Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Những quy định của pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.63 KB, 80 trang )

Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn thầy Hoàng Phước Hiệp
– Vụ trưởng Vụ hợp tác quốc tế – Bộ Tư pháp đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành Luận văn này!
Xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo và các bạn
sinh viên đã nhiệt tình giúp đỡ trong quá trình nghiên
cứu Luận văn!
1
Mục lục
Nội dung Trang
Đặt vấn đề 4
Phần thứ nhất. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về dịch vụ
pháp lý và thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
7
Chương I. Những vấn đề lý luận về dịch vụ pháp lý và thị
trường dịch vụ pháp lý
9
1. Khái niệm và phân loại 9
2. Đặc điểm 20
Chương II. Thực tiễn sự hình thành và phát triển dịch vụ
pháp lý và thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
24
1. Giai đoạn từ năm 1987 trở về trước 24
2. Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 2006 27
3. Giai đoạn từ năm 2007 đến nay 28
Phần thứ hai. Những vấn đề pháp lý cơ bản về hoạt động của tổ
chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam
31
Chương I. Quá trình hình thành và phát triển các quy định
pháp luật về hoạt động của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt
Nam


32
Chương II. Những quy định pháp luật trước khi Luật Luật sư
2006 có hiệu lực thi hành
40
1. Khái niệm “tổ chức luật sư nước ngoài”, “luật sư nước
ngoài”
41
2. Các quy định về bảo đảm đầu tư đối với tổ chức hành
nghề
luật sư nước ngoài
43
3. Các quy định về nguyên tắc hành nghề, điều kiện hành
nghề đối với tổ chức luật sư nước ngoài
45
4. Các quy định về hình thức hành nghề 47
5. Các quy định về phạm vi hành nghề 49
6. Thủ tục xin cấp Giấy phép thành lập, đăng ký hoạt động,
thay đổi nội dung Giấy phép, gia hạn hoạt động, chấm dứt
hoạt động và một số quy định khác
51
7. Các quyền và nghĩa vụ của tổ chức hành nghề luật sư nước 60
2
ngoài
Chương III. Các quy định pháp luật hiện hành 65
1. Những quy định về hoạt động của tổ chức hành nghề luật
sư nước ngoài theo các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam
66
2. Các cam kết của Việt Nam về thương mại dịch vụ trong
khuôn khổ ASEAN
69

3.Những quy định theo Luật Luật sư 2006, các văn bản
hướng dẫn thi hành và các văn bản có liên quan khác
70
Phần thứ ba. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam
83
Kết luận 89
Danh mục tài liệu tham khảo 90
3
phần mở đầu
Việt Nam bắt đầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới từ Đại hội Đảng Cộng sản
lần thứ VI (năm 1986). Trải qua 20 năm, đến nay, diện mạo đất nước đã có
nhiều đổi thay. Những thành tựu to lớn về ngoại giao như gia nhập Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam á (ASEAN) năm 1995, tổ chức thành công Diễn đàn hợp
tác á-Âu (ASEM) lần thứ V năm 2004 và Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á-Thái
Bình Dương (APEC) lần thứ 14 năm 2006, đặc biệt, quan trọng hơn là chính
thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ngày
7/11/2006, được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc năm 2007, đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Nhiều chuyên gia
và nhiều phương tiện truyền thông đại chúng trên thế giới đã đánh giá Việt Nam
“có thể trở thành con hổ mới của Châu á”.
Hoà vào dòng chảy chung ấy của đất nước, đội ngũ luật sư Việt Nam
cũng đang đứng trước những cơ hội của đổi mới và hội nhập. Các cam kết của
Việt Nam khi gia nhập WTO và Luật Luật sư được ban hành ngày 29/06/2006
cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo ra một khung pháp lý thông thoáng
hơn rất nhiều cho các nhà cung ứng dịch vụ pháp lý nước ngoài. Nếu nhìn nhận
từ góc độ của các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài thì Việt Nam quả là một thị
trường nhiều tiềm năng bởi những nguyên nhân sau:
+ Về nhu cầu, đây là thời điểm Việt Nam đang có những bước đi quan
trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng trưởng kinh tế và thu hút

đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm qua đều có những bước phát triển
mạnh mẽ. Do vậy, nhu cầu cần có những chuyên gia tư vấn nắm vững pháp luật
nước ngoài và pháp luật quốc tế là rất lớn.
+ Về nguồn cung: có thể nói là thiếu trầm trọng. Sức cạnh tranh từ các
nhà cung ứng dịch vụ pháp lý trong nước là rất yếu bởi đội ngũ luật sư Việt
Nam vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng. Số lượng luật sư Việt Nam
có trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, am hiểu pháp luật, thông lệ quốc tế
lại càng khiêm tốn. Hơn nữa, thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam là một thị
trường mới mở cửa, chưa có nhà cung ứng dịch vụ pháp lý nào thực sự chiếm
lĩnh và làm chủ thị trường. Vậy nên, đối với những nhà cung ứng dịch vụ pháp
4
lý có khả năng và có tham vọng thì thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam là rất
hấp dẫn.
+ Về khung pháp lý điều chỉnh: những cam kết gia nhập WTO của Việt
Nam cùng với Luật Luật sư năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo
ra một khung pháp lý khá đầy đủ, thông thoáng, tạo sự an tâm về môi trường
đầu tư cho các nhà cung ứng dịch vụ pháp lý nước ngoài khi bước chân vào thị
trường Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy trong tương lai thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt
Nam sẽ phát triển rất mạnh mẽ và sẽ sớm trở thành một đối tượng nghiên cứu rất
hấp dẫn đối với các chuyên gia và các nhà nghiên cứu.
Trên đây là những lý do khiến em quyết định lựa chọn đề tài “Những quy
định của pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài
tại Việt Nam” để làm Luận văn tốt nghiệp.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở thế giới quan của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và các phương pháp khoa học khác như phân tích, so sánh, đối chiếu...
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm hiểu một cách có hệ thống
các kiến thức về dịch vụ pháp lý cũng như nghiên cứu, phân tích một cách toàn
diện, đầy đủ về các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động của tổ

chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam, qua đó đưa ra các kiến nghị về
hướng hoàn thiện đối với các quy định pháp luật về hoạt động của tổ chức hành
nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam.
Nội dung Luận văn tập trung vào ba phần chính sau:
- Phần thứ nhất: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về dịch vụ pháp lý
và thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
- Phần thứ hai: Những vấn đề pháp lý cơ bản về hoạt động của tổ
chức hành nghề luật sư nước ngoài ở Việt Nam.
- Phần thứ ba: Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam
5
Phần thứ nhất - Những vấn đề lý luận và thực tiễn về dịch
vụ pháp lý và thị trường dịch vụ pháp lý ở việt nam
Hoạt động hành nghề dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư nước
ngoài là một loại hoạt động dịch vụ kinh doanh, cụ thể hơn là hoạt động cung
ứng dịch vụ pháp lý. Như vậy, để có một cái nhìn đầy đủ, toàn diện về vấn đề
“hoạt động hành nghề dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư nước
ngoài” thì trước hết cần phải nắm được những kiến thức nền tảng về vấn đề đó,
bao gồm các kiến thức về “dịch vụ pháp lý” và “thị trường dịch vụ pháp lý”.
Khái niệm “dịch vụ pháp lý” và “thị trường dịch vụ pháp lý” là những
khái niệm được hiểu rất khác nhau ở mỗi quốc gia. Điều này phụ thuộc vào trình
độ phát triển, trình độ lập pháp, lịch sử hình thành và xây dựng hệ thống pháp
luật cũng như chính sách mở cửa thị trường dịch vụ và nhiều yếu tố khác nữa.
Việc hiểu rõ những khái niệm này trên bình diện quốc tế cũng như theo pháp
luật Việt Nam, việc phân tích các đặc điểm, vị trí, vai trò của chúng trong toàn
bộ nền kinh tế mang một ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu đề tài.
Vì vậy, Phần thứ nhất của đề tài tập trung vào việc phân tích những vấn đề lý
luận cũng như đánh giá sơ bộ về thực tiễn dịch vụ pháp lý và thị trường dịch vụ
pháp lý ở Việt Nam. Kết cấu Phần này gồm 2 chương:
- Chương 1. Những vấn đề lý luận về dịch vụ pháp lý và thị trường

dịch vụ pháp lý
- Chương 2. Sự hình thành và phát triển dịch vụ pháp lý và thị trường
dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
6
Chương 1. Những vấn đề lý luận về dịch vụ pháp lý và thị trường
dịch vụ pháp lý
1. Khái niệm và phân loại dịch vụ pháp lý và thị trường dịch vụ pháp lý
1.1. Dịch vụ pháp lý
Dịch vụ pháp lý là một khái niệm đã xuất hiện và phát triển từ lâu trên thế
giới, đặc biệt là ở các nước phát triển. Nhưng mãi đến đầu những năm 80, khái
niệm này mới thực sự xuất hiện và dần được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam. Đó
chính là thời điểm Việt Nam bắt đầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, thực
hiện chính sách đối ngoại mở cửa và bắt đầu điều chỉnh hệ thống pháp luật thích
ứng với nền kinh tế thị trường.
Để hiểu rõ khái niệm dịch vụ pháp lý, chúng ta cần phân tích khái niệm
này về ngữ nghĩa, tìm hiểu định nghĩa của Liên hợp quốc (United Nations – UN)
và Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization -WTO), để thấy
được cách hiểu quốc tế chính thức về dịch vụ pháp lý, và cuối cùng là tìm hiểu
khái niệm dịch vụ pháp lý theo pháp luật Việt Nam.
a) Khái niệm “dịch vụ pháp lý”
Xét về ngữ nghĩa, “dịch vụ pháp lý” là một loại dịch vụ kinh doanh và
mang tính chất chuyên ngành pháp lý. Vậy dịch vụ là gì? Thế nào là mang tính
chất chuyên ngành pháp lý? Từ điển Tiếng Việt qua nhiều lần tái bản đều định
nghĩa:
“Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của
số đông, có tổ chức và được trả công.”
Như vậy, có thể thấy trong định nghĩa này bao hàm ba vấn đề, đó là:
- Dịch vụ là một công việc, mang tính chất vô hình, không đo đếm được,
khác với hàng hoá mang tính chất hữu hình và đo đếm được.

7
- Cung ứng dịch vụ là công việc có tổ chức, hay nói cách khác, người
cung ứng dịch vụ cần phải đạt được những điều kiện nhất định về công việc
mình sẽ phục vụ.
- Cuối cùng, định nghĩa dịch vụ có bao hàm yếu tố thương mại, hay yếu tố
tìm kiếm lợi nhuận qua việc “được trả công”.
Còn “pháp lý” có thể hiểu là mang tính chất chuyên ngành pháp luật hay
liên quan đến lĩnh vực pháp luật. Kết hợp hai khái niệm trên, ta thấy nếu hiểu
một cách đơn giản thì “dịch vụ pháp lý” là “công việc phục vụ trực tiếp cho
những nhu cầu nhất định của số đông liên quan đến lĩnh vực pháp luật, có tổ
chức và được trả công”.
b) Phân tích khái niệm “dịch vụ pháp lý” theo quy định của Liên hợp
quốc và WTO
Có một điểm chung trong cách định nghĩa của Liên hiệp quốc và WTO về
khái niệm dịch vụ, đó là không đưa ra một định nghĩa trừu tượng mang tính bản
chất của dịch vụ và cũng không định nghĩa theo cách đặt trong mối tương quan
đối lập với hàng hóa. Một định nghĩa trừu tượng mang tính bản chất hoặc so
sánh đối lập có lẽ không bao hàm hết các hoạt động dịch vụ vốn rất đa dạng và
được hiểu với nội hàm khác nhau ở mỗi nước. Vậy, để tránh sự bất đồng quan
điểm giữa các quốc gia thành viên và tiện cho những quy định tiếp sau này, cả
Liên hợp quốc và WTO đều không đưa ra định nghĩa dịch vụ mà đưa ra một
danh mục theo phương pháp liệt kê để từ đó xác định hành vi nào là dịch vụ.
Năm 1991, Liên hợp quốc đã công bố Bảng phân loại tạm thời các dịch
vụ chủ yếu (PCPC) và đến năm 1997 công bố tiếp Bảng phân loại các dịch vụ
chủ yếu (CPC). PCPC và CPC không đưa ra định nghĩa trừu tượng về dịch vụ,
nhưng các hành vi được liệt kê, được mô tả và mã hoá trong hai bảng này được
coi là dịch vụ. Theo Danh mục phân loại các lĩnh vực dịch vụ (Danh mục CPC),
dịch vụ pháp lý thuộc loại hình dịch vụ kinh doanh, thuộc nhóm ngành dịch vụ
nghề nghiệp (mã CPC 861) và được phân loại như sau:
- Dịch vụ tư vấn và đại diện liên quan tới pháp luật hình sự (86111);

