nhà nước những khoản thuế theo
quy định của pháp luật và những cơ quan, đơn vị tiếp nhận việc phân bổ nguồn
ngân sách để trực tiếp thực hiện các công việc được giao phải làm đúng những định
hướng, kế hoạch mà cơ quan cấp trên đã đề ra để đảm bảo cho công việc được hoàn
thành mà ngân sách nhà nước lại vẫn ổn định, không bị xáo trộn”
(iii)
. Những nguồn
thu và nhiệm vụ chi có sự ăn khớp, cân bằng với nhau bởi những kế hoạch mà
không thể có sự gian dối, làm sai lệch những con số đó khi thực hiện thu và thực
hiện chi ngân sách.
4. Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật Ngân
sách Nhà nước (Nguyên tắc ngân sách thăng bằng)
4.1. Nội dung của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
theo Luật Ngân sách Nhà nước
Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 đã ghi nhận nguyên tắc cân đối trong
hoạt động ngân sách nhà nước tại Điều 8 như sau: “1. Ngân sách nhà nước được
cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi
thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường
hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân
bằng thu, chi ngân sách; 2. Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn
vay trong nước và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm

nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển
và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn; 3. Về nguyên tắc,
ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu;
trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công
trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục
đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng
vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy
động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả
hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu
tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh”.
Như vậy, với quy định này thì nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước bao gồm những nội dung sau đây:
Một là, tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên
và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi
thì số bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân
sách. Nội dung này của nguyên tắc cân đối đã phân định ranh giới giữa chi đầu tư
phát triển và chi thường xuyên, thể hiện sự thận trọng trong chính sách tài khóa của
Việt Nam. Theo đó, các khoản thu thường xuyên được sử dụng để trang trải chi
thường xuyên và một phần thu thường xuyên cùng với thu bù đắp được sử dụng để
5
chi đầu tư phát triển, trong đó chi đầu tư phát triển được chú trọng hơn vì nó có thể
làm tăng khả năng thu hồi vốn cho ngân sách nhà nước nhưng phải đảm bảo được
sự cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, bởi lẽ giữa chúng có mối
quan hệ mật thiết với nhau trong chi tiêu công của Nhà nước. Chi đầu tư phát triển
là hoạt động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia, nó tạo
ra những điều kiện cở sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền kinh tế, cũng từ đó kéo
theo sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của đất
nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, chi đầu
tư phát triển là vấn đề được Nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên tắc cân đối
trong hoạt động ngân sách nhà nước.

Hai là, bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước
và nước ngoài. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc
không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm
bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Trong điều kiện kinh tế thị
trường như hiện nay thì vấn đề bội chi ngân sách là không thể tránh khỏi đối với
một quốc gia nhưng chưa hẳn bội chi ngân sách nhà nước là biểu hiện của sự yếu
kém của nền kinh tế mà nó còn là một trong các cách thức tạo ra sự cân đối của hoạt
động ngân sách nhà nước trong dài hạn, đảm bảo cho nền kinh tế- xã hội phát triển
và ổn định. Nguyên tắc vay bù đắp bội chi nên dành cho mục đích phát triển và đảm
bảo bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn là rất cần thiết để đảm bảo
ngân sách nhà nước được cân đối, tận dụng được nguồn vốn vay một cách có hiệu
quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt động chi không mang tính chất thu hồi vốn và không
tạo ra thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội chi chỉ được để dành cho mục đích
phát triển. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không
vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu
đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo
đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân dân cấp
tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự
toán thì được phép huy động vốn không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản
trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
Ba là, nguyên tắc cân đối này đã tạo cho chính quyền địa phương có được
nhiều ưu thế hơn trong việc quyết định ngân sách cấp mình. Vấn đề cho phép cấp
tỉnh vay nợ là cần thiết, giúp cho chính quyền địa phương có thể chủ động hơn
trong việc tạo ra những điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng để phát triển kinh tế và
đảm bảo các vấn đề xã hội của địa phương mình. Tuy nhiên, khoản vay nợ này lại
được tính vào thu trong cân đối ngân sách địa phương, do vậy nhìn một cách tổng
thể thì ngân sách địa phương tôn trọng nguyên tắc phải cân bằng thu, chi theo quy
định của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 song thực chất ngân sách địa phương
có bội chi và khoản bội chi này lại không tính vào trong bội chi ngân sách nhà
nước. Điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch trong cân đối ngân sách nhà nước ở

