Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tài liệu dạy địa lí tỉnh Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.46 KB, 19 trang )

Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
Lâm Đồng là tỉnh miền núi phía Nam Tây Nguyên có độ cao trung bình từ 800 - 1.000 m so với mặt nước biển với
diện tích tự nhiên 9.772,19 km
2
; địa hình tương đối phức tạp chủ yếu, là bình sơn nguyên, núi cao đồng thời cũng có
những thung lũng nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau về khí hậu, thổ nhưỡng, thực động
vật và những cảnh quan kỳ thú cho Lâm Đồng.
- Phía đông giáp các tỉnh Khánh Hoà và Ninh Thuận
- Phía tây nam giáp tỉnh Đồng Nai
- Phía nam – đông nam gáp tỉnh Bình Thuận
- Phía bắc giáp tỉnh Đắc Lắc
Lâm Đồng nằm trên 3 cao nguyên và là khu vực đầu nguồn của 7 hệ thống sông lớn; nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam – là khu vực năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và là thị trường có nhiều tiềm năng lớn. Toàn
tỉnh có thể chia thành 3 vùng với 5 thế mạnh: Phát triển cây công nghiệp dài ngày, lâm nghiệp, khoáng sản, du lịch -
dịch vụ và chăn nuôi gia súc.

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH LÂM ĐỒNG
Toàn tỉnh hiện có 12 đơn vị hành chính, bao gồm thành phố Đà Lạt, thị xã Bảo Lộc và 10 huyện:
- Lạc Dương
- Đơn Dương
- Đức Trọng
- Lâm Hà
- Di Linh
- Bảo Lâm
- Đạ Huoai
- Đạ Tẻh
- Cát Tiên
- Đam Rông
với 145 xã, phường, thị trấn; trong đó có 47 xã vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm nằm trong danh sách các xã
đặc biệt khó khăn. Thành phố Đà Lạt là trung tâm hành chính - kinh tế - xã hội của tỉnh, cách các trung tâm kinh tế lớn
của vùng và khu vực không xa, hướng nam cách thành phố Hồ Chí Minh 300Km, Biên Hòa 270Km, Vũng Tàu 340Km,


hướng đông cách cảng biển Nha Trang 210Km.
ĐỊA HÌNH
Đặc điểm chung của Lâm Đồng là địa hình cao nguyên tương đối phức tạp, chủ yếu là bình sơn nguyên, núi cao
đồng thời cũng có những thung lũng nhỏ bằng phẳng đã tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau về khí hậu, thổ
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
nhưỡng, thực động vật và những cảnh quan kỳ thú cho Lâm Đồng.
Đặc điểm nổi bật của địa hình tỉnh Lâm Đồng là sự phân bậc khá rõ ràng từ bắc xuống nam.
- Phía bắc tỉnh là vùng núi cao, vùng cao nguyên Lang Bian với những đỉnh cao từ 1.300m đến hơn 2.000m như Bi
Đúp (2.287m), Lang Bian (2.167m).
- Phía đông và tây có dạng địa hình núi thấp (độ cao 500 – 1.000m).
- Phía nam là vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc và bán bình nguyên.
ĐỊA CHẤT
Tham gia vào cấu trúc địa chất tỉnh Lâm Đồng bao gồm các đá trầm tích, phun trào, xâm nhập có tuổi từ Jura giữa
đến Đệ Tứ. Các trầm tích, phun trào được phân ra 14 phân vị địa tầng có tuổi và thành phần đá khác nhau. Các đá xâm
nhập trong phạm vi tỉnh Lâm Đồng thuộc 4 phức hệ: Định Quán, đèo Cả, Cà Ná, Cù Mông.
Địa phận tỉnh Lâm Đồng nằm ở phía đông nam đới Đà Lạt. Đới này là một khối vỏ lục địa Tiền Cambri bị sụt lún trong
Jura sớm – giữa và phần lớn diện tích đới bị hoạt hoá magma kiến tạo mạnh mẽ trong Mesozoi muộn và Kainozoi
KHOÁNG SẢN
Khoáng sản trong phạm vi tỉnh Lâm Đồng thuộc thời đại sinh khoáng Mesozoi muộn – Kainozoi sớm và thời đại sinh
khoáng Kainozoi.
Theo kết quả điều tra thăm dò, Lâm Đồng có 25 loại khoáng sản, trong đó bauxite, bentonite, cao lanh, đá Granít,
thiếc, diatomite và than bùn trữ lượng lớn, có khả năng khai thác ở quy mô công nghiệp.
Quặng bauxite ở Lâm Đồng có trữ lượng khoảng 1.234 triệu tấn, chất lượng quặng khá tốt, điều kiện khai thác và vận
chuyển khá dễ dàng.
Cao lanh có trữ lượng khoảng 520 triệu tấn, chất lượng tốt. Loại cao lanh này có khả năng sử dụng làm sứ điện tử, sứ
bền nhiệt cơ, sứ dân dụng cao cấp, gạch samot chịu lửa, chất độn cho công nghiệp chế biến giấy, sản xuất sunfat
alumin,
Sét bentonite có trữ lượng trên 4 triệu tấn, chất lượng rất tốt, sau khi được hoạt hóa với soda để chuyển sang
bentonit kiềm có thể sử dụng trong kỹ nghệ làm khuôn đúc, chất tẩy rửa trong công nghiệp dầu mỡ, công nghiệp thực

phẩm, chất phụ gia trong sản xuất phân bón tổng hợp, sản xuất dung dịch bùn khoan dầu khí và khoan cọc nhồi theo tiêu
chuẩn của Mỹ và châu Âu.
Than nâu và diatomite được phát hiện tại nhiều điểm, nhưng mỏ Đại Lào (Bảo Lộc) là có khả năng khai thác công
nghiệp với trữ lượng 8,5 triệu m
3
, có thể sử dụng làm chất đốt, chất cách nhiệt, phụ gia trong sản xuất phân bón hoặc phụ
gia sản xuất xi măng.
Liên đoàn địa chất 6 đã tổng hợp được 165 điểm khoáng sản, trong đó có 23 mỏ lớn, 3 mỏ vừa, 48 mỏ nhỏ và 91 điểm
quặng. Các mỏ và điểm quặng được chia ra thành 7 nhóm

 Than: than nâu, than bùn
 Kim loại: sắt, wolfram, chì – kẽm, antimoan, nhôm, thiếc, vàng
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng

Phi kim loại: cao lanh, felspat, bentonit, diatomit
 Vật liệu xây dựng: cát, đá, sét
 Đá quý và bán quý: saphyr, topa và thạch anh tinh thể, opan, tectit
 Dị thường phóng xạ
 Nước khoáng
Lâm Đồng có diện tích đất 977.219,6 ha, chiếm 98% diện tích tự nhiên, bao gồm 8 nhóm đất và 45 đơn vị đất:
Nhóm đất phù sa (fluvisols)
Nhóm đất glây (gleysols)
Nhóm đất mới biến đổi (cambisols)
Nhóm đất đen (luvisols)
Nhóm đất đỏ bazan (ferralsols)
Nhóm đất xám (acrisols)
Nhóm đất mùn alit trên núi cao (alisols)
Nhóm đất xói mòn mạnh (leptosols)
Đất có độ dốc dưới 25

o
chiếm trên 50%, đất dốc trên 25
o
chiếm gần 50%. Chất lượng đất đai của Lâm Đồng rất tốt,
khá màu mỡ, toàn tỉnh có khoảng 255.400 ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp, trong đó có 200.000 ha đất bazan
tập trung ở cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh thích hợp cho việc trồng cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao như cà
phê, chè, dâu tằm. Diện tích trồng chè và cà phê khoảng 145.000 ha, tập trung chủ yếu ở Bảo Lâm, Bảo Lộc, Di Linh,
Lâm Hà; diện tích trồng rau, hoa khoảng 23.800 ha tập trung tại Đà Lạt, Đơn Dương, Đức Trọng; chè, cà phê, rau, hoa ở
Lâm Đồng đa dạng về chủng loại, có những loại giá trị phẩm cấp cao. Đất có khả năng nông nghiệp còn lại tuy diện tích
khá lớn nhưng nằm rải rác xa các khu dân cư, khả năng khai thác thấp vì bị úng ngập hoặc bị khô hạn, tầng đất mỏng có
đá lộ đầu hoặc kết vón, độ màu mỡ thấp, hệ số sử dụng không cao Trong diện tích đất lâm nghiệp, đất có rừng chiếm
60%, còn lại là đất trồng đồi trọc (khoảng 40%).
Khi1 hau
Lâm Đồng nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa biến thiên theo độ cao, trong năm có 2
mùa rõ rệt; mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ thay đổi rõ rệt giữa các khu vực, càng lên cao nhiệt độ càng giảm. Nhiệt độ trung bình năm của tỉnh dao động
từ 18 – 25
0
C, thời tiết ôn hòa và mát mẻ quanh năm, thường ít có những biến động lớn trong chu kỳ năm
Lượng mưa trung bình 1.750 – 3.150 mm/năm, độ ẩm tương đối trung bình cả năm 85 – 87%, số giờ nắng trung bình
cả năm 1.890 – 2.500 giờ, thuận lợi cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng và phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có nguồn
gốc ôn đới. Đặc biệt Lâm Đồng có khí hậu ôn đới ngay trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình và nằm không xa các trung
tâm đô thị lớn và vùng đồng bằng đông dân.
THUY VAN
Lâm Đồng là tỉnh nằm trong hệ thống sông Đồng Nai, có nguồn nước rất phong phú, mạng lưới suối khá dày đặc, tiềm
năng thuỷ điện rất lớn, với 73 hồ chứa nước, 92 đập dâng.
Sông suối trên địa bàn Lâm Đồng phân bố khá đồng đều, mật độ trung bình 0,6km/km
2
với độ dốc đáy nhỏ hơn 1%.
Phần lớn sông suối chảy từ hướng đông bắc xuống tây nam.

Do đặc điểm địa hình đồi núi và chia cắt mà hầu hết các sông suối ở đây đều có lưu vực khá nhỏ và có nhiều ghềnh
thác ở thượng nguồn.
Các sông lớn của tỉnh thuộc hệ thống sông Đồng Nai.
Ba sông chính ở Lâm Đồng là:
 Sông Đa Dâng (Đạ Đờng)
 Sông La Ngà
 Sông Đa Nhim
Hệ thống cung cấp nước
Hệ thống cấp nước đã hoàn thiện tương đối tốt, hiện có: nhà máy cấp nước Đà Lạt, công suất 35.000 m
3
/ngày-đêm hệ
thống cấp nước thị xã Bảo Lộc, công suất 10.000 m
3
/ngày-đêm; hệ thống cấp nước huyện Đức Trọng, công suất 2.500
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
m
3
/ngày-đêm; hệ thống cấp nước huyện Di Linh, công suất 3.500 m
3
/ngày-đêm; hệ thống cấp nước huyện Lâm Hà, công
suất 6.000 m
3
/ngày-đêm. Đồng thời với việc cấp nước, hệ thống xử lý nước thải công nghiệp và sinh hoạt đang được
hoàn thiện.
DA TOC DAN CU
Dân số toàn tỉnh có đến 31/12/2005 là 1.169.851 người, trong đó dân số nông thôn 649.412 người, chiếm 61,47%. Mật
độ dân số 118 người/km
2
Lâm Đồng là miền đất hội tụ nhiều dân tộc anh, em trong cả nước với trên 40 dân tộc khác nhau cư trú và sinh sống,

trong đó đông nhất người Kinh chiếm khoảng 77%, đến nguời K’Ho chiếm 12%, Mạ chiếm 2,5%, Nùng chiếm gần 2%,
Tày chiếm 2%, Hoa chiếm 1,5%, Chu-ru 1,5% , còn lại các dân tộc khác có tỷ lệ dưới 1% sống thưa thớt ở các vùng xa,
vùng sâu trong tỉnh.
Lễ hội, rượu cần và dệt thổ cẩm là nét đặc trưng cho văn hóa dân tộc thiểu số tại Lâm Đồng.
Lâm Đồng là vùng đất mới có sức thu hút dân cư trong cả nước đến lập nghiệp, quần thể dân cư ở đây chưa ổn định
và liên tục biến động, hiện tượng di dân tự do trong những năm qua từ các tỉnh khác nhau trong cả nước hội tụ về Lâm
Đồng tuy có giảm nhưng vẫn còn lớn, bình quân hàng năm thời kỳ 2001-2005 có khoảng 5.000 người di cư tự do vào
Lâm Đồng.
NONG NGHIEP
Với chủ trưởng phát triển nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
đưa nhanh các tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất, đặc biệt là các giống mới, công nghệ sau thu hoạch và
công nghệ chế biến, tập trung thâm canh, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, đáp
ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Phát triển và ổn định vùng nguyên liệu các loại cây công nghiệp dài
ngày với trình độ thâm canh ngày càng cao, đồng thời chú trọng các loại cây lương thực, thực thẩm gắn với đẩy mạnh
đầu tư thâm canh để không ngừng tăng năng suất, sản lượng cây trồng; phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo
hướng sản xuất hàng hóa gắn với công nghiệp chế biến nhằm nâng cao chất lượng cà gía trị sản phẩm chăn nuôi. Hiện
nay, trong phát triển kinh tế của tỉnh, nông nghiệp là một trong những ngành đạt được thành tựu lớn trong những năm đổi
mới kinh tế nói chung và 5 năm 2001-2005 nói riêng.
Thời kỳ 5 năm 2001-2005, tuy gặp nhiều khó khăn về thiên tai hạn hán, lũ lụt và dịch cúm gia cầm bùng phát năm
2004, 2005; biến động bất lợi của thị trường tiêu thụ chè do ảnh hưởng của chiến tranh Irắq; giá một số sản phẩm nông
sản, nhất là giá cà phê có những năm thấp hơn giá trị sản phẩm, cùng với giá vật tư phân bón liên tục tăng gây ảnh
hưởng không nhỏ đến sản xuất. Nhưng được sự quan tâm của các cấp, các ngành, nhiều chính sách đã được ban hành,
nhiều dự án được triển khai thực hiện nên sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh đạt được một số kết quả nhất định:
Giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân mỗi năm thời kỳ 2001-2005, tăng 7,53%. Đây là tốc độ tăng khá cao vì sản xuất
nông nghiệp có đối tượng là cây trồng, vật nuôi, phụ thuộc vào đất đai nên việc mở rộng quy mô diện tích là có giới hạn,
mặt khác lại phụ thuộc lớn vào yếu tố thời tiết, khí hậu, giá cả, thị trường nên khó có bước phát triển đột biến được. Trên
cơ sở phát huy thế mạnh cây công nghiệp dài ngày, đã hình thành những vùng chuyên canh tương đối tập trung về cây
công nghiệp như cà phê, chè, vùng rau, hoa với quy mô lớn và chất lượng ngày càng được nâng lên làm cơ sở cho phát
triển công nghiệp chế biến. Ngành nông nghiệp có mức tăng giá trị tăng thêm hàng năm 7,88%, đóng góp từ 60-69%
GDP (giá SS 1994), là ngành thu hút lực lượng lao động khá lớn khoảng 63%. Sản xuất nông nghiệp trong những năm

