Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

SKKN Văn 9: GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH – TÍCH HỢP TRONG MÔN NGỮ VĂN 9 BẰNG KỸ THUẬT DẠY HỌC CHIA NHÓM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.59 KB, 9 trang )

Đơn vị : Trường THCS Phước Nguyên
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH – TÍCH HỢP
TRONG MÔN NGỮ VĂN 9 - BẰNG KỸ THUẬT DẠY HỌC
CHIA NHÓM
Tên tác giả : Nguyễn Thị Đoan Trang
Nhiệm vụ được phân công : Giảng dạy Ngữ văn 9
A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
1. Cơ sở lý luận
Với đặc trưng của một môn học về khoa học xã hội và nhân văn, bên
cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng tiếng Việt,
năng lực tiếp nhận văn bản văn học và các loại văn bản khác, môn Ngữ văn
còn giúp HS có được những hiểu biết về xã hội, văn hoá, văn học, lịch sử,
đời sống nội tâm của con người.
Với tính chất là một môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp HS có năng
lực ngôn ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con
người.
Với tính chất là môn học giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp HS bồi
dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu
lành mạnh để hoàn thiện nhân cách.
Do đó, Ngữ văn là môn học có những khả năng đặc biệt trong việc giáo
dục các kĩ năng sống ( KNS ) cho HS.
2. Cơ sở thực tiễn
Về phía học sinh
Trang 1
Trong những năm gần đây, hiện tượng học sinh ít thích học văn là khá
phổ biến. Hầu hết số học sinh THCS, khi được hỏi đều cho rằng môn Ngữ
văn là môn học khó ( khó học, khó áp dụng…vào bài kiểm tra, khó đạt
điểm cao…)
Trừ số học sinh khá giỏi (rất ít) thì số học sinh còn lại luôn né tránh, lo
lắng suốt thời gian diễn ra tiết học.


Về phía giáo viên
Một bộ phận giáo viên dạy Ngữ văn hiện nay, khi lên lớp, chỉ tập trung
dạy sao cho
hết giờ, đủ kiến thức theo yêu cầu của chương trình mà quên đi nhiệm vụ
quan trọng
của việc dạy văn, đó là dạy làm người.
“Văn học là nhân học”! Ngoài truyền thụ kiến thức, người thầy cần phải
dạy các em học cách yêu thương, chia sẻ, cách tự đứng lên khi vấp ngã, …
qua từng bài giảng, bằng các phương pháp, kĩ thuật dạy học thích hợp, để
giúp các em có đầy đủ vốn kiến thức cũng như dần hoàn thiện nhân cách
của mình.
Về chương trình học
Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ cung cấp
kiến thức là chủ yếu sang hình thành và phát triển những năng lực cần thiết
ở người học để đáp ứng sự phát triển và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Mục tiêu giáo dục của Việt Nam thể hiện mục tiêu giáo
dục của thế kỉ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và học
để cùng chung sống (Delor, 1996).
Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang đổi mới theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc
Trang 2
điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Nội dung giáo dục kĩ năng sống ( KNS ) đã được tích hợp trong một số
môn học trong trường phổ thông, trong đó có môn Ngữ văn.
Đặc biệt, rèn kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một trong
những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông, giai đoạn 2008 – 2013
do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo.
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu

Mục đích.
Sử dụng Kĩ thuật dạy học chia nhóm – một trong các kĩ thuật dạy học
tích cực, để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm
KNS trong quá trình học tập.
Với cách tiếp cận mới, giờ học Ngữ văn sẽ không còn nặng nề, nhàm
chán mà ngươc lại, còn làm các em hào hứng, nhiệt tình tham gia vào mọi
hoạt động nhằm tiếp thu kiến thức và những kĩ năng sống cần thiết.
Phương pháp nghiên cứu
- PP thực nghiệm
- PP so sánh
- PP thống kê
- PP phỏng vấn, trao đổi.
III. Giới hạn của đề tài
- Rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 9 thông qua những giờ học Ngữ
văn
- Áp dụng nghiên cứu, thực nghiệm tại trường THCS Phước Nguyên.
IV. Kế hoạch thực hiện
- Thời gian : bắt đầu nghiên cứu, thực nghiệm tại trường từ năm học
2011 – 2012
- Đối tượng : học sinh khối lớp 9
- Cộng tác : sự hỗ trợ thực hiện của các giáo viên dạy Ngữ văn 9
- Sơ kết : cuối học kì 1, năm học 2011 – 2012
Trang 3
B. Phần nội dung
I. Thực trạng và những mâu thuẫn
Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển, vì vậy ngoài trau dồi kiến thức,
hoàn thiện nhânn cách, mỗi người cần trang bị cho mình những năng lực
cần thiết, đặc biệt là “năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh càng trở
nên thiết yếu nhằm góp phần đào tạo "con người mới" với đầy đủ các mặt