Việt Nam. Ngoài ra, việc quy định tỷ lệ tối đa chung cho mọi địa phương là 30%
( trừ Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) là chưa hợp lý vì mỗi địa phương có điều kiện
kinh tế, xã hội khác nhau nên nhu cầu vay nợ, khả năng quản lý nợ và hoàn trả nợ là
khác nhau.
6
Bốn là, ngoài những nội dung trên đây thì nguyên tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước cũng được thể hiện ở chỗ: phải dựa trên hệ thống các nguyên
tắc lập ngân sách và quản lý chi tiêu công. Cụ thể: về tính tổng thể và tính kỷ luật
tài chính đó là, để kiểm soát được các nguồn tài chính có hiệu quả, yêu cầu trong
cân đối của hoạt động ngân sách nhà nước phải đánh giá đúng nguồn lực tài chính
đó và lựa chọn những công cụ thích hợp nhất để phân bổ nguồn lực nhằm đạt được
mục tiêu ngân sách đã đề ra. Điều này có nghĩa là, khi cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước thì những quyết định về chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên
cần phải được gắn kết với nhau, trong chi tiêu ngân sách nhà nước cần tập trung chi
vào những khoản cần thiết, chi tiêu tiết kiệm, tránh lãng phí để thực hiện tốt các
chiến lược mà chính phủ đề ra.
“Về tính linh hoạt và tính tiên liệu, trong cân đối của hoạt động ngân sách
nhà nước, tính linh hoạt và tính tiên liệu là cần thiết vì nó giúp nhà quản lý đưa ra
cách xử lý và điều phối nguồn lực tài chính một cách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi
để nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra. Tính linh hoạt yêu cầu
phải trao quyền cho người quản lý trong việc ra quyết định phân bổ nguồn lực tài
chính đã thu được từ các nguồn thu khác nhau mà đất nước có. Tính tiên liệu đóng
vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách và chương trình có hiệu quả. Nội
dung này đòi hỏi nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước phải chú ý
đến sự cân đối trong ngắn hạn và dài hạn và phải vận dụng cách tiếp cận trung hạn
đối với việc điều chỉnh mất cân đối ngân sách nhà nước.
Về tính trung thực, thì khi sử dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước nên dựa vào những dự toán đã được lập từ thực tế tình hình kinh tế-
xã hội của đất nước mà không có sự thiên vị về vấn đề thu hoặc chi ngân sách nhà
nước. Những dự toán quá lạc quan sẽ dễ đưa đến sự vi phạm tính kỷ luật tài chính

và dẫn đến việc không thực hiện được những chiến lược, chính sách mà Nhà nước
đã đề ra do ngân sách nhà nước không bảo đảm cân đối trong quá trình hoạt động
khi chưa đưa ra những kế hoạch cụ thể.
Về thông tin, minh bạch và trách nhiệm, đây là vấn đề rất cần thiết trong cân
đối trong hoạt động ngân sách nhà nước. Thông tin tốt sẽ làm tăng thêm tính trung
thực và giúp người quản lý sẽ đưa ra những quyết định hợp lý. Thông tin chính xác
và kịp thời về chi phí, đầu ra và kết quả đạt được sẽ giúp cho quá trình thực hiện
cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước đạt hiệu quả nhất định”
(2)
.
4.2. Đặc điểm của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
theo Luật Ngân sách Nhà nước
Từ những nội dung trên của nguyên tắc cân đối, chúng ta có thể rút ra một số
đặc điểm của nó như sau:
Thứ nhất, nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật
Ngân sách phản ánh mối quan hệ tương tác giữa các khoản thu và nhiệm vụ chi
ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Việc
cân đối trong hoạt động ngân sách không phải chỉ là thu, chi cân đối hoặc chỉ là cân
đối về mặt lượng mà còn nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế- xã hội
của đất nước, đồng thời các chỉ tiêu kinh tế- xã hội này cũng quyết định sự hình
thành về thu, chi ngân sách nhà nước. Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước với những đặc thù của nó được nhà nước xây dựng trong luật nhằm
7

×