8
- Dịch vụ tư vấn pháp luật và đại diện trong các thủ tục tư pháp liên quan
tới các lĩnh vực pháp luật khác (86119);
- Dịch vụ tư vấn pháp luật và đại diện trong các thủ tục pháp lý trước các
hội đồng tư pháp (có thẩm quyền như Tòa án) (86120);
- Dịch vụ về văn bản pháp luật và xác nhận (86130); và
- Các thông tin tư vấn pháp lý khác (86190).
Như vậy, theo cách hiểu của Liên hợp quốc, dịch vụ pháp lý được chia
thành 3 nhóm cơ bản sau:
+ Dịch vụ tư vấn pháp luật, tức là cung cấp các ý kiến pháp lý, các lời
khuyên trên cơ sở pháp luật cho các cá nhân, tổ chức có yêu cầu. Dịch vụ này
thường bao gồm các hoạt động tìm kiếm pháp luật có liên quan, giải thích pháp
luật, hướng dẫn thực hiện pháp luật và một số công việc khác.
+ Dịch vụ đại diện pháp luật, tức là làm người đại diện thay mặt khách
hàng trước cơ quan có thẩm quyền hoặc tham gia một quan hệ xã hội nào đó để
giúp khách hàng hoàn thành công việc đúng pháp luật trên cơ sở sự uỷ quyền
của khách hàng và có thu phí. Về cơ bản, dịch vụ này cũng giống như đại diện
theo uỷ quyền trong quan hệ pháp luật dân sự, chỉ khác biệt ở hai điểm là có tính
chuyên nghiệp cao và tính thương mại. Tính chuyên nghiệp cao thể hiện ở chỗ
người thực hiện dịch vụ đại diện pháp luật là người có trình độ pháp luật, có đủ
các điều kiện để thực hiện dịch vụ đại diện pháp luật và thực hiện dịch vụ này
với tính chất nghề nghiệp; tính thương mại nằm ở việc “có thu phí” dịch vụ.
+ Các dịch vụ pháp lý khác như công chứng, xác nhận giấy tờ, soạn thảo
hợp đồng…
Trong khuôn khổ Tổ chức thương mại thế giới (WTO), các quy định về
dịch vụ (hay đúng hơn là thương mại dịch vụ) được quy định trong Hiệp định
chung về thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Services –
GATS) và các phụ lục kèm theo. Để hiểu khái niệm “dịch vụ pháp lý” theo
GATS cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau:
9

- Thứ nhất là cách định nghĩa của GATS về dịch vụ. GATS không đưa ra
định nghĩa của riêng mình mà lấy Bảng CPC của Liên hợp quốc để cụ thể hoá
các hoạt động theo GATS. Các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ
được chia thành 12 ngành là:
(1) dịch vụ kinh doanh (business services);
(2) dịch vụ viễn thông (communications services);
(3) dịch vụ xây dựng và kỹ thuật (construction and related engineering
services);
(4) dịch vụ phân phối (distribution services);
(5) dịch vụ giáo dục (educational services);
(6) dịch vụ môi trường (environmental services);
(7) dịch vụ tài chính (financial services);
(8) dịch vụ y tế (health services);
(9) dịch vụ du lịch (tourism services);
(10) dịch vụ thể thao, văn hoá, giải trí (recreational, cultural and sporting
services);
(11) dịch vụ vận tải (transport services); và
(12) Các dịch vụ khác
12 ngành này lại được chia làm 155 phân ngành nhỏ. Tất cả các hoạt động
được liệt kê trong danh mục này của WTO được coi là hoạt động dịch vụ thương
mại. Lĩnh vực “dịch vụ pháp lý” được xếp vào phân ngành Dịch vụ chuyên môn
thuộc ngành Dịch vụ kinh doanh .
- Thứ hai là phạm vi điều chỉnh của GATS. Như tên gọi, GATS không
điều chỉnh tất cả các hoạt động dịch vụ nói chung mà chỉ điều chỉnh các hoạt
động dịch vụ thương mại. Vậy thế nào là “dịch vụ thương mại”? Làm sao phân
biệt được dịch vụ thương mại với các hoạt động dịch vụ khác phi thương mại?
Câu trả lời nằm ở điểm (b) và điểm (c), khoản 3, điều I như sau:
“(b) Dịch vụ bao gồm bất kỳ dịch vụ nào trong tất cả các lĩnh vực, trừ các
dịch vụ được cung cấp để thi hành thẩm quyền của Chính phủ
10