"đức, trí, thể, mỹ", "nhân, lễ, nghĩa, trí, tín" hay "nhân, nghĩa, trí, dũng,
liêm" Ngạn ngữ có câu "Gieo hành vi, gặt thói quen; gieo thói quen, gặt
tính cách ". Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là rất cần
thiết sao cho các em cảm thấy gần gũi với cuộc sống của bản thân, gia
đình, nhà trường và xã hội, chứ không chỉ trên sách vở hay những lời nói
suông.
Tuy vậy, trong thực tế, số học sinh có lòng say mê học văn, có ý thức
học tập và các kĩ năng sống cần thiết thì chiếm số lượng khá khiêm tốn.
Hầu hết các em luôn cảm thấy nặng nề, nhàm chán mỗi khi đến giờ “giảng
văn”, từ đó trong giờ học các em luôn uể oải, thụ động trong việc hợp tác
với giáo viên và tiếp nhận kiến thức.
Đứng trước thực tế đó, đòi hỏi người giáo viên dạy ngữ văn phải có
nghệ thuật cao hơn, linh họat hơn và nỗ lực trong việc phối hợp vận dụng
phương pháp mới, kỹ thuật dạy học tích cực giúp các em yêu, thích, vui
học nhằm phát huy tối đa năng lực học tập và rèn luyện bản thân để nâng
cao hiệu quả trong giờ học ngữ văn cho phù hợp với tình hình hiện nay.
Một trong số những kĩ thuật dạy học tích cực có ưu thế cao trong việc phát
huy tính tích cực của học sinh và giáo dục kĩ năng sống cho các em đó là
Kĩ thuật dạy học chia nhóm.
II. Các biện pháp giải quyết vấn đề
Để tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm thì có nhiều các chia
nhóm khác nhau mà giáo viên có thể sử dụng để gây hứng thú cho học sinh,
Trang
4
đồng thời tạo cơ hội cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác
nhau trong lớp. Tùy vào nội
dung cụ thể của từng bài học, đối tượng học sinh giáo viên sẽ chọn cách
chia nhóm cho phù hợp như : chia nhóm theo số thứ tự, theo màu sắc; chia
nhóm theo hình ghép; chia nhóm theo sở thích; …
Áp dụng ở một số bài dạy:

1.
Dạy bài Phong cách Hồ Chí Minh – Lê Anh Trà.
- Phương pháp dạy học ( PPDH ) : dạy học theo dự án ( áp dụng có mức
độ )
- Các kĩ năng sống ( KNS ) cơ bản cần giáo dục :
+ Ý thức xác định giá trị bàn thân : từ việc tìm hiểu vẻ đẹp phong cách
Hồ Chí Minh, xác định được mục tiêu phấn đấu theo phong cách Hồ Chí
Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
+ Giao tiếp : trình bày, trao đổi về nội dung của phong cách Hồ Chí
Minh trong văn bản.
+ Hợp tác : cùng chung sức làm việc, hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thành
công việc vì mục đích chung.
- Kĩ thuật dạy học sử dụng : chia nhóm theo sở thích.
+ Chia học sinh ( HS ) thành bốn nhóm có cùng sở thích, hợp sở trường
để các em có thể thực hiện công việc đạt kết quả tốt : nhóm Quay phim,
nhóm Phóng viên, nhóm Tin học, nhóm Tuyên truyền.
+ HS trong nhóm phân công nhau thực hiện nhiệm vụ được giao trong
thời gian qui định, phù hợp với khả năng, sở trường của mỗi người.
+ Hết thời gian, lần lượt các nhóm cử đại diện trình bày nội dung đã
chuẩn bị; cử đại diện hỗ trợ trả lời chất vấn, phản biện.
Trang 5
+ Giáo viên hướng dẫn, dẫn dắt HS thực hiện các công việc; nhận xét,
đánh giá, kết luận vấn đề.
2. Dạy bài Các phương châm hội thoại
- PPDH : dạy học nhóm; đóng vai
- KNS cần có :
+ Ra quyết định: lựa chọn cách vận dụng các phương châm hội thoại
trong giao tiếp của bản thân.
+ Giao tiếp : trình bày suy nghĩ, ý tưởng, trao đổi về đặc điểm, cách giao
tiếp đảm bảo các phương châm hội thoại.

- Kĩ thuật dạy học sử dụng : chia nhóm theo hình ghép
+ Chia học sinh ( HS ) thành các nhóm, mỗi nhóm có 3 hoặc 4 HS. HS
ở mỗi nhóm được tạo thành do bốc thăm ngẫu nhiên những mảnh ghép
của 1 bức tranh/ảnh thể hiện một tình huống giao tiếp.
+ HS trong nhóm phân tích tình huống, cùng nhau thảo luận, tìm hiểu
các phương châm hội thoại cần đảm bảo trong thời gian qui định.
+ Hết thời gian, lần lượt các nhóm đóng vai luyện tập các tình huống
giao tiếp; cử đại diện hỗ trợ trả lời chất vấn, phản biện.
+ Giáo viên hướng dẫn, dẫn dắt HS thực hiện các công việc; nhận xét,
đánh giá, kết luận vấn đề.
3. Dạy bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
- PPDH : dạy học nhóm; đóng vai
- KNS cần có :
+ Suy nghĩ, phê phán, sáng tạo : phân tích, bình luận và đưa ra ý kiến cá
nhân về một số sự việc, hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực trong cuộc
sống.
Trang 6
+ Tự nhận thức được một số sự việc, hiện tượng tích cực/tiêu cực trong
cuộc sống.
+ Ra quyết định: lựa chọn cách thể hiện quan điểm trước những sự kiện,
hiện tược tích cực hoặc tiêu cực, những việc cần làm, cần tránh trong
cuộc sống.
+ Giao tiếp : trình bày suy nghĩ, ý kiến về một sự việc, hiện tượng đáng
khen hoặc đáng phê phán.
- Kĩ thuật dạy học sử dụng : chia nhóm hỗn hợp ( thường là một tổ có
sẵn )
+ Chia học sinh ( HS ) thành 4 nhóm; trong mỗi nhóm đều có đủ các đối
tượng học sinh khác nhau theo tình hình lớp. Mỗi nhóm nhận một đề bài
có sự việc, hiện tượng cần nghị luận
+ HS trong nhóm phân tích đề tài, cùng nhau thảo luận, xây dựng bài