qua đã chú trọng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để tăng năng suất, chất lượng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng có
năng suất, chất lượng cao phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của từng vùng. Hiệu quả sản xuất trên đơn vị diện
tích không ngừng tăng lên, qua kết qủa sơ kết chương trình 50 triệu đồng/ha/năm do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn phát động, tính đến nay toàn tỉnh có trên 8.000 ha canh tác đạt doanh thu trên 50 triệu đồng/ha/năm. Thông qua đầu
tư thâm canh, ứng dụng kỹ thuật công nghệ sinh học vào sản xuất đã nâng cao giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích:
vùng chuyên canh rau-hoa-dâu tây ở Đà Lạt-Lạc Dương có trên 100 mô hình trồng rau, hoa, dâu tây đạt doanh thu từ 50
triệu đồng trở lên, trong đó có trên 50% đạt doanh thu từ 150-480 triệu đồng/ha/năm; vùng chuyên canh chè chất lượng
cao, tập trung ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện có 500 ha chè đạt doanh thu từ 150-180 triệu đồng/ha,
cá biệt có doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 2-3 tỷ đồng/ha/năm. Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng chuyên môn
hoá cây trồng, vật nuôi gắn với phát triển tổng hợp các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nhằm khai thác hiệu
quả tiềm năng về đất đai, vốn, lao động và kinh nghiệm sản xuất. Đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất mới và có hiệu
quả kinh tế-xã hội trong nông nghiệp như kinh tế trang trại, kinh tế vườn rừng, vườn đồi, nông - lâm kết hợp với nhiều
thành phần tham gia, kể cả đồng bào dân tộc. Tổng số trang trại trên địa bàn tỉnh tăng mạnh trong thời kỳ 2001-2005, từ
716 trang trại năm 2000 tăng lên 1.978 trang trại năm 2005, gấp 2,76 lần so năm 2000. Đến năm 2005, các trang trại đã
sử dụng tổng số vốn 455.128 triệu đồng và 8.389 ha đất để sản xuất kinh doanh tạo ra 392.339 triệu đồng giá trị sản
lượng hàng hoá và dịch vụ. Thu nhập bình quân một trang trại trong năm 2005 đạt trên 148 tỷ đồng, gấp 3,47 lần so năm
2000, bình quân hàng năm thời kỳ 2001-2005 thu nhập một trang trại tăng 28,27%.
* Trồng trọt:
Quy mô diện tích gieo trồng đối với cây hàng năm xu hướng tăng lên qua các năm do điều chỉnh cơ cấu mùa vụ, đẩy
mạnh khai hoang, phục hóa trên diện tích có khả năng nông nghiệp chưa sử dụng và tăng vụ, trồng xen, trồng gối. Đến
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
năm 2005, diện tích gieo trồng cây hàng năm đạt 97.134 ha, tăng 19.550 ha so năm 2000, quy mô diện tích cây hàng
năm tăng liên tục trong 5 năm với mức tăng bình quân mỗi năm 4,6%. Diện tích cây thực phẩm tăng nhanh từ 21.816 ha
năm 2000, tăng lên 32.719 ha năm 2005, bình quân hàng năm tăng 8,4%; trong đó cây rau các loại và cây hoa tăng
nhanh, diện tích rau từ 18.879 ha năm 2000 tăng lên 29.378 ha ( tăng 10.499 ha) và cây hoa từ 962 ha năm 2000 tăng
lên 2.270 ha (tăng 1.308 ha). Riêng diện tích gieo trồng cây lương thực ổn định ở mức 50.000 đến 51.000 ha trong 5 năm
.
Đối với cây lâu năm, khác với thời kỳ 1996-2000, diện tích gieo trồng luôn luôn biến động theo chiều hướng ngày càng
tăng do hiệu qủa sản xuất cao và giá trị mang lại lớn như cây cà phê, chè, điều Nhưng thời kỳ 2001-2005, thực hiện

chủ trương của Chính phủ điều chỉnh kịp thời các chỉ tiêu định lượng đến năm 2010, theo đó không mở rộng diện tích những cây
trồng kém hiệu quả do cung đã vượt cầu như cà phê, hạt tiêu… đồng thời thực hiện chủ trương của tỉnh tập trung thâm canh các
cây trồng dài ngày hiện có trên địa bàn tỉnh nên diện tích gieo trồng cây lâu năm tương đối ổn định ở mức 165 đến 170 ngàn ha.
Tổng diện tích gieo trồng cây lâu năm năm 2005 đạt 171.254 ha, tăng 7.093 ha, chủ yếu do tăng diện tích cây ăn qủa còn
diện tích cây công nghiệp dài ngày tăng không đáng kể (2005 tăng 47 ha so 2000). Sự biến động diện tích gieo trồng một
số loại cây công nghiệp dài ngày như sau:
- Cây cà phê phát triển chậm lại và xu hướng giảm dần do giá cà phê không ổn định, đặc biệt năm 2001, 2002 giá cà
phê chỉ còn 6-8 ngàn đồng/kg, thấp hơn chi phí đầu tư. Diện tích từ 124.359 ha năm 2000, xuống còn 117.538 ha năm
2005, giảm 6.821 ha.
- Diện tích cây chè tăng chậm và ổn định trong những năm gần đây. Năm 2000 diện tích 21.616 ha, đến năm 2005
diện tích đạt 25.535 ha, tăng 3.919 ha.
- Cây dâu tằm, cây điều diện tích xu hướng tăng lên do giá cả ổn định ở mức cao có lợi cho người sản xuất. Năm
2005, diện tích dâu tằm tăng 2.743 ha và diện tích điều tăng 2.764 ha so năm 2000.
Diện tích gieo trồng qua các năm :

2001 2002 2003 2004 2005
Tổng diện tích ( ha)
248.620 254.366 259.019 262.243 268.388
1 . Cây hàng năm
81.557 88.681 91.723 93.884 97.134
Trong đó:

- Cây lương thực
50.166 54.572 56.392 56.421 56.923
- Cây thực phẩm
25.159 27.611 29.535 30.778 32.719
2 . Cây lâu năm
167.063 165.685 167.296 168.359 171.254
Cùng với việc ổn định, tăng diện tích cây trồng, sản lượng các loại cây trồng chủ yếu trong thời kỳ 2001-2005, cũng
tăng lên cả về số lượng chủng loại cũng như chất lượng sản phẩm. Cụ thể sản lượng một số cây trồng chủ yếu như

sau :
Sản lượng lương thực: Do tác động của khoa học kỹ thuật như giống cây trồng, đầu tư thâm canh, điều hoà nước tưới
tiêu, phòng trừ dịch bệnh nên năng suất cây lương thực nhất là cây lúa tăng lên rõ rệt. Năng suất lúa toàn tỉnh từ 31,07
tạ/ha năm 2000, tăng lên 39,21 tạ/ha năm 2004 và 38,37 tạ/ha ước năm 2005. Sản lượng lương thực có hạt tiếp tục tăng
một cách ổn định chủ yếu do tăng năng suất cây trồng và đưa các giống mới vào sản xuất đại trà; tỷ lệ giống lúa mới và
lúa cao sản hàng năm chiếm trên 50% diện tích và giống ngô lai chiếm khoảng 90% diện tích gieo trồng. Sản lượng
lương thực có hạt năm 2005 đạt 215.877 tấn, tăng 38,33% so năm 2000, bình quân mỗi năm thời kỳ 2001-2005 tăng
6,7%; trong đó sản lượng lúa tăng từ 102.055 tấn năm 2000 lên 129.721 tấn, tăng bình quân 4,9%/năm và sản lượng
ngô từ 54.005 tấn năm 2000 tăng lên 86.156 tấn năm 2005, tăng bình quân 9,8% hàng năm. Sản lượng lương thực tăng,
đã khắc phục được tình trạng thiếu ăn trong dân cư, khắc phục dần tình trạng đói giáp hạt, ổn định đời sống xã hội .
Sản lượng các loại nông sản hàng hóa tiếp tục tăng, nhất là các loại cây có giá trị kinh tế như cây cà phê, chè và cây
rau và hoa. Sản lượng cà phê năm 2005 ước đạt 211.804 tấn, tăng trên 26,6% so năm 2000, bình quân hàng năm tăng
4,8%; tuy nhiên mức tăng không ổn định qua các năm do sản lượng cà phê chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết, giá cả;
cá biệt năm 2002 sản lượng cà phê giảm gần 38% so năm 2001 (giảm 67.576 tấn) do hạn hán.
Cây chè, tuy diện tích tăng chậm nhưng tương đối ổn định trong những năm gần đây, song sản lượng tăng bình quân
hàng năm đạt 5,3%, từ 125.7179 tấn năm 2000, lên 161.938 tấn năm 2005.
Ngoài 2 loại cây có quy mô lớn như cà phê, chè, một số cây trồng có giá trị kinh tế cao đang tiếp tục ổn định và phát
triển như dâu tằm, điều, hồ tiêu. Sản lượng dâu tằm năm 2005 đạt 48.964 tấn, gấp hơn 2 lần so năm 2000, bình quân
hàng năm tăng 15,22%; sản lượng điều năm 2005 đạt 4.833 tấn, gấp 4,9 lần so năm 2000, bình quân hàng năm tăng
37,3%.
Sản lượng cây rau: giá cả một số chủng loại rau, nhất là các loại rau thương phẩm trong những năm gần đây ổn định
và tăng cao nên cây rau có xu hướng phát triển mạnh cả về quy mô diện tích cũng như sản lượng với những chủng loại
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
mang tính phát huy lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng như : Sú, lơ, cải thảo, cà rốt, khoai tây, sà lách, cà chua Đến năm
2005, diện tích rau đạt 29.378 ha, tăng 55,61% so năm 2000, sản lượng rau thương phẩm tăng nhanh, đạt 748.111 tấn
năm 2005, tăng bình quân hàng năm thời kỳ 2001-2005 là 11,59%. Ngoài các giống rau truyền thống, đã đưa vào nhiều
chủng loại rau cao cấp, có giá trị kinh tế cao nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; sản lượng rau an
toàn ngày càng tăng để cung cấp cho một số thị trường cao cấp ổn định ở trong nước.
* Chăn nuôi:

