Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Bài tập tình huống môn Luật đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.38 KB, 6 trang )

Ngày nay, vấn đề tham nhũng đất không còn là một vấn đề hiếm, nó trở thành
một vấn đề nhức nhối vì sự phổ biến của nó. Việc những chính quyền địa phương
lợi dụng quyền lực cũng như sự kém hiểu biết của người dân đã cố ý vi phạm pháp
luật thẩm quyền để hưởng lợi. Để cụ thể điều đó, mời các bạn cùng tôi phân tích
tình huống sau:
Gia đình ông Toán sử dụng mảnh đất ở 290m2 từ năm 2003. Diện tích đất này, gia đình
ông Toán đã đóng thuế sử dụng đất cho nhà nước từ quý 4 năm 2003 đến năm 2006. Tháng 8
năm 2007, gia đình ông Toán bị chính quyền địa phương ra quyết định thu hồi diện tích đất
này. Gia đình ông khiếu nại từ đó đến nay nhưng không nhận được sự trả lời thỏa đáng từ
phía chính quyền địa phương. Họ nói: “ Đây là dự án chung không giải quyết một trường hợp
cá nhân gia đình ông”. Trong khi đó lại tiếp tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
các hộ khác.
Để giải quyết tình huống này chúng ta cùng phân tích các vấn đề sau qua đó
tìm ra cách thức sử lí vụ việc cho thoả đáng.
1. Việc làm của chính quyền địa phương trong vấn đề này
1.1 Việc làm của chính quyền địa phương trong trường hợp này là Sai
Gia đình ông Toán sử dụng mảnh đất ở từ năm 2003, gia đình ông Toán đã đóng
thuế sử dụng đất cho nhà nước từ quý 4 năm 2003 đến năm 2006. Gia đình ông
Toán bị chính quyền địa phương ra quyết định thu hồi diện tích đất này vào tháng 8
năm 2007 và không được giải quyết khiếu nại, việc làm của chính quyền địa phương
là hoàn toàn không đúng.
1.2. Chính quyền địa phương này sai vì
1.2.1 Sai về thẩm quyền quyết định thu hồi
Chính quyền địa phương không thể tự thu hồi đất nếu không có quyết định từ
cấp trên.
Theo quy định tại Điều 44 Luật đất đai 2003:
“1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thu hồi
đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức,
cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi
đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước


ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt
Nam.”
Như vậy, cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân là
UBND cấp huyện. Khi thu hồi đất, cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất phải trực tiếp
ra quyết định và không được ủy quyền. Như vậy, trong trường hợp này chỉ có
1
UBND cấp huyện mới có quyền ra quyết định thu hồi đất nhà ông Toán. UBND xã
chính là đại diện cho chính quyền địa phương và do vậy chính quyền địa phương đã
vi phạm thẩm quyền, và việc thu hồi đất đương nhiên là sai và không có hiệu lực.
Cần chú ý giả sử trong tình huống trên UBND xã là cơ quan cấp GCNQSDĐ cho
các hộ gia đình khác theo dữ kiện đề bài thì cơ quan này cũng vi phạm thẩm quyền về
việc cấp GCNQSDĐ theo quy định tại Điều 52 Luật Đất đai 2003.
1.2.2 Việc chính quyền địa phương không cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông Toán,
trong khi đó lại tiếp tục cấp cho các hộ khác:
Thứ nhất, Lời giải thích của chính quyền:“ Đây là vụ án chung không giải quyết
một trường hợp cá nhân gia đình ông”.
Đối chiếu với các quy định tại Điều 38, Luật đất đai 2003 qui định những
trường hợp thu hồi đất (từ khoản 2 đến khoản 12) ta thấy trường hợp của gia đình
ông Toán không thuộc trường hợp nào cả.
Nếu trường hợp nhà ông Toán rơi vào trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 38
Luật đất đai 2003: “ Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế”; ở đây chính quyền địa phương
cũng đã trả lời ông Toán rằng: “Đây là dự án chung không giải quyết một trường
hợp cá nhân gia đình ông”.
Nếu vậy thì khi chính quyền địa phương thu hồi đất của gia đình ông Toán thì
phải thực hiện đúng trình tự theo Khoản 2 Điều 39 Luật đất đai 2003: “Trước khi
thu hồi đất, chậm nhất là chín mươi ngày đối với đất nông nghiệp và một trăm tám
mươi ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông
báo cho người bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển,
phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư”. Nhưng câu trả