(c) “các dịch vụ được cung cấp để thi hành thẩm quyền của Chính phủ” là
bất kỳ dịch vụ nào được cung cấp không trên cơ sở thương mại, và cũng
không trên cơ sở cạnh tranh với một hoặc nhiều nhà cung cấp dịch vụ.”
Như vậy, đúng với chức năng hoạt động của WTO là một thiết chế điều
chỉnh các hoạt động thương mại trên thế giới, GATS đã loại bỏ “các dịch vụ
được cung cấp để thi hành thẩm quyền của Chính phủ” bởi hai yếu tố: “cung
cấp không trên cơ sở thương mại” hay là không nhằm mục đích tìm kiếm lợi
nhuận, và “không trên cở sở cạnh tranh”. Hai yếu tố này khiến cho các loại hình
dịch vụ phi thương mại này không hoạt động theo các quy luật của thị trường
cũng như các nguyên tắc cơ bản của GATS về mở cửa thị trường dịch vụ là “đối
xử tối huệ quốc” và “đối xử quốc gia”. Đối với lĩnh vực dịch vụ pháp lý, phạm
vi này đã loại trừ các hoạt động của thẩm phán, thư ký toà án, công tố và một số
hoạt động tư pháp khác.
- Thứ ba là “yếu tố quốc tế” của thương mại dịch vụ trong khuôn khổ
WTO. Các “yếu tố quốc tế” này được thể hiện rõ qua định nghĩa của GATS về
thương mại dịch vụ được quy định tại khoản 2, điều I GATS:
“Theo Hiệp định này, thương mại dịch vụ được định nghĩa là việc cung cấp dịch
vụ:
(a) từ lãnh thổ của một Thành viên đến lãnh thổ của bất kỳ Thành viên nào khác;
(b) trên lãnh của một Thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ Thành
viên nào khác;
(c) bởi một người cung cấp dịch vụ của một Thành viên, thông qua sự hiện diện
thương mại trên lãnh thổ của bất kỳ Thành viên nào khác;
(d) bởi một người cung cấp dịch vụ của một Thành viên, thông qua sự hiện diện
thể nhân trên lãnh thổ của bất kỳ Thành viên nào khác”
Như vậy, khái niệm dịch vụ trong khuôn khổ Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) nói chung phải được hiểu một cách cụ thể là những hoạt động “dịch vụ
thương mại quốc tế”. Khái niệm “dịch vụ pháp lý” ở đây cũng cần được hiểu
theo tinh thần đó.
11

Tóm lại, trên thế giới hiện nay, khái niệm “dịch vụ pháp lý” được hiểu
theo hai nghĩa, nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, khái niệm
“dịch vụ pháp lý” bao gồm cả các dịch vụ “được cung cấp để thi hành thẩm
quyền của Chính phủ”, không trên cơ sở thương mại và không mang tính cạnh
tranh. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, “dịch vụ pháp lý” chỉ bao gồm các hoạt động tư
vấn pháp luật, đại diện pháp luật và một số hoạt động trợ giúp pháp lý khác
nhưng không bao gồm các dịch vụ “được cung cấp để thi hành thẩm quyền của
Chính phủ”.
c) Phân tích khái niệm “dịch vụ pháp lý” theo pháp luật Việt Nam
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm “dịch vụ pháp lý” lần đầu tiên được
quy định ở Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987, văn bản pháp luật đầu tiên điều
chỉnh hoạt động nghề nghiệp của các luật sư. Điều 13, Pháp lệnh Tổ chức luật
sư năm 1987 quy định:
“ Các hình thức giúp đỡ pháp lý của luật sư bao gồm:
1. Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc
đại diện cho người bị hại và các đương sự khác trong các vụ án hình sự, kể cả
các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự; đại diện cho các bên
đương sự trong các vụ án dân sự, hôn nhân, gia đình và lao động.
2. Làm tư vấn pháp luật cho các tổ chức kinh tế Nhà nứoc, tập thể và tư
nhân, kể cả các tổ chức kinh tế nước ngoài.
3. Làm các dịch vụ pháp lý khác cho công dân và tổ chức”
Như vậy, về tên gọi, hoạt động của luật sư trong Pháp lệnh tổ chức luật sư
năm 1987 được gọi là các hình thức “giúp đỡ pháp lý”, trong đó có “dịch vụ
pháp lý”. Tuy nhiên, về thực chất các hình thức “giúp đỡ pháp lý” ở đây chính
là hoạt động dịch vụ pháp lý theo đúng nghĩa của nó bởi hoạt động của luật sư là
hoạt động được trả công, tức là có tính thương mại. Chiếu theo điều 20 của Pháp
lệnh nói trên:
12
“ Công dân và tổ chức nhờ luật sư giúp đỡ phải trả tiền thù lao. Chế độ trả tiền
thù lao và những trường hợp được miễn, giảm do Quy chế Đoàn luật sư quy

định.”
Có thể thấy Pháp lệnh này điều chỉnh kép cả hoạt động dịch vụ pháp lý có
thu phí và hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí của luật sư mà không có sự tách
bạch nên mới đưa ra khái niệm “các hình thức giúp đỡ pháp lý” của luật sư.
Năm 2001, ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh luật sư số
37/2001/PL-UBTVQH10 (sau đây sẽ gọi là Pháp lệnh luật sư 2001) thay thế
Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987. Ngay ở Điều 1 Pháp lệnh luật sư 2001 đã quy
định về hoạt động dịch vụ pháp lý của luật sư như sau:
“Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của Pháp lệnh này và
tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác
theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp của họ
theo quy định của pháp luật.”
Khoản 1, Điều 14 Pháp lệnh Luật sư 2001 đã quy định cụ thể hơn về
phạm vi hành nghề của luật sư như sau:
“Luật sư hành nghề trong phạm vi sau đây:
a) Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc là
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự;
b) Tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động hoặc
hành chính;
c) Tham gia tố tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp;
d) Tư vấn pháp luật, soạn thảo hợp đồng, đơn từ theo yêu cầu của các nhân,
tổ chức;
đ) Đại diện theo uỷ quyền của cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là
khách hàng) để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật;
e) Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của pháp luật.”
13
Như vậy, có thể thấy so với Pháp lệnh Tổ chức luật sư 1987 thì Pháp lệnh
luật sư 2001 đã quy định cụ thể hơn rất nhiều về các loại hình hoạt động dịch vụ