Song song với trồng trọt, chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm cũng giữ mức ổn định, một số loại tăng mạnh và chiếm vị trí
quan trọng trong sản xuất nông nghiệp như đàn bò sữa, đàn heo. Trong chăn nuôi, đàn trâu tăng chậm do diện tích chăn
thả bị thu hẹp và việc thay thế dần sức kéo bằng máy móc cơ giới. Theo kết qủa điều tra 1/10 hàng năm, đàn trâu năm
2005 có 17.756 con, tăng 245 con so năm 2000.
Đàn bò tăng mạnh từ 57.402 con năm 2000 tăng lên 93.012 con năm 2005, bình quân mỗi năm tăng 10,13% . Việc cơ
giới hoá trong nông nghiệp cũng làm giảm bò cày kéo, nhưng nuôi bò lấy thịt và bò lấy sữa phát triển mạnh trong những
năm gần đây để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Đàn bò sữa trong 2 năm gần đây tăng mạnh do thực hiện chủ
trương phát triển bò sữa bằng các chương trình hỗ trợ nông dân mua con giống, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm thông qua thoả
thuận với Công ty sữa Việt Nam để ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm sữa tươi cho nông dân với giá từ 2.500 đồng/lít.
Đến năm 2005, đàn bò sữa có 3.260 con, tăng 57% so năm 2004.
Đàn heo phát triển ổn định, tăng đều qua các năm thời kỳ 2001-2005 do tình hình giá cả heo hơi trong các năm qua
tương đối cao, trong lúc nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm từ gia cầm giảm do dịch cúm gia cầm bùng phát nên nông dân
chú trọng đầu tư chăn nuôi heo; mặt khác các mô hình kinh tế trang trại ngày càng phát triển góp phần thúc đẩy sản xuất
trong đó có chăn nuôi. Đàn heo phát triển theo hướng heo siêu nạc, giống heo tốt có tỷ lệ nạc cao chiếm từ 30-40% trên
tổng đàn. Tổng đàn heo năm 2005 ước đạt 339.855 con tăng 70,77% với 140.837 con so năm 2000, tốc độ tăng bình
quân trong 5 năm đạt 11,3%.
Đàn gia súc, gia cầm trong 3 năm đầu thời kỳ 2001-2005 phát triển mạnh từ 1.569 ngàn con tăng lên 2.949 ngàn con
năm 2003. Song trong 2 năm 2004, 2005 do xảy ra dịch cúm gia cầm H
5
N
1
ở nhiều nước trên thế giới và nhiều tỉnh trong
nước; tuy Lâm Đồng là địa phương chỉ xảy ra dịch cúm gia cầm cục bộ ở một số địa bàn nhưng do tâm lý tiêu dùng nên
các sản phẩm từ gia cầm tiêu thụ chậm, thậm chí có thời điểm không tiêu thụ được ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và
đời sống các hộ chăn nuôi gia cầm, vì vậy tổng đàn gia cầm giảm mạnh so năm 2003. Đến năm 2005, đàn gia cầm còn
1.819,8 ngàn con, giảm 1.129,2 ngàn con so năm 2003, giảm 110,6 ngàn con so năm 2004.
* Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp:
Thực hiện chủ trương của UBND tỉnh về định hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi giai đoạn 2002-2005. Trong
4 năm qua cơ cấu cây trồng từng bước được chuyển đổi, trên cơ sở khai thác sử dụng hợp lý quỹ đất hiện có, thông qua
phân tích đặc điểm đất đai, khí hậu, thời tiết vùng sinh thái để xác định cây trồng vật nuôi thích hợp cho từng vùng, lập

quy hoạch phát triển tập trung, chuyên môn hóa sản xuất. Theo hướng đó, trong thời gian qua, quy hoạch sản xuất nông
nghiệp được hình thành tương đối đồng bộ, phù hợp với đặc điểm tự nhiên từng địa phương trong tỉnh. Đến nay tỉnh đã
xác định nhóm cây trồng chủ yếu và hình thành các vùng cây công nghiệp, cây lương thực và cây thực phẩm. Đối với cây
hàng năm, điều chỉnh chuyển dần một số diện tích cây lương thực năng suất thấp sang cây thực phẩm và cây công
nghiệp ngắn ngày. Đối với cây lâu năm, ưu tiên phát triển cây công nghiệp dài ngày như cà phê, chè, điều. dâu tằm trên
cơ sở ổn định diện tích hiện có các loại cây để đầu tư thâm canh kết hợp khai thác diện tích đất trống, vùng gò đồi trồng
cây lâu năm, xây dựng các vùng chuyên canh cây công nghiệp tập trung chủ yếu.
Từ năm 2002-2004, tổng diện tích chuyển đổi cơ cấu cây trồng là 18.244 ha, trong đó chuyển diện tích cà phê là
11.849 ha, chuyển một số cây trồng khác kém hiệu qủa là 6.395 ha sang trồng chè, điều, rau hoa, cây ăn quả, hỗ trợ mua
bò đực giống Zê bu là 100 con. Tổng vốn nhà nước đầu tư cho chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi là 23.097
triệu đồng. Riêng năm 2005 kế hoạch hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi là 6.408 triệu đồng, gồm hỗ trợ chuyển
đổi giống chè 105 ha, giống cà phê 110 ha, giống dâu tây 1 ha, giống dâu tằm 105 ha, giống điều ghép 160 ha, giống cây
ăn qủa 150 triệu đồng, giống lúa cao sản 40 tấn, giống cây bơ ghép 2000 cây, giống cá tôm 167 triệu trứng giống tằm 500
hộp, bò đực lai sind, Zê bu 70 con, nhập cây giống mới 174 triệu đồng. Trợ giá thuộc chương trình hàng chính sách miền
núi 2.908 triệu đồng, hỗ trợ chương trình thuỷ sản chăn nuôi 1.000 triệu đồng. Đến nay, hầu hết các chương trình đã
hoàn thành khâu thủ tục về hồ sơ thiết kế dự toán, đã và đang triển khai thực hiện.
Tỷ trọng cơ cấu cây trồng qua các năm như sau :

2001 2002 2003 2004 2005
Cơ cấu ( %) 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
1 . Cây hàng năm 32,80 34,86 35,41 35,80 36,19
Tỷ trọng chiếm trong cây

Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
Hàng năm:

- Cây lương thực 61,51 61,54 61,48 60,10 58,52
- Cây thực phẩm 30,85 31,14 32,20 32,78 33,76
2 . Cây lâu năm 67,20 65,14 64,59 64,20 63,81

Trong 5 năm 2001-2005, cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng ổn định, đầu tư thâm canh diện tích cây lâu năm và
tăng diện tích cây hàng năm. Tỷ trọng diện tích cây lâu năm từ 67,2% năm 2001, giảm xuống từ 65,14% năm 2002,
64,59% năm 2003, 64,2% năm 2004 xuống còn 63,81% năm 2005; tỷ trọng cây hàng năm tăng từ 32,8% năm 2001, lên
36,19% năm 2005. Trong cây hàng năm, cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng diện tích cây thực phẩm
và giảm tỷ trọng diện tích cây lương thực.
Đi đôi với chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đồng thời đã từng bước chuyển đổi cơ cấu mùa vụ. Một số diện tích gieo trồng
cây lương thực, thực phẩm ở các vùng trũng, vùng thường bị ngập úng do ảnh hưởng của thiên tai đã chuyển đổi gieo
trồng các loại cây trồng khác. Cơ cấu mùa vụ gieo trồng cây lương thực nói chung và cây lúa nói riêng cũng được thay
đổi phù hợp hơn với điều kiện tự nhiên và thời tiết từng vùng, từng địa phương. Sự thay đổi mùa vụ đã tạo điều kiện mở
rộng diện tích gieo trồng, hạn chế sâu bệnh và phòng chống thiên tai, là một trong những nhân tố góp phần làm tăng
năng suất cây trồng.
Do tác động của cơ sở vật chất kỹ thuật, chọn bước đi thích hợp đã tạo cơ sở vững chắc cho sản xuất nông nghiệp
giữ ổn định và phát triển mạnh. Cơ cấu sản xuất cũng được bố trí, điều chỉnh dần phù hợp với điều kiện đất đai, tập quán
canh tác từng vùng và phát triển của trình độ sản xuất, khai thác có hiệu quả hơn tài nguyên nông nghiệp, cụ thể cơ cấu
giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa lương thực và nông sản hàng hoá, làm cho sản phẩm nông nghiệp ngày càng phong
phú, đa dạng, đạt giá trị cao. Trong 5 năm 2001-2005, cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp đã có sự chuyển dịch tích cực
theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ. Tỷ trọng ngành trồng trọt
trong giá trị sản xuất nông nghiệp từ 83,48% năm 2001 giảm xuống còn 80,19% năm 2005, tỷ trọng ngành chăn nuôi tăng
lên từ 14,63% năm 2000 đến 17,53% năm 2005 và hoạt động dịch vụ nông nghiệp từ 1,89% năm 2001 tăng lên 2,28%
năm 2005.
Bảng số liệu về cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp :

2001 2002 2003 2004 2005
Cơ cấu nội bộ ngành NN ( %)

Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
1 . Trồng trọt 83,48 81,85 83,02 80,79 80,19
2 . Chăn nuôi 14,63 16,09 14,99 17,14 17,53
3 . Dịch vụ 1,89 2,06 1,99 2,06 2,28
Các thông số về tốc độ tăng trưởng và cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp qua các năm thể hiện nông nghiệp vừa phát

huy thế mạnh về cây công nghiệp dài ngày (trồng trọt) vừa phát triển toàn diện cả về chăn nuôi. Tỷ trọng của 2 ngành
này trong thời kỳ vừa qua luôn ở mức cân đối với tỷ số: Trồng trọt 80-84%, chăn nuôi 14-18%. Trong trồng trọt, tập trung
vào các nhóm cây trồng chính: Cây công nghiệp tập trung ở cây cà phê, cây chè, cây dâu tằm, điều; cây lương thực chủ
yếu là cây lúa; cây thực phẩm tập trung vào rau, đậu các loại và các loại hoa.
* Công tác thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp:
Công tác đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi 5 năm qua đã được quan tâm đầu tư của Trung ương, Bộ Nông
nghiệp & PTNT, UBND tỉnh và các thành phần kinh tế do vậy số công trình được đầu tư xây dựng khởi công mới, tu sửa
nâng cấp nhiều hơn so với 5 năm trước. Chương trình thực hiện kiên cố hoá kênh mương đạt hiệu quả cao với 29 công
trình, tổng chiều dài kênh mương kiên cố hóa là 190,386 km. Đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh có 263 công trình thuỷ lợi
lớn, vừa và nhỏ có năng lực tưới theo thiết kế là 26.618 ha cây trồng các loại. Năng lực tưới thực tế các công trình nâng
lên rõ rệt so với năng lực thiết kế, đến năm 2005, tổng diện tích các loại cây trồng được tưới 64.000 ha, trong đó lúa đông
xuân 10.000 ha, lúa hè thu sớm 5.500 ha, lúa mùa 18.900 ha, cây công nghiệp và cây ăn qủa 22.600 ha và rau hoa 7.000
ha.
LAM NGHIEP
Tài nguyên rừng :
Tài nguyên rừng Lâm Đồng phong phú, đa dạng, với trên 618 ngàn ha rừng với tổng trữ lượng trên 61 triệu m
3
gỗ và
gần 662 triệu tấn tre, nứa. Rừng ở Lâm Đồng nhiều vùng còn nguyên sinh, ban sơ với nhiều thực, động vật, chủng loại
đa dạng, đặc biệt của rừng Lâm Đồng là đặc dụng và phòng hộ. Nguồn tre, nứa, lồ ô khá dồi dào, trữ lượng lớn, tập trung
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
ở các huyện phía Nam như Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên. Do mưa nhiều, khí hậu ẩm ướt, đất đai phù hợp nên các loài tre,
nứa, lồ ô có tố độ tái sinh rất nhanh sau khi khai thác. Diện tích tre, nứa có đủ khả năng đáp ứng cho yêu cầu chế biến
khoảng 50.000 tấn bột giấy hàng năm. Rừng Lâm Đồng rất đa dạng về loại, có trên 400 loài cây gỗ, trong đó có 1 số loài
gỗ quý như: pơmu xanh, cẩm lai, giỏ, sao, thông 2 lá, 3 lá, ngoài ra còn có nhiều loại lâm sản có giá trị khác.
Rừng Lâm Đồng phân bố ở thượng nguồn các sông, suối lớn của khu vực nên có vai trò quan trọng trong phòng hộ,
du lịch nghiên cứu, tham quan Diện tích đất có khả năng trồng rừng nguyên liệu khoảng 50.000-70.000 ha, thuận lợi
cho ngành công nghiệp chế biến bột giấy, giấy. Đặc biệt trên địa bàn tỉnh có phần đất thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Cát
Lộc và rừng quốc gia Cát Tiên, ở đây có trên 544 loại thực vật, 44 loài thú, gần 200 loài chim và có sự xuất hiện những

động vật quý hiếm như loài Tê giác Zava.
Tình hình sản xuất lâm nghiệp qua 5 năm (2001-2005):
Sản xuất lâm nghiệp qua 5 năm đã từng bước chuyển dịch theo hướng giảm khai thác; tăng cường công tác lâm sinh,
phủ xanh đất trống, đồi núi trọc; đẩy nhanh tiến độ giao đất, giao rừng cho nhân dân, gắn với việc đưa đồng bào dân tộc
tham gia vào làm nghề rừng để tạo cho họ ổn định cuộc sống, gắn bó thật sự với rừng tiến tới không còn nạn phá rừng
làm nương, rẫy nhằm xây dựng vốn rừng, duy trì và bảo vệ tài nguyên .
Hoạt động lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh trong 5 năm 2001-2005 đã có nhiều đổi mới về cơ chế tổ chức quản lý nhằm
mục đích giữ rừng và phát triển vốn rừng, chuyển từ hoạt động lâm nghiệp truyền thống sang hoạt động lâm nghiệp xã
hội. Sắp xếp lại các lâm trường và các ban quản lý rừng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các lâm
trường, làm tốt vai trò nòng cốt trong sản xuất lâm nghiệp, thực hiện bảo vệ và phát triển rừng, tạo thêm việc làm góp
phần xóa đói giảm nghèo tại các địa phương trong tỉnh. Phát triển lâm nghiệp đã gắn với tạo việc làm cho hàng chục
ngàn hộ nông dân, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân ở vùng xa, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc. Bằng các
nguồn vốn và các hình thức đầu tư khác nhau như: vốn dự án 661, vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh và vốn của các thành
phần kinh tế đã đầu tư trồng rừng, khoanh nuôi rừng, giao khoán quản lý bảo vệ rừng, từng bước nâng cao độ che phủ
của rừng trong toàn tỉnh.
Thực hiện chủ trương hạn chế khai thác, tách đơn vị khai thác khỏi đơn vị quản lý bảo vệ rừng nên khối lượng khai
thác gỗ rừng tự nhiên ngày càng giảm; giai đoạn 2001-2002 bình quân khoảng 30.000 m
3
/năm, giai đoạn 2004-2005
bình quân khoảng 15.000 m
3
/năm. Khối lượng gỗ rừng trồng khai thác ngày càng tăng (năm 2000 khoảng 4.000
m
3
/năm, năm 2005 khoảng 40.000 m
3
/năm). Sản lượng gỗ khai thác các loại xu hướng giảm dần, đặc biệt giảm mạnh từ
năm 2003 đến nay. Sản lượng gỗ khai thác các loại giảm từ 79.788 m
3
năm 2003 xuống còn 45.258 m