nghị luận về một sự việc, hiện tượng theo các yêu cầu cụ thể trong thời
gian qui định.
+ Hết thời gian, lần lượt các nhóm cử đại diện trình bày nội dung đã
chuẩn bị; cử đại diện hỗ trợ trả lời chất vấn, phản biện.
+ Giáo viên hướng dẫn, dẫn dắt HS thực hiện các công việc; nhận xét,
đánh giá, kết luận vấn đề.

III. Hiệu quả áp dụng
Việc vận dụng các phương pháp/kĩ thuật dạy học tích cực nhằm giáo
dục kĩ năng sống trong các tiết dạy Ngữ Văn giúp học sinh yêu thích môn
học hơn, có tinh thần thi đua; nâng cao tinh thần tự giác, chủ động học tập;
Có khả năng ứng dụng cho tất cả các khối lớp của môn Ngữ Văn. Vì đối
tượng nào cũng cần vui, thích học tập và cần được lắng nghe. Cụ thể là chất
lượng bài kiểm tra cuối học kì I đã đạt 93 %, trong đó tỉ lệ khá, giỏi đạt
62%.
Trang 7
C. Kết luận
1. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác
- Muốn cho các em tiếp thu một tác phẩm hay đúng mục tiêu cần đạt thì
trước hết người giáo viên phải biết cách tạo hứng thú cho các em trong giờ
học. Giáo viên phải là người thiết kế và tạo môi trường cho phương pháp
học tích cực; khuyến khích, ủng hộ, hướng dẫn các họat động của học sinh
còn học sinh họat động là chính, học sinh thực hiện các công tác độc lập/
theo nhóm
- Thường xuyên thực hiện có lựa chọn các phương pháp/ kĩ thuật dạy học
tích cực phù hợp với nội dung, đối tượng để phát huy tính tích cực của học
sinh trong giờ học. Hãy phấn đấu để trong mỗi tiết học bình thường, học
sinh được: “Họat động nhiều hơn; Thực hành nhiều hơn;Thảo luận nhiều
hơn; Suy nghĩ nhiều hơn.”
- Cuối cùng, để có được kết quả giảng dạy như mong muốn, người giáo

viên phải luôn học tập, rèn luyện, nghiên cứu, bản thân không ngừng học
hỏi, nâng cao tay nghề, có tấm lòng với nghề nghiệp, để giúp các em yêu
thích môn học, biết vận dụng cái hay, cái đẹp vào cuộc sống và tự rèn luyện
bản thân để ngày một hoàn thiện hơn. Vì không ai có thể có một kết quả
khác tốt hơn nếu cứ làm mãi mọi việc theo một cách duy nhất.
2. Bài học kinh nghiệm:
- Xây dựng môi trường học thân thiện không phải chỉ xây dựng trường, lớp
cho to đẹp mà quan trọng là xây dựng một mối quan hệ tốt đẹp giữa người
với người.Giáo viên phải học cách lắng nghe ý kiến của học sinh, và phải
biết chấp nhận những ý kiến đối lập… Khi thầy cô gần gũi, tôn trọng HS và
am hiểu tâm sinh lý của HS thì chắc chắn HS sẽ tin tưởng, tâm sự về những
khó khăn của mình. Bảo đảm mọi ý kiến đều được đưa ra xem xét. Lắng
nghe các ý kiến đúng –sai của học sinh về vấn đề đặt ra và khích lệ tinh
thần học tập của các em.
- Trên đây chỉ là một kinh nghiệm của bản thân tôi đúc rút trong quá trình
giảng dạy nhằm mục đích nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong
Trang 8
việc học bộ môn Văn. Đồng thời cũng để các em học sinh không còn cảm
giác chán tiết học văn, sợ bộ môn Ngữ văn. Nếu chúng ta biết phối hợp linh
hoạt, nhịp nhàng các phương pháp, phương tiện giảng dạy cùng với việc trò
chuyện, gần gũi học sinh thì chắc chắn tiết học Văn sẽ rất thành công.
3. Đề xuất
Ngày 10 tháng 3 năm 2012
Người thực hiện
Nguyễn Thị Đoan Trang
Trang 9

×