pháp lý của luật sư, cụ thể là quy định rõ các hoạt động tham gia tố tụng trọng
tài, đại diện theo uỷ quyền và soạn thảo hợp đồng, đơn từ.
Ngoài ra, Pháp lệnh luật sư 2001 cũng đã có sự tách bạch giữa dịch vụ
pháp lý có thu phí của luật sư với hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí bằng quy
định tại Điều 6 như sau:
“Nhà nước và xã hội khuyến khích các luật sư và các tổ chức hành nghề
luật sư tham gia các hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và
người được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.”
Hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí này về hình thức rất giống với hoạt
động dịch vụ pháp lý của luật sư, chỉ có một điểm khác biệt căn bản là không có
thù lao, như vậy, nó không phải là một hoạt động dịch vụ vì không mang bản
chất thương mại. Vậy câu hỏi đặt ra là hoạt động trợ giúp pháp lý này có nên
xếp vào nhóm các hoạt động dịch vụ pháp lý hay không? Pháp luật thương mại
hầu hết các nước cũng như pháp luật thương mại quốc tế không đưa loại hoạt
động miễn phí này vào đối tượng điều chỉnh nên theo cách hiểu chung của quốc
tế thì khái niệm “dịch vụ pháp lý” không bao gồm các hoạt động trợ giúp pháp
lý miễn phí. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình cụ thể, pháp luật Việt Nam dựa trên
quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước là có chính sách ưu đãi với người
nghèo và người có công với cách mạng nên hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí
được quy định trong Pháp lệnh Luật sư 2001 với tính chất là một hoạt động nghề
nghiệp của luật sư, thể hiện trách nhiệm của người luật sư đối với Nhà nước và
xã hội. Tuy nhiên, sự phát triển của pháp luật Việt Nam đã đi đến việc tách vấn
đề trợ giúp pháp lý miễn phí này thành một lĩnh vực riêng và được điều chỉnh
theo Luật trợ giúp pháp lý năm 2005. Vì vậy, theo quan điểm của người nghiên
cứu thì khái niệm “dịch vụ pháp lý” theo pháp luật Việt Nam không còn bao
gồm các hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí được thực hiện bởi các luật sư.
14
Văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh các hoạt động nghề nghiệp của
luật sư là Luật Luật sư số 65/2006/QH11 ban hành ngày 29/6/2006 (sau đây sẽ
gọi là Luật luật sư). Luật Luật sư đã có những quy định rất rõ ràng về khái niệm

dịch vụ pháp lý với tính chất là hoạt động nghề nghiệp của luật sư, cụ thể như
sau:
Điều 2 và Điều 4 Luật Luật sư có quy định:
“Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của
luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”

“Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật,
đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác.”
Các hoạt động dịch vụ pháp lý này được quy định cụ thể hơn ở Chương
III- Hành nghề luật sư, Mục I- Hoạt động hành nghề của luật sư, các Điều 22
(quy định phạm vi hành nghề của luật sư gồm 5 hoạt động: tham gia tố tụng
trong các vụ án hình sự; tham gia tố tụng trong các vụ án, các việc dân sự; tư
vấn pháp luật; đại diện ngoài pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác), Điều 27
(quy định về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư), Điều 28 (quy định về hoạt
động tư vấn pháp luật của luật sư), Điều 29 (hoạt động đại diện ngoài tố tụng
của luật sư), Điều 30 (hoạt động dịch vụ pháp lý khác của luật sư) và Điều 31
(hoạt động trợ giúp pháp lý khác của luật sư).
Tóm lại, khái niệm “dịch vụ pháp lý” theo pháp luật Việt Nam gồm hai
nhóm hoạt động sau:
- Dịch vụ pháp lý có thu phí của luật sư (phù hợp với cách hiểu của Liên
hiệp quốc và WTO)
- Các dịch vụ được cung cấp để thi hành thẩm quyền của Chính phủ
Như vậy, khái niệm này theo pháp luật Việt Nam có nội hàm rộng hơn
theo cách hiểu của Liên hợp quốc và Tổ chức thương mại thế giới.
1.2. Thị trường dịch vụ pháp lý
15
Để hiểu khái niệm “thị trường dịch vụ pháp lý” thì cần làm rõ khái niệm
“thị trường dịch vụ”. Về bản chất, thị trường là nơi diễn ra các quan hệ mua –
bán, trao đổi. Xét theo đối tượng của hành vi mua bán, trao đổi thì thị trường
được phân thành thị trường hàng hoá và thị trường dịch vụ. Bởi hàng hoá mang

tính chất hữu hình nên rất dễ hình dung đối với thị trường hàng hoá: thị trường
của một loại hàng hoá nào đó là nơi diễn ra các quan hệ mua bán, trao đổi loại
hàng hoá đó, hay nói cách khác, tổng hoà các mối quan hệ mua bán tạo thành thị
trườngđối với loại hàng hóa đó (như thị trường gạo, thị trường vải, thị trường xe
máy…). Hoạt động dịch vụ cũng vậy, mối quan hệ thực hiện dịch vụ – trả công
cũng có thể coi như mối quan hệ mua – bán. Thị trường dịch vụ là nơi diễn ra
các quan hệ cung ứng dịch vụ – thanh toán, hay tổng hoà các mối quan hệ cung
ứng dịch vụ – thanh toán đối với một lĩnh vực dịch vụ nhất định hợp thành thị
trường đối với lĩnh vực dịch vụ đó.
Như vậy, “thị trường dịch vụ pháp lý” là sự tổng hoà các mối quan hệ
cung ứng dịch vụ – thanh toán trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý.
Thị trường dịch vụ pháp lý có nhiều cách phân loại như:
- Nếu dựa vào chủ thể cung ứng dịch vụ pháp lý ta có thể phân thành thị
trường dịch vụ pháp lý được cung ứng bởi nhà cung ứng dịch vụ pháp lý
trong nước và thị trường được cung ứng bởi nhà cung ứng dịch vụ pháp lý
nước ngoài.
- Nếu dựa vào đối tượng được cung ứng là dịch vụ pháp lý thì ta có thể
phân thành thị trường dịch vụ tố tụng pháp luật, thị trường dịch vụ tư vấn
pháp luật…
- Nếu dựa vào các lĩnh vực chuyên môn cụ thể cần cung ứng dịch vụ pháp
lý thì có thể phân thành thị trường dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực ngân
hàng, bảo hiểm, đầu tư, xuất nhập khẩu…
2. Đặc điểm của dịch vụ pháp lý và thị trường dịch vụ pháp lý
2.1. Đặc điểm của dịch vụ pháp lý
16
Xét từ góc độ lý luận Nhà nước và pháp luật, dịch vụ pháp lý có một số
đặc điểm quan trọng sau:
- Thứ nhất, dịch vụ pháp lý là một ngành dịch vụ rất nhạy cảm, bởi vì nó
liên quan mật thiết tới một yếu tố rất quan trọng của thượng tầng kiến trúc xã
hội là pháp luật. Như ta đã biết, pháp luật là ý chí của giai cấp cầm quyền được