3
năm 2005, giảm
34.530 m
3
; trong đó các đơn vị lâm nghiệp khai thác từ 63.220 m
3
năm 2003 giảm xuống còn 35.046 m
3
năm 2005, giảm
28.174 m
3
. Bình quân thời kỳ 2001-2005, sản lượng gỗ khai thác mỗi năm là 59.561 m
3
, mức khai thác gỗ bình quân
hàng năm phù hợp với yêu cầu phát triển tự nhiên về năng suất rừng và đủ đáp ứng yêu cầu địa phương, góp phần
bảo tồn một khối lượng lớn diện tích rừng tự nhiên.
Công tác giao đất, giao rừng để quản lý bảo vệ có chuyển biến tích cực. Trong những năm qua, tỉnh đã đầu tư giao
khoán quản lý bảo vệ rừng, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho đại bộ phận đồng bào dân tộc. Tính đến năm
2005 đã thực hiện giao khoán bảo vệ rừng được 299 ngàn ha giao cho khoảng gần 12 ngàn hộ nhận khoán với mức
thu nhập từ 1,2 đến 1,5 triệu đồng; trong đó có 9.405 hộ đồng bào dân tộc nhận khoán 230,717 ngàn ha. Trong tổng số
diện tích rừng được giao khoán bảo vệ, nguồn vốn ngân sách tỉnh 168.285 ha; giao khoán bằng nguồn vốn dự án 5 triệu
ha rừng 106.074 ha; giao khoán bằng chính sách hưởng lợi 10.444 ha.
Để khôi phục lại vốn rừng bị giảm sút, bằng nhiều nguồn vốn ngân sách cấp thông qua chương trình 327, chương
trình 5 triệu ha rừng, vốn trồng rừng nguyên liệu giấy (liên doanh giữa các đơn vị chủ rừng với Công ty nguyên liệu giấy
Đồng Nai), vốn dự án IPDP, vốn các đơn vị và cá nhân… đã đầu tư thực hiện trồng rừng tập trung 5 năm 2001-2005
đạt 14.937 ha, bình quân mỗi năm trồng rừng đạt 2.987 ha. Trong đó chương trình 327(nay là 5 triệu ha rừng) đã trồng
mới 2.458 ha rừng trồng tập trung.
Nhờ kết qủa đầu tư từ nhiều nguồn vốn khác nhau với nhiều thành phần kinh tế tham gia trồng rừng, giao khoán quản
lý bảo vệ rừng nên trong 5 năm 2001-2005 độ che phủ của rừng được nâng lên từ 63% năm 2000 lên 64% năm 2005.
CONG NGHIEP

Sản xuất công nghiệp:
Thời kỳ 2001-2005, trong điều kiện còn gặp nhiều khó khăn về thị trường, ảnh hưởng của dịch Sars, giá cả nguyên liệu
đầu vào biến động tăng làm tăng chi phí đầu vào các sản phẩm… nhưng ngành công nghiệp đã sắp xếp lại sản xuất,
phát triển theo chiều sâu, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm từng bước nâng cao năng lực sản xuất và trình độ công nghệ.
Sản xuất công nghiệp đã từng bước thay đổi, thích ứng dần với cơ chế quản lý mới đi vào thế phát triển ổn định. Để thích
ứng với cơ chế mới, ngành công nghiệp đã tổ chức, sắp xếp lại mạng lưới doanh nghiệp nhà nước, quá trình sắp xếp lại
gắn chặt với quá trình xây dựng mới, gắn xây dựng nhà máy chế biến với việc phát triển vùng nguyên liệu, lựa chọn
những doanh nghiệp có điều kiện phát triển, đáp ứng nhu cầu thị trường để đầu tư mở rộng quy mô, đồng thời giải thể
những doanh nghiệp quy mô nhỏ, làm ăn thua lỗ. Với phương châm đó, số lượng doanh nghiệp đã giảm xuống từ 26
doanh nghiệp năm 2001 xuống 22 doanh nghiệp năm 2005. Trong đó doanh nhiệp nhà nước địa phương quản lý từ 13
doanh nghiệp năm 2001 còn 11 doanh nghiệp năm 2005, giảm 2 doanh nghiệp (giảm 15,38%).
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
Tổng hợp chung về cơ sở và lao động sản xuất công nghiệp :
2001 2002 2003 2004 2005
1. Cơ sở sản xuất ( cơ sở ) 6.455 5.754 6.330 6.154 6.364
- Doanh nghiệp nhà nước 26 27 25 24 22
Trung ương 13 13 12 13 11
Địa phương 13 14 13 11 11
- Ngoài nhà nước 6.414 5.711 6.283 6.103 6.312
2. Lao động ( người ) 28.991 26.238 29.165 28.440 29.870
- Khu vực nhà nước 7.040 6.214 7.702 7.630 6.400
- Khu vực ngoài nhà nước 21.951 20.024 21.463 20.810 23.470
Khu vực công nghiệp ngoài nhà nước cũng đang trong quá trình đổi mới về tổ chức theo hướng đa dạng hoá về thành
phần và tăng về số lượng (trừ thành phần kinh tế cá thể). Do được đầu tư cơ sở sản xuất phát triển, năng lực sản xuất
tăng, thu hút lực lượng lao động xã hội tham gia vào sản xuất công nghiệp ngày càng tăng. Cụ thể, năm 2001 có 21.951
lao động đến năm 2005 có 23.470 lao động tham gia, tăng 1.519 lao động so năm 2001.
Do được tăng cường đầu tư, năng lực sản xuất tăng nhanh, đổi mới trang thiết bị và quy trình công nghệ mới, thay thế
dần máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu. Kết hợp với đổi mới cơ chế quản lý đã thúc đẩy sản xuất công nghiệp toàn tỉnh
vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển.

Trong thời kỳ 2001-2005, gía trị sản xuất công nghiệp (CĐ 94) tăng bình quân 17,8% hàng năm, trong đó năm 2001
tăng 11,2%; 2002 tăng 7,03%; 2003 tăng 10,29%; 2004 tăng 19,88% và ước năm 2005 tăng 43,86%, tăng mạnh do tính
bổ sung thêm giá trị điện của công ty Hàm Thuận-Đa Mi (theo Quyết định của Bộ Công nghiệp). Cả 3 ngành công nghiệp
đều tăng, trong đó công nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất, phân phối điện, nước tăng mạnh; bình quân hàng năm
thời kỳ 2001-2005, ngành công nghiệp khai thác mỏ tăng 13,47%, ngành công nghiệp chế biến tăng 19,70% và công
nghiệp sản xuất, phân phối điện, nước tăng 49,54%.
Đối với kinh tế nhà nước, tuy số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm dần, song giá trị sản xuất công nghiệp bình quân
thời kỳ 2001-2005 tăng 27,31%, trong đó doanh nghiệp nhà nước Trung ương quản lý tăng 42,92% và doanh nghiệp nhà
nước địa phương quản lý tăng 4,6%. Năng lực sản xuất cũng tăng mạnh, nhất là các ngành công nghiệp chủ yếu ở địa
phương, điển hình như chế biến hạt điều tăng từ 656 tấn năm 2000 lên 1.480 tấn năm 2005, tăng 125,61%; chế biến chè
từ 5.782 tấn năm 2000 tăng lên 6.813 tấn năm 2005, tăng 17,83%; khai thác bauxite từ 16.200 tấn năm 2000 tăng lên
68.100 tấn năm 2005; sản xuất quần áo may sẵn từ 371 ngàn cái năm 2000 tăng lên 546 ngàn cái năm 2005, tăng
47,17%; sợi tơ tằm từ 121 tấn lên 512 tấn năm 2005, tăng 323,14% Tổng nguồn vốn dùng vào sản xuất kinh doanh đến
thời điểm 31/12/2005 là 2.762.919 triệu đồng, chiếm 71,9% tổng nguồn vốn các doanh nghiệp công nghiệp.
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá CĐ 1994:
2001 2002 2003 2004 2005
1. Giá trị sản xuất (tr. đồng) 1.098.948 1.1176.233 1.297.305 1.555.156 2.237.324
- Công nghiệp khai thác mỏ 34.974 39.410 45.457 53.127 64.297
- Công nghiệp chế biến 996.997 1.070.634 1.179.046 1.428 218 1.683.504
- CN SX, PP điện, nước 66.977 66.189 72.802 73.811 489.523
2. Tốc độ phát triển (%) 111,20 107,03 110,29 119,88 143,86
3. Tốc độ PTBQ 2001-2005 117,80
- Công nghiệp khai thác 119,70
- Công nghiệp chế biến 113,47
- CN SX, PP điện, nước 149,54
Công nghiệp ngoài nhà nước phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, chủng loại sản phẩm đa dạng, phong phú
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Tỷ trọng giá trị công nghiệp ngoài nhà nước tuy có giảm dần từ 86,65% năm
2000 xuống còn 71,29% năm 2005 song vẫn chiếm tỷ lệ lớn (bình quân thời kỳ 2001-2005 chiếm 65,3%) trong tổng giá trị
sản xuất toàn ngành công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài nhà nước (CĐ 1994) từ 671.360 triệu đồng năm
2000 tăng lên 1.208.228 triệu đồng năm 2005, bình quân hàng năm thời kỳ 2001-2005 tăng 12,47%; trong đó kinh tế tư

Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh (tư nhân tăng bình quân 23,65%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
tăng 24,86%). Riêng kinh tế cá thể tăng chậm (tăng bình quân 0,23%) và kinh tế tập thể giảm mạnh (giảm 12,34% bình
quân hàng năm).
Sản xuất công nghiệp trong thời gian qua đã phát triển đúng hướng, cụ thể là căn cứ vào khả năng về nguyên liệu sẵn
có của địa phương để lựa chọn phương án đầu tư thích hợp, khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên, khoáng sản
vào phục vụ phát triển kinh tế địa phương. Phương án sản phẩm sản xuất tương đối phù hợp, được thị trường chấp
nhận, chiếm lĩnh thị phần ngày càng được mở rộng. Điển hình là các sản phẩm như phân vi sinh, chè chế biến, cà phê
chế biến, bauxite, lụa tơ tằm, sợi tơ tằm , sản phẩm hàng hóa do công nghiệp sản xuất đa dạng về chủng loại, tăng về
khối lượng và chất lượng. Bên cạnh các sản phẩm có trình độ kỹ thuật, có giá trị kinh tế hàng hoá cao, phục vụ cho sản
xuất, xây dựng, ngành công nghiệp còn sản xuất nhiều loại sản phẩm phục vụ tiêu dùng khác như sản phẩm may mặc,
chế biến lương thực, chế biến gỗ, lâm sản góp phần khắc phục tình trạng mất cân đối về hàng hoá địa phương.
Vai trò công nghiệp, nhất là một số ngành công nghiệp có quy trình công nghệ, kỹ thuật cao đã thực sự có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Công nghiệp còn là đầu mối tạo nguồn thu cho ngân sách, thúc đẩy tăng trưởng
GDP; phát triển công nghiệp đã góp phần quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu chung của nền kinh tế và của chính khu
vực công nghiệp-xây dựng. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng từ 10,38% năm 2000 lên 16,83% năm 2005, góp phần
nâng tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng từ 13,40% năm 2000 lên 18,70% năm 2005.
Kết quả sản xuất công nghiệp trong thời gian qua đã chứng minh: Đầu tư cho phát triển công nghiệp không những
nâng cao năng lực của nền công nghiệp, tạo tiền đề cho quá trình phát triển của các ngành kinh tế khác, nhằm tăng
nhanh khối lượng hàng hoá, nhất là các sản phẩm vật tư kỹ thuật, sản phẩm phục vụ xuất khẩu, góp phần tăng thu ngân
sách, từng bước thực hiện chuyển cơ cấu kinh tế, tạo môi trường để đưa nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp
và dịch vụ. Đồng thời sự phát triển công nghiệp đã tạo ra hàng vạn chỗ làm việc cho người lao động, không chỉ trong
ngành công nghiệp mà còn ở các ngành kinh tế khác, trước hết là các ngành liên quan chặt chẽ đến sản xuất công
nghiệp như sản xuất nông, lâm, thuỷ sản làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và thương mại làm chức năng bán
hàng hoá cho công nghiệp .
Trong những năm qua, công tác quy hoạch, triển khai đền bù giải toả, thu hút vốn đầu tư để triển khai phát triển một số
dự án lớn có tác động quyết định, đột phá đến tăng trưởng kinh tế của tỉnh nói chung, ngành công nghiệp nói riêng được
triển khai tích cực. Đến nay, đã triển khai quy hoạch xây dựng 12 cụm, điểm công nghiệp, quy hoạch 63 điểm thuỷ điện,
thành lập và triển khai chương trình khuyến công, đầu tư hạ tầng và kêu gọi đầu tư vào 2 khu công nghiệp: Lộc Sơn và

Phú Hội và các dự án thuỷ điện Đại Ninh, Đồng Nai 3, Đồng Nai 4, tổ hợp bauxite Tân Rai… Hiện đã có 20 nhà đầu tư,
đăng ký đầu tư (trong đó có 3 dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 202,28 tỷ đồng và 2 triệu USD
vào khu công nghiệp Lộc Sơn. Riêng khu công nghiệp Phú Hội đã có 4 nhà đầu tư với tổng vốn đăng ký 59,9 tỷ đồng.
TIEU THU CN
Lâm Đồng tuy là một tỉnh miền núi, song với vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên thuận lợi đã tạo cho tỉnh có mối quan
hệ khá chặt chẽ với các vùng lân cận, đặc biệt là các tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ. Thêm vào đó, Lâm Đồng có Đà Lạt
là trung tâm du lịch – nghỉ dưỡng của cả nước, nên số khách nội địa và khách quốc tế đến đây hàng năm khá lớn. Thực
tế đó đã tạo nên nhu cầu lớn về các mặt hàng đặc sản của du khách thập phương. Vì vậy, ở Lâm Đồng nói chung và Đà
Lạt nói riêng có nhiều nghề tiểu thủ công nghiệp nổi tiếng, bao gồm các nghề như làm mứt, sản xuất rượu hoa quả, chế
biến chè, cà phê, cưa lộng, chạm bút lửa, đan len, thêu và các nghề thủ công truyền thống của đồng bào dân tộc ít người
như dệt vải, làm rượu cần, dệt chiếu lát,…