lời ở đây chi là dự án chung chung, không có giấy tờ chứng minh, cũng không thông
báo về phương án bồi thường, tái định cư,....Hơn nữa, việc trả lời này không có văn
bản pháp lý cụ thể. Trong khi đó chính quyền địa phương đó lại tiếp tục cấp
GCNQSDĐ cho các hộ khác, như vậy là vô lý bởi nếu đã là dự án chung thì không
thể chỉ mình gia đình ông Toán bị thu hồi đất.
Thứ hai, Ta sẽ đi tìm hiểu đối với diện tích đất ở 290 m
2
, gia đình ông Toán đã
sử dụng từ năm 2003 có thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình ông hay
không?
Theo đề ra, gia đình ông Toán sử dụng một mảnh đất ở 290 m
2
từ năm 2003.
Diện tích đất này, gia đình ông Toán đã đóng thuế sử dụng đất cho nhà nước từ quý
4 năm 2003 đến năm 2006. Tháng 8 năm 2007, gia đình ông Toán bị chính quyền
địa phương ra quyết định thu hồi diện tích đất này.
2
Gia đình ông Toán sử dụng mảnh đất ở 290m
2
từ năm 2003 và diện tích đất này
gia đình ông đã đóng thuế sử dụng đất cho Nhà nước từ quý 4 năm 2003 đến năm
2006, gia đình ông đã chấp hành nghiêm túc việc đóng thuế sử dụng đất cho Nhà
nước từ quý 4/2003 phù hợp với khoảng thời gian bắt đầu có hiệu lực 1/10/1992 của
Pháp lệnh thuế nhà đất năm 1992.
Đồng thời tại điểm a và điểm e khoản 2 Điều 3 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
ngày 25/5/2007 quy định “Việc xác định thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định
được căn cứ vào ngày tháng năm sử dụng và mục đích sử dụng đất ghi trên một
trong các giấy tờ sau:
a. Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất
e. Giấy tờ về đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở.”

Gia đình ông Toán đã ở trên mảnh đất này từ năm 2003 đến nay, chắc chắn đã
phải đăng kí hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở. Vậy
ông chắc chắn phải có giấy tờ quy định ở điểm e. Hơn nữa, qua những lần nộp thuế
sử dụng đất ông Toán sẽ được phát biên lai nộp thuế nhà đất.
Như vậy hai loại giấy tờ trên được coi là giấy tờ hợp lệ, và là căn cứ xem xét
cho ông Toán được cấp GCNQSDĐ. Từ tất cả những lý do trên ta có thể khẳng định
việc làm của chính quyền địa phương là hoàn toàn trái với quy định của pháp luật.
2. Biện pháp xử lý cụ thể của nhà nước nếu cán bộ xã có hành vi cố
tình sai phạm
2.1 Sai phạm về thu hồi đất
Khoản 1, Điều 172 Nghị định 181/2004/NĐ- CP ngày 29/10/2004 qui định:
a) Không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo quy định tại Điều 39 của
Luật Đất đai; không công khai phương án bồi thường, tái định cư;
b) Thực hiện bồi thường không đúng đối tượng, diện tích, mức bồi thường cho
người có đất bị thu hồi; làm sai lệch hồ sơ thu hồi đất; xác định sai vị trí và diện tích
đất bị thu hồi trên thực địa;
c) Thu hồi đất không đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không đúng với quy
hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt.”
Chính quyền địa phương trên đây đã vị phạm về thẩm quyền thu hồi đất khi
chưa có quyết định từ cấp trên, rõ ràng việc làm sai và phải có biện pháp kỉ luật.
Theo khoản 2 Điều này, hình thức xử lý kỷ luật được quy định như sau:
a) Có hành vi quy định tại điểm a khoản 1 Điều này do thiếu trách nhiệm thì bị
khiển trách, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo, cố ý thì bị hạ bậc lương;
tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch;
3
b) Có hành vi quy định tại điểm b khoản 1 Điều này do thiếu trách nhiệm thì bị
khiển trách hoặc cảnh cáo, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc
lương; cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức, tái phạm do cố ý thì bị cách chức hoặc
buộc thôi việc;
c) Có hành vi quy định tại điểm c khoản 1 Điều này do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh

cáo hoặc hạ bậc lương; tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ ngạch;
cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức; tái phạm do cố ý thì bị buộc thôi việc”.
Thấy rõ, cần phải cảnh cáo chính quyền này với các biện pháp kỉ luật, hạ lương,
hạ chức .. đến các biên pháp buộc thôi việc phạt tiền, cần phải tiến hành nhanh và
quyết định nghiêm minh với các địa phương, cá nhân vi phạm đó.
2.2 Sai phạm về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Khi không công bố hoặc công bố chậm sử dụng đất, kế hoạch sử đụng đất chi
tiết thì theo điểm a, khoản 2, Điều 170 của NĐ 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004
cũng sẽ bị khiển trách; tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo; cố ý thì bị hạ
bậc lương; tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức.
2.3 Vi phạm pháp luật về đất đai
Căn cứ điều 141 Luật đất đai 2003 và khoản 2 Điều 2 NĐ 105/2009/NĐ-CP
ngày 11/1/2009 qui định: “Cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ có hành vi
vi phạm pháp luật về đất đai sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán
bộ, công chức và Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của
Chính phủ về thi hành Luật đất đai; trường hợp hành vi có dấu hiệu cấu thành tội
phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.
Khoản 1, Điều 144 Luật đất đai năm 2003 cũng quy định cụ thể về xử lý trách
nhiệm của thủ trưởng, công chức, viên chức, thuộc cơ quan quản lý đất đai các cấp,
cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn, trong việc vi phạm trình tự thực hiện các thủ
tục hành chính: “1, Tổ chức, cá nhân khi phát hiện công chức, viên chức... thì gửi
kiến nghị đến Chủ tịch UBND cùng cấp.”
Các vi phạm tương tự như thế này, quả thực nay nhiều “như cơm bữa” ở các địa
phương trên cả nước nhất là những vùng ít chịu sự quản lí của các cơ quan cấp cơ
sở, những vùng xa… Cần có những biện pháp xác đáng, cụ thể không để cho các địa
phương khác thừa cơ vi phạm theo.
3, Tư vấn cho ông Toán để ông có thể tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của mình trước pháp luật.
3.1 Chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp
4

Ông Toán cần phải chứng minh mảnh đất ông đang sử dụng là hoàn toàn hợp
pháp. Gia đình ông cần làm hồ sơ gửi lên UBND cấp huyện để xin được cấp
GCNQSDĐ theo trình tự và thủ tục qui định tại Điều 136 NĐ 181/2004/NĐ-CP
ngày 29/10/2004 và Điều 123 Luật đất đai 2003.
3.2 Tố cáo chính quyền địa phương
Việc chính quyền địa phương ra quyết định thu hồi đối với mảnh đất ông Toán
là sai vì vậy theo Khoản 2 Điều 17 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 đã sửa đổi, bổ sung)
và khoản 1 điều 138 luật đất đai 2003 quy định: “Người sử dụng đất có quyền khiếu
nại quyết định hành chính hoặc hành vi vi phạm hành chính về quản lý đất đai”, chịu
trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp các thông tin, tài
liệu đó; mặt khác theo điểm a khoản 1 Điều 162 NĐ 181/2004/NĐ-CP thì quyết
định thu hồi đất thuộc loại quyết định hành chính, nên ông Toán có quyền khiếu nại
đối với quyết định thu hồi đất của chính quyền địa phương.
3.3 Các thủ tục khiếu nại đòi quyền lợi
Ông Toán phải thực hiện việc khiếu nại trong thời hạn là 30 ngày kể từ ngày
nhận được quyết định thu hồi đất (điểm 3 khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai 2003). Do
đối tượng của việc khiếu nại của ông Toán là quyết định thu hồi đất của chính quyền
địa phương nên ông Toán sẽ làm hồ sơ khiếu nại (1 bộ) và gửi trực tiếp lên bộ phận
tiếp dân của UBND xã. Hồ sơ gồm các loại giấy tờ như sau: Đơn khiếu nại; Bản sao
quyết định thu hồi đất của UBND xã; Các loại tài liệu mà ông Toán cho rằng đó là
căn cứ đê ông được quyền sử dụng mảnh đất này do đó sẽ được đền bù khi có quyết
định thu hồi đất; Bản sao hộ khẩu, chứng minh nhân dân của ông Toán (có công
chứng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền); Bản kê khai các loại tài liệu nộp kèm
theo đơn khiếu nại (ghi rõ bản chính, bản sao). Yêu cầu UBND bồi thường thiệt
hại(nếu có). Nộp lệ phí (nếu có)
Sau đó chuyển đơn thư – hồ sơ tố cáo cho Tổ tiếp nhận và trả lại kết quả hồ sơ
(tổ tiếp nhận) tại Phòng Thanh tra tiếp nhận
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, Chủ tịch UBND
huyện thụ lý và giải quyết theo quy định của Luật khiếu nại tố cáo. Quyết định giải
quyết của Chủ tịch UBND huyện phải được công bố công khai và gửi cho ông Toán

người khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (khoản 2 Điều 162 Nghị
định181/2004/NĐ-CP).
Trường hợp ông Toán vẫn không đồng ý với quyết định giải quyết của chủ tịch
UBND huyện, thì trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải
quyết khiếu nại lần đầu, ông Toán có quyền khởi kiện tại TAND hoặc tiếp tục khiếu
nại đến Chủ tịch UBND tỉnh (khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai 2003). Trong trường
5

×