hợp pháp hóa thông qua việc ban hành hoặc thừa nhận, mà việc cung ứng dịch
vụ pháp lý trong mọi trường hợp đều có liên hệ trực tiếp với việc giải thích pháp
luật, phân tích pháp luật và hướng dẫn thực hiện pháp luật. Cho phép các nhà
cung ứng dịch vụ pháp lý hoạt động có nghĩa là nhà cầm quyền sẽ phải trao
quyền giải thích pháp luật, phân tích pháp luật và hướng dẫn thực hiện pháp luật
vào tay nhà cung ứng dịch vụ. Sẽ ra sao nếu nhà cung ứng dịch vụ pháp lý lại
không có đầy đủ kiến thức pháp luật hoặc cố ý giải thích sai pháp luật? Hậu quả
chắc chắn là rất nghiêm trọng. Vì vậy, hầu hết các nước trên thế giới đều có quy
định rất nghiêm ngặt về điều kiện kinh doanh dịch vụ pháp lý như phải có chứng
chỉ hành nghề, thoả mãn các điều kiện hành nghề, bị giới hạn phạm vi hành
nghề, hình thức hành nghề, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật…
- Thứ hai, dịch vụ pháp lý là một ngành dịch vụ tổng hợp, đòi hỏi kiến thức
sâu rộng về tất cả các lĩnh vực xã hội. Trong một xã hội pháp quyền, tất cả các
hoạt động diễn ra đều phải tuân thủ pháp luật và đều cần tới dịch vụ pháp lý.
Thế nhưng, muốn tư vấn pháp luật về các lĩnh vực chuyên môn thì lại cần phải
có kiến thức chuyên ngành về lĩnh vực đó, như muốn tư vấn về bảo hiểm, ngân
hàng, đầu tư, xuất nhập khẩu… thì đương nhiên nhà cung ứng dịch vụ pháp lý
phải hiểu biết các kiến thức chuyên ngành của bảo hiểm, ngân hàng, đầu tư, xuất
nhập khẩu… Thậm chí, ở nhiều nước phát triển, muốn thi vào trường luật, bắt
buộc anh phải có một bằng đại học trước đó. Quan niệm của các nước này: học
luật là học quản lý xã hội, vì vậy, người học luật bắt buộc phải tích luỹ được vốn
kiến thức xã hội nhất định trước đó.
- Thứ ba, dịch vụ pháp lý là một ngành dịch vụ có tính chi phối xã hội cao
bởi vì pháp luật điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội. Dịch vụ pháp lý liên quan
17
trực tiếp tới mọi mặt của đời sống xã hội, ảnh hưởng tới việc hiểu và tuân thủ
pháp luật của các cá nhân, tổ chức qua đó tác động tới hoạt động quản lý xã hội
của Nhà nước. Xét từ góc độ cá nhân, tổ chức, nếu nhận được sự tư vấn pháp lý
tốt, bạn có thể tránh được các nguy cơ rủi ro, làm ăn thua lỗ, tránh được việc vi
phạm pháp luật…; xét từ góc độ quản lý Nhà nước, chắc chắn Nhà nước cũng

rất mong dịch vụ pháp lý phát triển mạnh vì khi đó, chức năng quản lý xã hội
của Nhà nước sẽ được thực hiện tốt hơn và dễ dàng hơn rất nhiều. Vì vậy, dịch
vụ pháp lý là rất quan trọng đối với mỗi cá nhân cũng như đối với toàn xã hội.
Tóm lại, dịch vụ pháp lý là một loại dịch vụ chiếm vị trí, vai trò rất quan
trọng trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, nhà cung ứng dịch vụ pháp lý cũng cần
phải thoả mãn rất nhiều điều kiện theo quy định của pháp luật.
2.2. Đặc điểm của thị trường dịch vụ pháp lý
Phân tích hai đặc điểm trên của dịch vụ pháp lý ta có thể rút ra một đặc
điểm của thị trường dịch vụ pháp lý đó là tính bị chi phối nghiêm ngặt hay nói
cách khác là chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Tính chất này thể hiện qua
việc Nhà nước quy định những điều kiện, thủ tục rất chặt chẽ đối với nhà cung
ứng dịch vụ pháp lý. Một ví dụ rất cụ thể là những quy định của Nhà nước Việt
Nam trong Luật luật sư 2006. Người cung ứng dịch vụ pháp lý, cụ thể là luật sư
phải tuân thủ các nguyên tắc hành nghề quy định tại Điều 5, phải thoả mãn các
tiêu chuẩn luật sư quy định tại Điều 10, các điều kiện hành nghề luật sư quy
định tại Điều 11 (phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn
luật sư); ngoài ra, Điều 9 quy định các hành vi bị nghiêm cấm, Điều 21 quy định
quyền, nghĩa vụ của luật sư, Điều 22 giới hạn về phạm vi hành nghề của luật sư,
Điều 23 giới hạn về hình thức hành nghề của luật sư và các điều khoản khác
tương tự quy định về tổ chức hành nghề luật sư chính là những điều khoản mang
tính chất giới hạn phạm vi thị trường dịch vụ pháp lý trong khuôn khổ sự quản
lý của Nhà nước.
18
Riêng đối với thị trường dịch vụ pháp lý được cung ứng bởi các nhà cung
ứng dịch vụ pháp lý nước ngoài, đặc điểm này thể hiện ở việc hạn chế mở cửa
thị trường, tức là quy định những điều kiện khắt khe hơn về điều kiện hành
nghề, thủ tục hành nghề, giới hạn hẹp hơn về phạm vi hành nghề, hình thức
hành nghề. Pháp luật Việt Nam cũng có những hạn chế nhất định đối với các
nhà cung ứng dịch vụ pháp lý nước ngoài như không được tư vấn pháp luật Việt
Nam (trừ trường hợp luật sư nước ngoài có bằng cử nhân luật của Việt Nam