DU LICH
Với ưu thế về khí hậu, cảnh quan thiên nhiên và tài nguyên rừng, từ lâu du lịch là nguồn tài nguyên và thế mạnh của
Lâm Đồng. Rừng của Lâm Đồng là khu vực lưu giữ nguồn gen động, thực vật quý hiếm, có chức năng bảo vệ nguồn sinh
thủy khu vực đầu nguồn của 7 hệ thống sông, suối lớn. Tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái này đóng vai trò quan
trọng trong cảnh quan du lịch, đặc biệt là rừng thông Đà Lạt. Cùng với sông, suối, hồ, đập, thác nước, rừng Lâm Đồng
đã tạo nên một quần thể có sức thu hút khách du lịch trong và ngoài nước như rừng cảnh quan bao quanh Đà Lạt, khu
du lịch hồ Tuyền Lâm, khu du lịch hồ Suối Vàng – Dankia, khu du lịch Thung lũng tình yêu, khu du lịch thác Datanla, thác
Prenn, thác Pongour, thác Đam B’ri, núi Lang Biang.
Trung tâm du lịch phía Bắc bao gồm thành phố Đà Lạt và các vùng phụ cận. Đà Lạt nằm trên cao nguyên Lâm Viên có
độ cao 1.500 m, khí hậu mát mẻ quanh năm; cách các đô thị lớn của vùng và khu vực không xa, giao thông thuận lợi. Đà
Lạt có nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú nổi tiếng về hồ, về thác nước và rừng thông, bên cạnh đó là các công trình
kiến trúc mang giá trị văn hóa - nghệ thuật cao, có sức hấp dẫn đối với du khách. Đà Lạt hiện có 1 sân gôn 18 lỗ đạt tiêu
chuẩn quốc tế. Hệ thống nhà nghỉ, khách sạn có sức chứa trên 30.000 khách/ngày, trong đó có 20 khách sạn đạt tiêu
chuẩn quốc tế từ 1 đến 5 sao. Đà Lạt được coi là trung tâm du lịch của Việt Nam và khu vực.
Trung tâm du lịch phía Nam gồm thị xã Bảo Lộc và vùng phụ cận: Bảo Lộc nằm trên cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh có
độ cao 1.000 m, khí hậu ôn hòa, có cảnh quan thiên nhiên đẹp. Đây là địa bàn cư trú của các dân tộc ít người, mỗi dân
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng

tộc có một bản sắc văn hóa riêng, độc đáo rất thích hợp cho phát triển du lịch văn hóa. Tại đây còn có các khu di chỉ có
giá trị phù hợp cho tham quan, nghiên cứu như khu di chỉ Phù Mỹ - Cát Tiên
Các loại hình du lịch của Lâm Đồng khá phong phú, đa dạng: du lịch tham quan, du lịch giải trí, du lịch nghỉ dưỡng, du
lịch sinh thái, du lịch dưới tán rừng, du lịch vườn, du lịch văn hóa - thể thao
Một số cảnh quan du lịch tự nhiên đặc sắc: Hồ Xuân Hương, Đan Kia – Suối Vàng, Tuyền Lâm, Than Thở, Thung lũng
Tình yêu, Thung lũng vàng, Đa Nhim; thác Cam Ly, Đatanla, Prenn, Liên Khương, Gougah, Pongour, Đambri, Bobla, Li
Liang, thác Voi, Pong Giang; đồi Cù, núi Lang Bian,…
Các di tích văn hoá lịch sử như Dinh I, Dinh II, Dinh III, khách sạn Palace; chùa Linh Sơn, Linh Phong; Thiền viện Trúc
Lâm; nhà thờ Chánh toà, Cam Ly; Nghĩa trang Liệt sĩ; khu mộ cổ của dân tộc Mạ, khu di tích Cát Tiên; các lễ hội văn hoá
dân gian như lễ hội đâm trâu, lễ hội cồng chiêng,… là điểm hẹn của du khách trong nước và quốc tế.
Tiềm năng du lịch
Về lâu dài, du lịch là nhân tố đột phá và là ngành kinh tế động lực của Lâm Đồng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế
- xã hội. Lâm Đồng có lợi thế để phát triển du lịch, hiện tại hai khu du lịch trọng điểm: hồ Tuyền Lâm và Suối Vàng –
Dankia của tỉnh đã được quy hoạch đang chờ đón các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, Lâm Đồng đã có
chủ trương cho phép các nhà đầu tư thuê đất dưới tán rừng để đầu tư du lịch theo hướng du lịch sinh thái, du lịch dưới
tán rừng.
THUONG MAI
Hoạt động nội thương:
Hoạt động thương mại - dịch vụ thời kỳ 2001-2005 đã tiếp cận và hoà nhập với kinh tế thị trường, đảm bảo cung cấp
cơ bản hàng hoá, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống. Hàng hoá trên thị trường phong phú, đa dạng, việc mua bán
thuận lợi, đáp ứng khá tốt nhu cầu xã hội các tầng lớp dân cư trong tỉnh. Mạng lưới kinh doanh thương mại phát triển
nhanh, đa dạng về ngành nghề bao gồm cả thương nghiệp, nhà hàng ăn uống, dịch vụ phục vụ và du lịch. Do đó đã mở
rộng mạng lưới kinh doanh phục vụ xuống tận cơ sở, địa bàn khu dân cư, tạo thành mạng trung gian kinh tế, làm chức
năng giao lưu, trao đổi hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ .
Đến năm 2005, số lượng cơ sở kinh doanh thương mại- dịch vụ có 30.644 cơ sở, tăng 11.862 cơ sở so năm 2000;
trong đó cơ sở kinh tế cá thể chiếm tỷ trọng lớn (chiếm 97,9% năm 2005), còn các thành phần kinh tế khác chiếm tỷ lệ
nhỏ trong tổng các cơ sở kinh doanh thương mại- dịch vụ toàn tỉnh. Hoạt động thương mại-dịch vụ đã thu hút số người
tham gia kinh doanh ngày càng đông với số lượng 47.852 người năm 2005, tăng 23.450 người (96,1%) so năm 2000.
Cùng với việc phát triển về thành phần kinh doanh, hạ tầng cơ sở cũng được đầu tư phát triển, điển hình là hệ thống
chợ. Một số chợ được quy hoạch, đầu tư nâng cấp, sửa chữa với quy mô lớn trở thành trung tâm thương mại của tỉnh

như chợ Đà Lạt, chợ B’ Lao (Bảo Lộc), chợ Tùng Nghĩa (Đức Trọng). Các trung tâm thương mại tỉnh đã trở thành nơi
cung ứng hàng hoá cho vùng lân cận, nơi trung chuyển trao đổi hàng hoá cho các chợ nông thôn .
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng bình quân hàng năm 22%; trong đó kinh tế nhà
nước tăng 13,49% (nhà nước trung ương tăng 16,77% và nhà nước địa phương tăng 9,15%), kinh tế ngoài nhà nước
tăng 27,35% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 27,05%. Đến năm 2005 tổng mức bán lẻ đạt 5.861,56 tỷ đồng,
tăng 170,09% so năm 2000. Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ qua các năm: 2001 tăng 0,56%, 2002 tăng 14,07%, 2003 tăng
21,33%, 2004 tăng 40,60% và ước năm 2005 tăng 38,02%. Mức bán lẻ bình quân đầu người/năm cũng tăng lên đáng kể,
từ 2,1 triệu đồng năm 2000 lên 5,07 triệu đồng năm 2005. Thương nghiệp nhà nước chủ yếu nắm giữ khâu bán buôn và
một phần bán lẻ. Thương nghiệp tư nhân, cá thể có lực lượng đông đảo nên giữ vai trò lớn trong khâu bán lẻ. Trong tổng
mức bán lẻ thì kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng nhỏ (từ 9-10%), kinh tế ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng lớn ( từ 76-90%).
Tỷ trọng các thành phần kinh tế trong tổng mức bán lẻ như sau :

Tổng Chia ra
Năm Số Kinh tế Kinh tế ngoài Kinh tế có vốn
Nhà nước quốc doanh đầu tư nước ngoài
2001 100 10,44 88,41 1,15
2002 100 11,85 86,99 1,16
2003 100 10,59 88,34 1,07
2004 100 10,87 76,73 12,40
2005 100 9,44 89,25 1,31

Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
Cùng với phát triển thương nghiệp ở thành phố, thị xã và các thị trấn, mạng lưới thương nghiệp tiếp tục phát triển đến
các vùng sâu, vùng xa góp phần thúc đẩy giao lưu hàng hoá, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân ở
vùng này.
Thời kỳ 2001-2005 hoạt động kinh doanh du lịch có bước phát triển mạnh. Các điểm danh lam được quy hoạch, tôn
tạo, nâng cấp; các khu vui chơi giải trí được xây dựng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của du khách. Nhiều khu du lịch mới đã
được các nhà đầu tư trong và ngoài nước triển khai xây dựng, tạo thêm một số sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách. Các
khu du lịch trọng điểm thu hút được nhiều dự án đầu tư lớn là cơ sở để phát triển ngành du lịch trong những năm tiếp

theo. Hệ thống khách sạn, nhà nghỉ tăng nhanh, có sức chứa tổng cộng khoảng 30.000 khách, chất lượng kinh doanh
được nâng lên đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên của du khách trong và ngoài nước. Vì vậy lượt khách đến Lâm Đồng
tăng bình quân hàng năm 8,22%, năm 2000 có 725.000 lượt khách (qua lưu trú) đến tham quan, nghỉ dưỡng, du lịch Đà
Lạt - Lâm Đồng tăng lên 1.075.933 lượt khách năm 2005. Trong đó khách quốc tế năm 2005 có 100.000 lượt khách so
với năm 2000 là 71.000 lượt, tăng bình quân hàng năm 7,09%; khách trong nước từ 654.000 lượt khách năm 2000 tăng
lên 975.933 lượt năm 2005, tăng bình quân hàng năm 8,33%. Tổng ngày khách lưu trú trên địa bàn Lâm Đồng năm 2005
là 2.075.792 ngày so với 1.305.000 ngày năm 2000, tăng bình quân 9,73%. Số ngày khách lưu trú bình quân 1 du khách
đến Lâm Đồng có xu hướng tăng lên, từ 1,8 ngày năm 2000 tăng lên 1,93 ngày năm 2005 kéo theo hệ số sử dụng
buồng, giường của các cơ sở lưu trú tăng lên.
* Hoạt động ngoại thương:
Hoạt động ngoại thương trong những năm qua tuy gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng chiến tranh Iraq, của dịch Sars,
dịch cúm gia cầm và tình hình giá cả thị trường thế giới biến động lớn nhưng các doanh nghiệp kinh doanh xuất, nhập
khẩu trên địa bàn Lâm Đồng đã nỗ lực tìm kiếm, mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm …nên đã
đạt nhiều kết quả nhất định.
Tổng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 2001-2005, đạt 390,716 triệu USD, tăng bình quân hàng năm 21,28%. Kim ngạch
xuất khẩu đến năm 2005 đạt 130,68 triệu USD, tăng 162,39% so năm 2000. Mặt hàng xuất khẩu đã qua chế biến đều
tăng, chiếm trên 80% sản phẩm xuất khẩu. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh như cà phê, chè, điều, rau, hoa,
tơ tằm … tăng khá, đặc biệt kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh trong 3 năm 2003-2005 do một số doanh nghiệp nước
ngoài tham gia xuất khẩu như công ty Atlantic, công ty TNHH Phú Cường. Sản lượng cà phê năm 2005 xuất được
48.617,8 tấn, tăng 41.693,8 tấn so năm 2000; sản lượng chè năm 2005 xuất 9.538,1 tấn, tăng 7.887,1 tấn so 2000; mặt
hàng rau qủa năm 2005 xuất đạt 12.281,2 tấn, tăng mạnh do những năm trước chỉ xuất vài trăm tấn trong năm; hạt điều
chế biến năm 2005 xuất khẩu tăng 8.432,5 tấn so năm 2000 và hoa các loại xuất được 8.179,6 ngàn USD, tăng 2.430,6
ngàn USD so năm 2000.
Song song với xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu thời kỳ 2001-2005, cũng tăng nhanh từ 18.333 ngàn USD tăng lên
37.393,1 ngàn USD. Kim ngạch nhập khẩu chủ yếu là nguyên vật liệu để phục vụ sản xuất và máy móc, thiết bị để đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng.
DAU TU
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội là một chỉ tiêu quan trọng, đóng vai trò quyết định trong việc phát triển và tăng trưởng
kinh tế nói chung, tỉnh Lâm Đồng nói riêng. Trong 5 năm qua, bằng nhiều nguồn vốn ngân sách, vốn nhân dân đóng góp
và tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài, công tác đầu tư xây dựng được triển khai tích cực. Thời kỳ 2001-2005, nhờ đầu tư