hoặc có thuê luật sư Việt Nam), không được tham gia tố tụng với tư cách là
người bào chữa, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trước cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam (trừ trường hợp có thuê luật
sư Việt Nam)…
19
Chương 2. Thực tiễn sự hình thành và
phát triển dịch vụ pháp lý và thị
trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
Để có cái nhìn sâu sắc và toàn diện về sự phát triển của dịch vụ pháp lý
cũng như thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, dựa vào thực tiễn thị trường và
hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh, Luận văn chia quá trình phát triển
này thành 3 giai đoạn cụ thể như sau:
- Giai đoạn thứ nhất là từ năm 1987 trở về trước (trước khi Pháp lệnh tổ
chức luật sư 1987 có hiệu lực);
- Giai đoạn thứ hai là từ năm 1987 đến hết năm 2006 (giai đoạn trước khi
Luật luật sư 2006 có hiệu lực);
- Giai đoạn thứ ba là từ năm 2007 đến nay (giai đoạn Luật luật sư có hiệu
lực).
1. Giai đoạn từ năm 1987 trở về trước
Giai đoạn này lại có thể chia nhỏ làm 2 giai đoạn là giai đoạn trước Cách
mạng tháng 8/1945 (pháp luật do nhà cầm quyền Pháp ban hành) và giai đoạn
sau Cách mạng tháng 8/1945 (pháp luật do Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ban hành)
a) Giai đoạn trước cách mạng tháng 8/1945
ở nước Việt Nam trong thời kỳ phong kiến trước khi bị thực dân Pháp đô
hộ, việc xét xử hoàn toàn do vua quan phong kiến tiến hành, không có khái niệm
luật sư cũng như người bào chữa. Chỉ đến sau khi thực dân Pháp xâm lược,
chiếm đóng và bắt đầu thiết lập nền hành chính trên đất nước Việt Nam, các
hoạt động bào chữa mới bắt đầu ra đời.
20

Cụ thể, ngày 26/11/1867, người Pháp ban hành Nghị định về việc biện hộ
cho người Pháp hoặc người Việt mang quốc tịch Pháp tại Toà án Pháp có hiệu
lực ở Nam Kỳ.
Sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, năm 1884,
Toàn quyền Pháp ký sắc lệnh thành lập Luật sư Đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội
gồm các luật sư người Pháp và người Việt đã nhập quốc tịch Pháp. Các luật sư
chỉ biện hộ trước Toà án Pháp cho người Pháp hoặc người có quốc tịch Pháp.
Tiếp đó, với Sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng
cho người Việt không có quốc tịch Pháp được làm luật sư. Sắc lệnh cuối cùng
của người Pháp về luật sư là Sắc lệnh ngày 25/5/1930 về tổ chức luật sư đoàn ở
Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Sắc lệnh này đã mở rộng cho các luật sư không
chỉ biện hộ trước Toà án Pháp mà cả trước Toà Nam án, được bào chữa cho cả
người không có quốc tịch Pháp.
b) Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8/1945
Cách mạng tháng 8/1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra
đời. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL, Sắc lệnh
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, về tổ chức Đoàn luật sư. Sắc
lệnh này tạm thời giữ nguyên cách thức tổ chức các Đoàn luật sư trong nước
như Sắc lệnh ngày 25/5/1930 của người Pháp nhưng có quy định một số vấn đề
quan trọng, phù hợp với chế độ mới như:
- Các luật sư được bào chữa trước tất cả các Toà án cấp tỉnh trở lên và các
Toà án quân sự;
- Điều kiện làm luật sư là: công dân Việt Nam bất kể nam hay nữ, có bằng
cử nhân luật, có hạnh kiểm tốt, đã tập sự 3 năm ở một văn phòng luật sư.
Tiếp đó, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
thông qua ngày 9/11/1946, Điều 67 quy định:
“Các phiên toà đều xét xử công khai, trừ trường hợp đặc biệt, người bị cáo có
quyền bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”
21
Qua đó có thể thấy, dù còn bộn bề trăm việc, Chính phủ lâm thời nước

Việt Nam dân chủ cộng hoà vẫn rất quan tâm đến quyền được bào chữa của
công dân cũng như hoạt động của các luật sư.
Trong giai đoạn kháng chiến toàn quốc, để khắc phục tình trạng thiếu luật
sư trên toàn quốc, Nhà nước cũng đã ban hành Sắc lệnh số 69/SL ngày
18/6/1949 quy định chế định bào chữa viên cho các bị cáo tại Toà án, sắc lệnh
số 144/SL ngày 22/12/1949 mở rộng cho những người không phải là luật sư
cũng được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các đương sự trong các vụ án dân
sự.
Tiếp đó, trong hai bản Hiến pháp năm 1959 và 1980 cũng đều quy định về
quyền bào chữa của công dân. Hiến pháp năm 1959, Điều 101 quy định:
“Việc xét xử tại các Toà án nhân dân đều công khai, trừ những trường hợp
đặc biệt do Luật định.
Quyền bào chữa của người bị cáo được đảm bảo.”
Trong Hiến pháp năm 1980, quyền này được quy định tại Điều 133 như
sau:
“Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định.
Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm.
Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt
pháp lý.”
Tuy nhiên, cho đến tận năm 1986, ở Việt Nam vẫn chưa có một văn bản
Luật hoặc Pháp lệnh tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các luật sư.
2. Giai đoạn từ năm 1987 đến hết năm 2006
Pháp lệnh Tổ chức luật sư được ban hành ngày 18/12/1987 là văn bản
pháp luật đầu tiên điều chỉnh cụ thể về lĩnh vực hoạt động của các luật sư, tạo ra
một hành lang pháp lý cho hoạt động nghề nghiệp của các luật sư. Dù những
quy định của Pháp lệnh này chưa đầy đủ, cụ thể nhưng vai trò của nó là rất lớn,
làm tiền đề cho những quy định pháp luật cụ thể sau này.
22
Trên cơ sở Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987, ngày 21/2/1989, Hội
đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định về việc ban hành quy chế Đoàn luật sư