đúng hướng nên nhiều công trình hạ tầng thiết yếu, đã được nâng cấp như: quốc lộ 20, 27, 28, đường cao tốc từ sân bay
Liên Khương đến chân đèo Prenn, mở đường 723 đi Nha Trang; hệ thống đường nội thị ở Tp Đà Lạt và thị xã Bảo Lộc,
hoàn chỉnh nhiều tuyến đường liên huyện và giao thông nông thôn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa được đầu tư xây dựng
mới, nâng cấp.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 2001-2005 trên địa bàn Lâm Đồng đạt 9.513,8 tỷ đồng, trong đó vốn
ngân sách nhà nước (kể cả Trung ương, địa phương, tín dụng) chiếm khoảng 42,9%, vốn của các doanh nghiệp và nhân
dân chiếm 46,7%, vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA) 10,4%. Cơ cấu đầu tư đã chuyển hướng tăng nhanh tỷ trọng đầu
tư hạ tầng kinh tế - xã hội; tỷ trọng đầu tư cho ngành nông, lâm, thuỷ sản chiếm 19,7%, ngành công nghiệp 22,6%, ngành
dịch vụ 21,5%, cở sở hạ tầng 36,2%.
Vốn đầu tư xã hội tăng nhanh trong những năm qua, từ 1.091,898 tỷ đồng năm 2000 tăng lên 2.259,928 tỷ năm 2004
và 3.042,939 tỷ đồng năm 2005, tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 22,75%. Tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội thời kỳ
2001-2005 chiếm trong GDP bình quân 39,88% và tăng lên qua các năm từ 37,25% năm 2000 lên 40,89% năm 2004 và
42,45% năm 2005. Tốc độ phát triển các nguồn vốn đầu tư qua các năm nhìn chung theo chiều hướng tích cực. Trong số
các nguồn vốn cấu thành vốn đầu tư phát triển thì nguồn vốn nhà nước năm 2005 đã gấp 3,4 lần năm 2001, vốn tín dụng
gấp 5,27 lần, vốn đầu tư nước ngoài gấp 6,43 lần và vốn ngoài nhà nước gấp 1,57 lần so năm 2001.
Về cơ cấu nguồn vốn thì vốn nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng tăng và vốn ngoài nhà
nước chiếm tỷ trọng ngày càng giảm. Vốn nhà nước năm 2001 chiếm 44,55% tổng vốn đầu tư nhưng đến năm 2005 đã
tăng lên 60,24%; vốn đầu tư nước ngoài từ 2,65% tăng lên 6,78% năm 2005. Còn tỷ lệ vốn ngoài nhà nước từ 52,81%
năm 2001 giảm xuống còn 32,98% năm 2005.
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng đóng góp một phần tích cực để chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Về cơ cấu
đầu tư, nét nổi bật trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong thời gian qua tại Lâm Đồng chủ yếu đầu
tư vào các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến thực phẩm. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực.
Ngoài nguồn vốn FDI, nguồn vốn ODA cũng đóng góp một phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế -xã hội của
Tỉnh. Tuy lượng vốn ODA chỉ chiếm khoảng 1% tổng vốn đầu tư xã hội nhưng đã tập trung đầu tư vào những lĩnh vực ưu
tiên, cải tạo, nâng cấp và phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội. Trong đó có một số dự án hạ tầng xã hội đã
bắt đầu phát huy tác dụng, góp phần phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là các dự án đầu tư vào
vùng đồng bào dân tộc.

Ngoài giá trị công trình đầu tư bằng nguồn vốn của ngân sách và vốn đóng góp của nhân dân còn có một lượng vốn
rất lớn của dân cư tự đầu tư xây dựng nhà ở, vật kiến trúc để phục vụ sinh hoạt của từng hộ nhân dân. Đến năm 2005,
tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhà ở tự làm, tự ở trong các tầng lớp dân cư khoảng 106 tỷ đồng. Năm năm qua,
cũng là những năm mà các hộ dân cư đã đầu tư xây dựng nhà cửa với tốc độ nhanh nhất và khối lượng khá lớn, góp
phần không nhỏ đẩy nhanh mức vốn đầu tư phát triển trên phạm vi toàn tỉnh .
* Tăng cường đầu tư thực hiện các chương trình kình tế - xã hội của tỉnh:
Do tăng cường đầu tư nên các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời kỳ 2001-2005 được thực hiện, từng
bước đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân với tổng nguồn vốn các chương
trình là 277 tỷ đồng, cụ thể:
- Chương trình 135: đã đầu tư cho 49 xã với tổng vốn đầu tư 126,115 tỷ đồng ở một số hạng mục quan trọng sau:
đường giao thông nông thôn 535 km, trường học 307 phòng/14.806 m
2
, 4 trạm xá, điện hạ thế 87 km và 24 công trình
thuỷ lợi nhỏ.
- Chương trình trung tâm cụm xã: 8 trung tâm cụm xã được đầu tư với tổng số vốn đã đầu tư 53.223 triệu đồng;
đến nay đã hoàn thành 04 trung tâm cụm xã; thực hiện được một số hạng mục lớn như sau : Giao thông nông thôn:
33,4km, trạm y tế: 8 công trình, trường học: 139 phòng/6.672m
2
, nhà ở giáo viên: 68 phòng, khu thương mại: 5 công
trình.
- Tình hình giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số: Thực hiện quyết định 132/2002/QĐ-
TTg ngày 08/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ,
trong những năm qua đã triển khai thực hiện đã giao được 6.728 ha với kinh phí là 30.598 triệu đồng cho 7.958/8.503 hộ
đồng bào dân tộc thiếu đất.
- Chương trình hỗ trợ nhà ở cho đồng bào dân tộc: Đã đầu tư 36.320 triệu đồng để hỗ trợ xây dựng 6.116 căn nhà,
bình quân mỗi căn nhà hỗ trợ 5-6 triệu đồng.
- Chương trình hỗ trợ mắc điện cho đồng bào dân tộc: Thực hiện quyết định số 129/2003/QĐ-UB ngày 16/9/2003
của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc phê duyệt đề án phát triển điện nông thôn, chương trình hỗ trợ vay vốn mắc điện
nhánh rẽ vào nhà các đối tượng chính sách, hộ nghèo và đồng bào dân tộc. Đến nay, đã bố trí 21.126 triệu đồng để đầu
tư đường dây nhánh rẽ từ lưới điện hạ thế vào nhà, bình quân mỗi hộ hỗ trợ khoảng 600.000 đồng

- Chương trình kiên cố hoá kênh mương: Đến cuối năm 2004 khối lượng đã thực hiện: 107,6 tỷ đồng, trong đó vốn
ngân sách địa phương: 32,7 tỷ đồng, tín dụng ưu đãi: 42,9 tỷ đồng, vốn nhân dân đóng góp 32 tỷ đồng cho kiên cố hoá
75,7 km kênh mương.
- Chương trình kiên cố hoá đường giao thông nông thôn: Thực hiện chương trình này đến nay đã tiến hành nâng
cấp được 44,37 km đường đạt tiêu chuẩn cấp IV miền núi với số vốn tín dụng đã vay: 25.750 triệu đồng.
- Chính sách khám chữa bệnh người nghèo: Đã thực hiện 35.598 triệu đồng, khám và điều trị ngoại trú cho 1,2 triệu
lượt người, khám điều trị nội trú cho 143.000 lượt người.
Nhìn chung, thời kỳ 2001-2005, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là giao thông, bưu chính viễn thông,
điện, nước sạch, thuỷ lợi và các công trình phúc lợi công cộng không ngừng được củng cố và tăng cường tạo tiền đề cho
phát triển kinh tế.
GIAO THONG
Đường bộ
Hiện nay hệ thống đường bộ của Lâm Đồng tương đối dày và phân bố khá đều khắp trong tỉnh, cho phép các phương
tiện giao thông có thể đến được hầu hết các xã và đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân dân. Nếu chỉ tính riêng các
tuyến quốc lộ, đường tỉnh và đường huyện, đến nay mạng lưới đường bộ ở Lâm Đồng có tổng chiều dài 1.744km, trong
đó tổng chiều dài:
Hệ thống quốc lộ (20, 27, 28) là 412,15km
Hệ thống đường tỉnh là 346,25km
Hệ thống đường huyện là 985,69km
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
Các tuyến QL 20, 27, 28, 55 nối liền Lâm Đồng với vùng Đông Nam Bộ, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh thuộc vùng
Tây Nguyên, các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, tạo cho Lâm Đồng có mối kinh tế - xã hội bền chặt với các vùng, các tỉnh
trong khu vực.
Đường hàng không
Cảng hàng không Liên Khương nằm cách trung tâm thành phố Đà Lạt 30 km có tổng diện tích 160ha đang được nâng
cấp thành sân bay quốc tế với đường băng dài 3.250 m có thể tiếp nhận các loại máy bay tầm trung như A.320, A.321
hoặc tương đương. Đoạn đường từ sân bay Liên Khương đến Đà Lạt đang được nâng cấp, xây dựng thành đường cao
tốc 4 làn xe. Do nhu cầu đi lại của nhân dân ngày càng tăng nên hiện nay hàng ngày đều có chuyến bay từ Đà Lạt đi
Thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại.

Đường thuỷ
Giao thông trên sông Đồng Nai chỉ thực hiện được trên chiều dài khoảng 60km vào mùa khô và ở khu vực Cát Tiên là
chủ yếu.
Đường sắt
Tuyến đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt dài 84km được đưa vào khai thác từ năm 1932. Năm 1976, Bộ Giao thông –
Vận tải đã tháo gỡ 21km đường ray trên tuyến đường này để khôi phục tuyến đường sắt Thống Nhất, từ đó tuyến đường
này không còn hoạt động nữa và dần bị phá bỏ.
Hiện nay, ngành đường sắt đã khôi phục đoạn từ ga Đà Lạt đến Trại Mát dài 8km phục vụ du lịch.

VAN TAI
Các hoạt động về giao thông vận tải được duy trì và không ngừng phát triển, áp dụng thành tựu khoa học và
công nghệ hiện đại. Các phương tiện vận tải tăng nhanh về số lượng, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu
cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân. Tính đến nay toàn tỉnh có trên 4.829 phương tiện vận
tải hàng hóa với tổng trọng tải trên 22,599 ngàn tấn, hàng năm vận chuyển bình quân 1,82 triệu tấn; sản
lượng vận tải ước năm 2005 vận chuyển được 2.104 ngàn tấn, luân chuyển 244.638 ngàn tấn-km, tăng
42,32% về vận chuyển và tăng 38,74% về luân chuyển so năm 2000. Phương tiện vận tải hành khách có
7.527 chiếc với trên 70.805 ghế, hàng năm vận chuyển 7,71 triệu hành khách; sản lượng vận tải hành
khách năm 2005 vận chuyển 9.033 ngàn hành khách, tăng 74,49% so năm 2000; luân chuyển từ
393.651 ngàn hành khách-km năm 2000 lên 850.609 ngàn hành khách-km năm 2005, tăng 116,08%
BUU CHINH VIEN THONG
Mạng lưới bưu chính viễn thông phát triển nhanh và hiện đại cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đến nay hệ thống các
bưu điện, bưu cục phủ kín cơ bản các địa bàn toàn tỉnh, phục vụ kịp thời nhu cầu thông tin trong và ngoài nước của nhân
dân.
Thời kỳ 2001-2005, đã đưa vào lắp đặt và sử dụng hệ thống điện thoại công cộng dùng thẻ, điện thoại di động, dịch vụ
nhắn tin, dịch vụ giải đáp thông tin, mở thêm đường dây liên lạc trực tiếp qua các nước.
Đến hết năm 2005, hệ thống điện thoại đã đến 145/145 xã, phường, thị trấn; số bưu cục khu vực là 42 tăng 2 bưu cục
so năm 2000.
Tổng số máy điện thoại trong toàn tỉnh ước năm 2005 là 195.594 máy, tăng 150.177 máy so năm 2000, bình quân
hàng năm tăng 33,91%; trong đó điện thoại di động tăng mạnh từ 3.933 máy năm 2000, tăng lên 88.152 máy năm 2005,
với tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 86,25%. Số máy điện thoại bình quân từ 4,4 máy/100 dân năm 2000 đã tăng lên

16,9 máy/100 dân vào năm 2005.
Doanh thu hoạt động bưu chính, viễn thông không ngừng tăng lên, từ 115.051 triệu đồng năm 2000 lên 336.030 triệu
đồng năm 2005 (tăng 192%), mỗi năm thời kỳ 2001-2005 tăng bình quân 23,5%.
DIEN LUC
Trong những năm 1990 – 1996, Điện lực Lâm Đồng đã lắp đặt thêm 47.700 KVA máy biến thế trung gian và xây dựng
vận hành hơn 400km đường dây cao thế, gần 100km đường dây trung thế, đưa tổng chiều dài đường dây các loại lên
1.581km.
Nguồn điện cung cấp cho Lâm Đồng lấy từ hệ thống điện lực miền Nam thuộc Tổng Công ty Điện lực Việt Nam và
được truyền tải từ nhà máy điện Đa Nhim và nhà máy thuỷ điện Suối Vàng là chủ yếu. Nhà máy thủy điện Đa Nhim (công
suất 160 MW), thủy điện Suối Vàng (công suất 3,1 MW), thủy điện Hàm Thuận - Đa Nhim (công suất 475 MW) và thủy
điện Đại Ninh đang được thi công (công suất 300 MW), các nhà máy điện diêzen Bảo Lộc, Di Linh, Càn Rang với tổng
công suất 4,16 MW. Hiện nay, 100% số xã có điện đến trung tâm.
Tổng công suất lắp đặt của các nhà máy điện trong tỉnh đạt 7,865 MW. Sản lượng điện phát ra năm 2000 đạt 28,081
triệu kWh.
VAN HOA XA HOI
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
Lâm Đồng là một vùng đất cổ, có cảnh quan địa mạo đa dạng, cấu tạo địa chất phức tạp với nhiều dân tộc anh em
thuộc ngữ hệ Môn – Khơ Me và ngữ hệ Malayô – Pôlynêxia lần lượt đến sinh sống trên mảnh đất Nam Tây Nguyên này.
Vùng đất Lâm Đồng còn lưu giữ nhiều dấu tích văn hoá, lịch sử của các dân tộc.
Trong nhiều năm qua, nhiều di tích lịch sử được quan tâm tiếp cận nghiên cứu, nổi tiếng nhất là khu di tích Cát Tiên.
Văn học dân gian khá phong phú nhưng văn học viết của Lâm Đồng còn hết sức non trẻ.
Nghệ thuật ở Lâm Đồng được hình thành trên nền văn hoá Việt, văn hoá các dân tộc thiểu số bản địa và một phần
của văn hoá các tộc người thiểu số phía Bắc. Sự phối hợp giữa các yếu tố văn hoá này với nhau tạo thành nét riêng cho
văn hoá Lâm Đồng nói chung và nghệ thuật nói riêng.
Các thiết chế văn hoá gồm có:
- Thư viện tổng hợp tỉnh Lâm Đồng và Thư viện các huyện
- Bảo tàng Lâm Đồng
- Trung tâm văn hoá tỉnh Lâm Đồng, thị xã Bảo Lộc và các huyện: Di Linh, Đơn Dương, Đạ Tẻh
- Nhà văn hoá cụm xã và các xã

- Xí nghiệp in Lâm Đồng
- Công ty Điện ảnh tỉnh Lâm Đồng
- Công ty Phát hành sách Lâm Đồng
Hoạt động văn hoá – thông tin :
Hoạt động văn hoá thông tin thời kỳ 2001-2005 tiếp tục được tăng cường, từng bước đổi mới về nội dung,
hình thức, lượng thông tin ngày càng phong phú hơn đã góp phần nâng cao đời sống tinh thần các tầng lớp nhân
dân và tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đồng thời phục vụ tốt nhiệm vụ
chính trị. Đến nay đã có 11/12 huyện có đài phát thanh, truyền hình, đã phủ sóng phát thanh, truyền hình trên
85% diện tích toàn tỉnh, 85% số hộ được xem truyền hình, 80% số hộ được nghe đài phát thanh. Hàng năm, thời
kỳ 2001-2005 để phục vụ công tác tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị, toàn tỉnh đã cắt dán, kẻ vẽ trên
6.000 m
2
pa nô, cắt dán trên 12.000 mét băng rôn và treo hàng ngàn lá cờ các loại, hàng trăn lượt xe hoa, các
buổi triển lãm. Các đội thông tin lưu động và đoàn ca múa nhạc dân tộc tỉnh đã tổ chức trên 400 buổi biểu diễn
nghệ thuật và hàng trăm buổi chiếu phim phục vụ đến tận vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
thu hút hàng trăm ngàn lượt người đến xem.
Hệ thống thư viện công cộng trong những măm qua đã phục vụ có hiệu qủa nhiệm vụ chính trị và nâng cao
dân trí. Mạng lưới thư viện được củng cố, sách báo trong thư viện được đa dạng hoá. Toàn tỉnh hiện nay có 12
thư viện với 112.552 đầu sách, 292,6 ngàn bản sách năm 2005, tăng 42,6 ngàn bản so năm 2000, trong đó só
sách thư viện huyện đạt 136,5 ngàn bản, tăng 32,5 ngàn bản so năm 2000. Số phòng đọc, tủ sách xã, phường, thị
trấn từng bước được đầu tư, trang bị nên tăng nhanh từ 9 phòng đọc, tủ sách năm 2001 lên 78 phòng đọc, tủ
sách năm 2004.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được đẩy mạnh. Hiện nay phong trào đã phát
triển sâu rộng ở tất cả các địa phương, các tầng lớp xã hội nhằm xây dựng, phát huy truyền thống thuần phong,
mỹ tục, gữi gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Kết quả, năm 2000 cả tỉnh cú 56.437 hộ gia đình văn hoá, đến năm
2005 số hộ gia đình văn hoá đạt 120.132 hộ, dự kiến năm 2005 đạt 198.000 hộ. Hiện nay, toàn tỉnh đã có 259
thôn, buôn, khu phố được công nhận đạt chuẩn văn hoá, đạt tỷ lệ 20,57% so với tổng số thôn, buôn, khu phố
tòan tỉnh; trong đó có 90 thôn, khu phố đạt chuẩn văn hoá cấp tỉnh và 169 thôn, khu phố đạt chuẩn cấp huyện.
Phong trào xây dựng gia đình văn hoá, làng, ấp, thôn, buôn, khu phố văn hoá còn lan toả đến các cơ quan,
trường học và trở thành tiêu chí thi đua không thể thiếu hàng năm. Đến năm 2005 đã có 754 đơn vị đạt chuẩn

văn hoá, tăng 206 đơn vị so năm 2004, tăng 410 đơn vị so năm 2003, tăng 493 đơn vị so năm 2002.
BAO CHI
Lâm Đồng có 4 cơ quan báo chí:
* Báo Lâm Đồng
* Đài Phát thanh – Truyền hình Lâm Đồng
* Tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ
* Tạp chí Lang Bian
Báo Lâm Đồng được thành lập ngày 21-6-1977. Từ năm 1999, báo Lâm Đồng phát hành mỗi tuần 3 số.
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
Đài Phát thanh Lâm Đồng phát đi bản tin đầu tiên ngày 27-4-1975. Hiện nay, Đài cùng lúc sử dụng 3 máy phát sóng:
sóng trung 10kW, sóng ngắn 5kW, sóng FM 1,3kW.
Đài Truyền hình Lâm Đồng chính thức phát sóng ngày 7-11-1985. Với máy phát sóng 5kW, Đài phát chương trình địa
phương và phát kênh sóng VTV3 thu từ vệ tinh, máy phát sóng 1kW tiếp phát các chương trình TVTV1, VTV2, VTV5
của Đài Truyền hình Việt Nam
GIAO DUC DAO TAO
Trong 5 năm qua (2001-2005), sự nghiệp giáo dục của tỉnh đã có những chuyển biến đáng kể. Mạng lưới trường, lớp
được duy trì và phát triển với hình thức đa dạng, rộng khắp trên toàn tỉnh. Quy mô giáo dục không ngừng tăng lên và
đang được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế, khắc phục tình trạng mất cân đối về cơ cấu lớp học, bậc học.
Đội ngũ giáo viên tiếp tục được tăng cường theo hướng chuẩn hóa. Cơ sở vật chất kỹ thuật tuy còn nhiều khó khăn
nhưng cũng đã được củng cố và nâng cấp. Hiện nay, Lâm Đồng đã có một hệ thống giáo dục tương đối hoàn chỉnh,
thống nhất và đa dạng, được hình thành các cấp học và trình độ từ mầm non đến đại học. Hệ thống giáo dục đang từng
bước được xã hội hóa đa dạng về loại hình, phương thức và huy động nguồn lực cho phát triển giáo dục. Nền giáo dục
ở Lâm Đồng cơ bản đáp ứng được mục tiêu nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực và đào tạo nhân tài góp phần đắc lực
để phát triển kinh tế-xã hội và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hoá tỉnh nhà.
* Quy mô giáo dục:
Giáo dục mầm non: Trong những năm thời kỳ 2001-2005, các địa phương trong tỉnh đã tích cực vận động gia đình
đưa trẻ đến lớp. Năm học 2005-2006, toàn tỉnh có 48.607 trẻ đi học mầm non, tăng 21,79% so với năm học 2000-2001,
tăng bình quân mỗi năm khoảng 4,02%. Tuy nhiên, mức độ tăng không đồng đều giữa các năm học, từ năm học 2000-
2001 đến năm học 2003-2004 tăng không đáng kể, riêng năm học 2004-2005 tăng mạnh ( tăng 13,25%) so năm học

2003-2004. Hiện nay các loại hình nhà trẻ và mẫu giáo ngoài công lập phát triển mạnh và hầu hết các địa phương số trẻ
em đi nhà trẻ và mẫu giáo đã tăng so với các năm học trước.
Giáo dục phổ thông: Quy mô học sinh tiểu học tiếp tục giảm, tiến dần đến ổn định do thực hiện chính sách dân số và
kế hoạch hoá gia đình nên độ tuổi dân số trong độ tuổi 6-10 tuổi giảm dần trong những năm gần đây (trong 5 năm qua
đã giảm 2,5%). Năm học 2005-2006, toàn tỉnh có 127.739 học sinh tiểu học, giảm 14,77% so với năm học 2000-2001
(giảm 22.144 học sinh), giảm bình quân 3,15% mỗi năm .
Số học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thổng tăng khá nhanh trong những năm gần đây do ngành Giáo dục và
Đào tạo tỉnh phối hợp với các địa phương tập trung chỉ đạo để hoàn thành phổ cập trung học cơ sở vào năm 2007. Năm
học 2005-2006 có 99.203 học sinh trung học cơ sở, tăng 27,26% so với năm học 2000-2001 ( tăng 21.248 học sinh), mức
tăng bình quân hàng năm đạt 4,94%. Sè học sinh trung học phổ thông lµ 44.538 häc sinh, tăng 63,27% so với năm học
2000-2001 (tăng 17.260 học sinh), tăng bình quân hàng năm 10,3%.
* Mạng lưới trường lớp:
Mạng lưới trường tiếp tục được củng cố và phát triển. Hầu hết các địa phương trong tỉnh đều đã có hệ thống trường,
lớp ngoài công lập.
Giáo dục mầm non: Năm học 2005-2006, toàn tỉnh có 160 trường mầm non so với năm học 2000-2001 số trường
tăng tang thêm 57 trường. Quy mô trường học tăng ở hầu hết ở các loại trường, trong đó trường hệ công lập tăng
nhanh, từ 29 trường năm học 2000-2001 tăng lên 82 trường năm học 2005-2006, tăng 182,76% ( tăng 53 trường).
Giáo dục phổ thông: Năm học 2005-2006 cả tỉnh có 247 trường tiểu học, tăng 2 trường so năm học 2000-2001; có
105 trường trung học cơ sở, tăng 26 trường so năm học 2000-2001; 22 trường trung học phổ thông, tăng 9 trường;
20 trường liên cấp tiểu học và trung học cơ sở, tăng 8 trường và 29 trường liên cấp trung học cơ sở và trung học phổ
thông, tăng 9 trường so năm học 2000-2001. Cùng với sự biến động về trường thì số lớp cũng có sự biến động đáng
kể. Năm học 2004-2005, toàn tỉnh có 4.309 lớp tiểu học, giảm 777 lớp so năm học 2000-2001; số lớp trung học cở sở
là 2.511 lớp, tăng 576 lớp và 1.086 lớp phổ thông, tăng 438 lớp so năm học 2000-2001. Xu hướng trong những năm
tới, số lớp cấp tiểu học tiếp tục giảm, số lớp cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông sẽ tăng lên.
* Đội ngũ giáo viên :
Cùng với đa dạng hoá các loại hình giáo dục, đội ngũ giáo viên ở các ngành học mầm non, phổ thông đã phát triển về
số lượng và tăng cường chất lượng theo hướng chuẩn hoá.
Năm học 2005-2006, toàn tỉnh có 2.242 giáo viên mầm non; 5.168 giáo viên tiểu học; 4.477 giáo viên trung học
cơ sở và 2.018 giáo viên trung học phổ thông. So với năm học 2000-2001, số giáo viên mầm non tăng 16,59%; giáo
viên tiểu học tăng 4,15%; giáo viên trung học cơ sở tăng 46,74% và giáo viên trung học phổ thông tăng 71,45%. So

với định mức về giáo viên/lớp của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì giáo viên toàn tỉnh cấp tiểu học thừa 150 giáo viên,
cấp trung học cơ sở còn thiếu 196 giáo viên.
Trước yêu cầu về nâng cao chất lượng giáo viên, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn hàng năm cũng tăng lên đáng kể. Tỷ
lệ giáo viên đạt chuẩn bậc tiểu học từ 80,03% năm học 2000-2001 tăng lên 95,78% năm học 2004-2005; cấp trung học cơ
sở cũng tăng từ 86,59% năm học 2000-2001 tăng lên 92,72% năm học 2004-2005 và cấp trung học phổ thông tỷ lệ giáo viên đạt
chuẩn năm học 2004-2005 là 90%.
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
Giáo viên giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiêp cũng tăng cả về số lượng và chất
lượng. Đến năm 2005 trên địa bàn toàn tỉnh có 332 giáo viên giảng dạy đại học, 91 giảng viên giảng dạy cao đẳng và
145 giảng viên giảng dạy trung học chuyên nghiệp. Số giảng viên có trình độ trên đại học ở các trường đại học năm học
2005-2006 đạt 46,99%, tăng gần 2% so với năm học 2000-2001; ở các trường cao đẳng đạt 41,76%, tăng 3,5% và ở
các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10,34%, tăng 4,78% so năm học 2000-2001.
* Phổ cập giáo dục :
Kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học tiếp tục được duy trì và phát triển. Toàn tỉnh đã hoàn thành chương
trình xoá mù chữ và phổ cập tiểu học từ năm 1997, đến nay 12/12 huyện, thị, thành phố vẫn giữ được chuẩn xoá mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Công tác phổ cập trung học cơ sở tiếp tục được đẩy mạnh. Năm học 2005-2006, toàn
tỉnh có 82/145 xã, phường, thị trấn hoàn thành hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, tăng 53 xã so năm học 2000-2001;
nâng tỷ lệ số xã, phường, thị trấn hoàn thành phổ cập cấp trung học cơ sở trên tổng số xã, phường, thị trấn từ 21,01%
năm học 2000-2001 lên 56,55% năm học 2005-2006. Phấn đấu đến năm học 2007-2008, toàn tỉnh sẽ hoàn thành xong
chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
* Chất lượng và hiệu quả giáo dục :
Hệ thống trường, lớp ngày càng mở rộng và được bố trí hợp lý nên số học sinh bỏ học giảm rõ rệt thể hiện qua công
tác duy trì sĩ số. Tỉ lệ giảm sĩ số chung cả 3 cấp học giảm từ 3,31% năm học 2000-2001 xuống còn 2,22% năm học
2004-2005 ; trong đó cấp tiểu học giảm từ 1,95% xuống 1,26%, cấp trung học cơ sở giảm từ 4,69% xuống 3,02% và cấp
trung học phổ thông giảm từ 4,81% xuống còn 3,32%.
Tỷ lệ hoàn thành cấp học qua các năm học đối với tiểu học xu hướng tăng lên, từ 99,14% năm học 2000-2001 đến
99,92% năm học 2004-2005; cấp trung học phổ thông cũng tăng từ 84,16% năm học 2000-2001 lên 85,69% năm học
2004-2005. Riêng cấp trung học cơ sở, tỷ lệ tốt nghiệp giảm xuống từ 96,06% năm học 2000-2001 còn 93,48% năm
học 2004-2005. Nhìn chung tỷ lệ hoàn thành các cấp học không ổn định qua các năm học, không đồng đều giữa các cấp