và ngày 15/4/1989, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện Quy
chế Đoàn luật sư.
Tuy nhiên, do Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987 không điều chỉnh hoạt động
của các tổ chức luật sư nước ngoài nên ngày 8/7/1995, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 42/CP ban hành Quy chế hành nghề tư vấn pháp luật của tổ chức
luật sư nước ngoài tại Việt Nam và Bộ Tư pháp cũng có ra Thông tư số 791/TT-
LSTVPL ngày 8/9/1995 hướng dẫn thi hành Quy chế hành nghề tư vấn pháp luật
của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam.
Nghị định 42/CP trên sau đó đã được thay thế bằng Nghị định số
92/1998/NĐ-CP ngày 10/11/1998 về hành nghề tư vấn pháp luật của tổ chức
luật sư nước ngoài tại Việt Nam và Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Thông tư số
08/1999/TT-BTP ngày 13/02/1999 hướng dẫn thi hành một số quy định của
Nghị định số 92/1998/NĐ-CP. Tiếp đó, ngày 23/3/2000, Bộ Tư pháp đã ban
hành Thông tư số 02/2000/TT-BTP hướng dẫn thủ tục chấm dứt hoạt động của
Chi nhánh tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam.
Sau hơn 13 năm triển khai thi hành Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987,
nhận thấy những thiếu sót, hạn chế, những quy định đã không còn phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đến ngày 25/7/2001, ủy ban
thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Luật sư số 37/2001/PL-UBTVQH10
thay thế cho Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987. Tiếp đó, ngày 12/12/2001,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
Pháp lệnh Luật sư và ngày 22/01/2002, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số
02/2002/TT-BTP hướng dẫn Nghị định số 94/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành Pháp lệnh Luật sư. Cũng trong thời gian Pháp lệnh Luật sư 2001 có hiệu
lực, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/08/2006 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp và Nghị định số
65/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003 về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật. Về quy
23
chế pháp lý điều chỉnh hoạt động của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam,
ngày 22/7/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 87/2003/NĐ-CP về hành

nghề của tổ chức luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam, thay thế
cho Nghị định số 92/1998/NĐ-CP và Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Thông tư số
06/2003/TT-BTP ngày 29/10/2003 hướng dẫn một số quy định của Nghị định
87/2003/NĐ-CP, thay thế cho Thông tư số 08/1999/TT-BTP.
3. Giai đoạn từ năm 2007 đến nay
Bước ngoặt quan trọng nhất của giai đoạn này là việc Việt Nam chính
thức trở thành thành viên đầy đủ của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ngày
11/01/2007. Như vậy là, sau gần 12 năm đàm phán đầy khó khăn, cuối cùng
Việt Nam đã chính thức được gia nhập sân chơi thương mại chung của toàn cầu.
Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam phải tuân thủ luật chơi, phải điều chỉnh
hệ thống pháp luật cho phù hợp với những quy định của WTO, phải cam kết mở
cửa thị trường dịch vụ, phải chấp nhận các nguyên tắc “đối xử tối huệ quốc”
(Most favoured nations – MFN) và “đối xử quốc gia” (National treatment –
NT), phải dỡ bỏ các rào cản thương mại… Các cam kết của Việt Nam về mở
cửa thị trường dịch vụ pháp lý được ghi nhận trong Biểu cam kết về dịch vụ và
được quy định cụ thể trong Luật Luật sư số 65/2006/QH11 ban hành ngày
29/06/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007. Luật Luật sư 2006
được đánh giá là một văn bản pháp luật quy định đầy đủ, toàn diện, chi tiết về
hoạt động của luật sư, tổ chức luật sư trong nước cũng như luật sư, tổ chức luật
sư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Luật sư 2006 gồm có: Nghị định số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư, Thông tư số
02/2007/TT-BTP ngày 26/02/2007 hướng dẫn một số quy định của Luật Luật
sư, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật
sư. Đến đây, pháp luật Việt Nam đã không còn tách bạch hai sân chơi riêng cho
tổ chức luật sư trong nước và tổ chức luật sư nước ngoài cũng như dỡ bỏ rất
24
nhiều hạn chế khác về tiếp cận thị trường như hình thức hoạt động, phạm vi hoạt
động… đối với các tổ chức luật sư nước ngoài, tạo môi trường bình đẳng, lành
mạnh hơn nhằm thúc đẩy thị trường dịch vụ pháp lý phát triển mạnh trong tương

lai.
Như vậy, nhìn lại tiến trình hình thành và phát triển của các quy định
pháp luật về luật sư của Việt Nam qua 3 giai đoạn trên, ta có thể nhận thấy
một số điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, chế định pháp luật về luật sư được Nhà nước Việt Nam quan
tâm từ rất sớm và đã được ghi nhận ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên
cũng như trong các bản Hiến pháp tiếp sau đó.
- Thứ hai, văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động nghề nghiệp
của luật sư ra đời khá sớm, có tiếp thi kinh nghiệm của các nước tiên
tiến. Tuy vậy, có sự tồn tại một thời gian dài hai quy chế pháp lý dành
cho luật sư, tổ chức luật sư trong nước và tổ chức luật sư nước ngoài.
Thứ ba, Luật luật sư 2006 ra đời đã tạo một hành lang pháp lý thống nhất cho
hoạt động của các luật sư, tổ chức luật sư trong nước cũng như luật sư, tổ
chức luật sư nước ngoài, góp phần thúc đẩy thị trường dịch vụ pháp lý của
Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong một tương lai không xa.
25

×