học do công tác đổi mới phương pháp dạy và học đã được triển khai nhưng chưa đồng bộ; cơ sở vật chất, kỹ thuật,
nhất là đồ dùng dạy học, phòng thí nghiệm, thiết bị thực hành còn thiếu thốn; công tác phụ đạo, kèm cặp học sinh yếu
một số trường chưa được quan tâm đúng mức. Ngoài ra trong những năm qua, các khối tiến hành thay sách giáo khoa
theo quy định của Bộ Giáo dục - Đào tạo nhưng việc tiếp cận và triển khai giảng dạy theo nội dung sách mới của không
ít giáo viên còn lúng túng.
* Công tác giáo dục vùng đồng bào dân tộc :
Giáo dục dân tộc trong những năm qua tiếp tục phát triển ổn định, hệ thống trường dân tộc nội trú được củng cố và
mở rộng ngày càng đáp ứng nhu cầu học tập của con em dân tộc trong tỉnh. Năm học 2004-2005, toàn tỉnh Lâm Đồng
có 5 trường phổ thông dân tộc nội trú, trong đó có 1 trường dân tộc nội trú tỉnh với 1.300 học sinh đang theo học.
Số học sinh dân tộc các cấp phổ thông xu hướng tăng nhanh trong những năm qua, nhất là cấp trung học cơ sở và
trung học phổ thông. Năm học 2004-2005, toàn tỉnh có 63.167 học sinh dân tộc, chiếm 23,23% tổng số học sinh các cấp
học phổ thông toàn tỉnh, tăng bình quân hàng năm 6,1%. Trong đó cấp tiểu học có 39.466 học sinh, chiếm 29,94% trong
tổng số học sinh tiểu học toàn tỉnh, tăng 7,86% so năm học 2000-2001; cấp trung học cơ sở có 19.268 học sinh, chiếm
19,53% tổng số học sinh trung học cơ sở và tăng 108,6% và cấp trung học phổ thông có 4.433 học sinh, chiếm 10,7%
trong tổng số học sinh trung học phổ thông toàn tỉnh, tăng 282,16% so năm học 2000-2001.
Mặc dù đời sống vùng đồng bào dân tộc còn thấp so với mặt bằng chung của tỉnh, địa hình phức tạp, cách trở gây
khó khăn trong việc đi lại cho học sinh dân tộc, nhất là vào mùa mưa. Thực hiện chủ trương phát triển giáo dục đến vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc nên trong những năm qua hệ thống trường lớp được điều chỉnh, quy hoạch; phát
triển nhiều điểm trường tiểu học đến tận thôn buôn, mở các lớp nhỏ trung học cơ sở và trung học phổ thông nhằm rút
ngắn khoảng cách đi lại cho học sinh. Vì vậy tỉ lệ giảm sĩ số học sinh cuối năm học so với học sinh huy động đầu năm
học các cấp học liên tục giảm qua các năm học. Tỷ lệ giảm sĩ số cuối năm học cấp tiểu học từ 3,35% năm học 2000-
2001 giảm còn 1,92% năm học 2004-2005; cấp trung học cơ sở giảm từ 7,47% xuống còn 3,44% năm học 2004-2005 và
cấp trung học phổ thông từ 8,89% năm học 2000-2001 giảm xuống còn 3,8% năm học 2004-2005.
Song song với việc duy trì tốt công tác sĩ số thì chất lượng văn hóa các cấp học cũng từng bước được nâng lên, đạt
tỷ lệ khá cao tương đương với tỷ lệ bình quân chung các cấp học toàn tỉnh. Trong 5 năm, tỷ lệ xếp loại văn hoá trung
bình trở lên bình quân hàng năm cấp tiểu học đạt 92,5%; cấp trung học cơ sở đạt 80% và cấp trung học phổ thông đạt
54%
YTE
Thời kỳ 2001-2005, ngân sách Trung ương và địa phương đã chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
công tác y tế, nên hệ thống bệnh viện, trạm xã, phòng khám đa khoa được nâng cấp, sửa chữa, xây mới nên cơ bản

đáp ứng nhu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân trong tỉnh. Năm 2005, toàn tỉnh cú 181 cơ sở y tế Nhà nước,
trong đó có 12 bệnh viện, 1 bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng, 21 phòng khám đa khoa khu vực, 145/145 xã
có trạm y tế (trong đó 129 trạm độc lập và 16 trạm hoạt động lồng ghép). Số giường bệnh trên địa bàn toàn tỉnh hiện nay
có 2.402 giường, bình quân một nghìn dân đạt 2,08 giường vào năm 2005 với công suất sử dụng giường bệnh đạt
84,92%. Ngoài ra, để phục vụ công tác khám chữa bệnh cho nhân dân ngày một tốt hơn, bệnh viện tuyến tỉnh đã trang
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng
Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
bị máy CT Scanner, máy chạy thận nhân tạo, bộ khám điều trị nội soi Tai-Mũi-Họng; có 8/10 bệnh viện tuyến huyện đã
có gây mê, bàn mổ, đèn mổ, bộ dụng cụ trung phẩu, bộ dụng cụ phẫu thuật sản khoa; 100% xã có tủ lạnh để lưu trữ
vaccin; 127/145 trạm y tế có kính hiển vi.
Mạng lưới y tế cơ sở với các trạm y tế tuyến xã, phường, thị trấn là chủ yếu đã đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện
các hoạt động y tế dự phòng và cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Trong quá trình đổi mới và
phát triển, ngành Y tế đã thiết lập được mạng lưới y tế xã, phường rộng khắp từ tỉnh xuống cơ sở, từ thành thị đến nông thôn,
đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác y tế theo tinh thần Nghị quyết 90/CP của Chính phủ, Nghị quyết 06 của Tỉnh uỷ
Lâm Đồng và chỉ đạo của UBND tỉnh, ngành Y tế đã triển khai đa dạng hoá các hình thức khám chữa bệnh và huy động
nguồn lực đấu tư cho y tế. Mạng lưới y tế tư nhân cũng phát triển nhanh trong những năm qua, góp phần không nhỏ vào công
tác khám chữa bệnh, cung cấp thuốc cho nhân dân, đáp ứng nhu cầu thầy tại nhà, thuốc tại nhà của bệnh nhân, đồng thời
góp phần giảm quá tải trong các cơ sở khám chữa bệnh Nhà nước. Hiện nay, toàn tỉnh có 641 cơ sở hành nghề y, dược tư
nhân, trong đó hành nghề y là 369 cơ sở, hành nghề y học cổ truyền 102 cơ sở và 170 cơ sở hành nghề dược.
* Phát triển nhân lực:
Tính đến cuối năm 2005, toàn tỉnh có 557 bác sĩ, 83 dược sĩ đại học, 730 y sĩ và kỹ thuật viên và 276 dược sĩ trung
học và kỹ thuật viên dược. Tỷ lệ bác sỹ trên một vạn dân tăng lên đáng kể từ 4,39 bác sĩ năm 2000 tăng lên 4,81 bác sĩ
năm 2005. Ngoài số lượng y, bác sĩ, dược sĩ, còn một đội ngũ y tá, dược tá, nữ hộ sinh đã góp phần đáng kể trong
công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân những năm vừa qua. Tuy nhiên, số cán bộ y tế giữa các vùng không đồng đều,
trong đó ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc ít người thì số bác sĩ còn ít.
* Y tế dự phòng và công tác phòng chống dịch bệnh :
Ngành Y tế đã chủ động triển khai phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm gây dịch nên tình hình bệnh dịch
nói chung ổn định. Đặc biệt là phòng chống dịch viêm đường hô hấp cấp (SARS) và dịch cúm gia cầm lây qua người.
Việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế trong những năm vừa qua đã có nhiều chuyển biến tích cực.

Chương trình phòng chống bệnh sốt rét các năm qua đã có những tiến bộ rất khả quan, hàng năm không để xảy ra
dịch trên địa bàn toàn tỉnh, giảm mức độ lưu hành sốt rét từ 6,75% năm 2001 xuống còn 1,73% năm 2004, phấn đấu
năm 2005 không có trường hợp tỷ vong do sốt rét gây ra .
Chương trình phòng chống bệnh sốt xuất huyết tiếp tục được quan tâm và thu được kết quả đáng kể. Số người bị sốt
xuất huyết đã giảm nhiều trong những năm qua, làm giảm tỷ lệ mắc bệnh trên 100.000 dân từ 16,75 năm 2001 xuống
còn 4,8 năm 2004 và 4,1% năm 2005. Đặc biệt liên tục từ năm 2001 đến nay không có trường hợp tử vong do sốt xuất
huyết.
Chương trình phòng chống lao được thực hiện bằng các chiến dịch truyền thông về bệnh lao, đồng thời triển khai
rộng rãi mạng lưới chống lao. Tuy nhiên, trong các năm gần đây số bệnh nhân mắc lao mới có xu hướng tăng từ 38,36
trên 100.000 dân năm 2001 tăng lên 41,39 trên 100.000 dân năm 2005. Hiện nay, ngành đang quản lý, điều trị 100%
bệnh nhận lao mới phát hiện, tỷ lệ bệnh nhân lao điều trị khỏi đạt 88%.
Nhìn chung các chương trình quốc gia phòng chống dịch bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã được triển khai trong
nhiều năm qua và thực hiện có kết quả. Ngoài các chương trình trên, những năm qua ngành Y tế còn thực hiện một số
chương trình khác như: Chương trình phòng chống tiêu chảy ở trẻ em dưới 5 tuổi; chương trình nuôi con bằng sữa mẹ;
chương trình phòng chống thiếu máu do thiếu sắt; chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường. Các chương trình này đã
đạt được kết quả nhất định trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phòng ngừa bệnh tật và hạn chế các bệnh
gây dịch như bệnh tả, dịch hạch, thương hàn.
* Công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân:
Trong những năm qua, chất lượng công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân từng bước được tăng cường. Số người đến
khám chữa bệnh trong các cơ sở y tế ngày càng tăng; năm 2005 có 2.553,6 ngàn lượt người đến khám, chữa bệnh tại các cơ
sở y tế Nhà nước, tăng 92,27% so năm 2001, bình quân hàng năm tăng 18,43%; số bệnh nhân điều trị nội trú 112,1 ngàn
người, tăng 35,06% so năm 2001.
Các dịch vụ chăm sóc nội trú và các dịch vụ miễn phí dành cho người nghèo và các đối tượng bảo trợ xã hội khác ngày
càng được quan tâm, đảm bảo tính công bằng trong việc được hưởng các dịch vụ y tế cho mọi người dân. Thực hiện các
quyết định của Nhà nước về khám chữa bệnh cho người nghèo, đặc biệt là thực hiện việc khám chữa bệnh theo phương
thức thực thanh, thực chi theo Quyết định số 142/QĐ-UB của UBND tỉnh Lâm Đồng, tính từ tháng 6/2002 đến tháng 6/2004
ngành y tế Lâm Đồng đã khám, chữa bệnh cho 493.968 lượt người nghèo, đồng bào dân tộc với tổng kinh phí chi trả 19,53 tỷ
đồng trong tổng số kinh phí 24,41 tỷ đồng để tổ chức khám chữa bệnh miễn phí chi người nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu
số trên địa bàn toàn tỉnh.
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng

Trường THPT Lạc Nghiệp Nguyễn Xuân Hùng
Đây là các tư liệu mới lấy chưa tinh chỉnh mong quý , thầy cô thông cảm vì quá bận
rộn . Hẹn gặp trong lần sau sẽ đưa lên đầy đủ, súc tích và cập nhật số liệu mới nhất của
tỉnh Lâm Đồng .
Nếu muốn có Đĩa CD « Địa chí Lâm Đồng » có thể liện hệ số điện thoại sau :
01683.333.454 . (Đĩa dùng dạy học địa phương các môn : Địa –Sử- Văn lớp 9 &12)
Chúc thầy cô luôn thành công và có kỳ nghỉ hè vui, bổ ích
Lưu ý quan trọng : Thầy cô bôi đen đoạn cần lấy rồi copy dan sang trang word mới
nhé ! (Ở đây khong cho chỉnh sửa)
Tư liệu dạy học Địa lý địa phương –Tỉnh Lâm Đồng

×