Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

CÔNG TY HỢP DANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.21 KB, 11 trang )

Luật Thương Mại Trần Hồng Minh_341209
Lời mở đầu :
Việt Nam đang ngày càng phát triển kinh tế - xã hội và hòa nhập vào nền
kinh tế thế giới. Do đó đã có rất nhiều cơ sở kinh tế - doanh nghiệp ra đời với
nhiều loại hình kinh doanh khác nhau. Để tạo điều kiện cho nền kinh tế phát
triển bắt kịp với thế giới và tạo nên môi trường kinh doanh đa dạng các loại hình
để các nhà kinh doanh lựa chọn thì Luật doanh nghiệp ( 2005 ) được quốc hội
nước ta thông qua ngày 29/11/2005 thay thế cho luật doanh nghiệp 1999 trước
đó còn sơ sài và mang tính chất chung chung. Công ty hợp danh là loại hình
doanh nghiệp xuất hiện sớm trên thế giới và ở Việt Nam thì năm 1999 chính thức
được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh tại Luật doanh nghiệp năm 1999 và đến
luật doanh nghiệp năm 2005 đã được qui định khá cụ thể và rõ ràng tạo điều kiện
cho loại hình công ty này phát triển và các nhà kinh doanh lựa chọn hình thức
công ty hợp danh vào hoạt động kinh doanh.
Nội dung :
I. Khái niệm công ty hợp danh :
Đa số các nước trên thế giới, công ti hợp danh được pháp luật thừa nhận là
một loại hình đặc trưng của công ti đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên
cùng tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu
trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Pháp luật nhiều nước phân
tách thành hai loại hình công ty hợp danh riêng biệt là công ty hợp danh tuyệt
đối ( chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty )
và công ty hợp danh tương đối có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn
( chịu trách nhiệm hữu hạn) thì ở Việt Nam đồng thời ghi nhận sự tồn tại của hai
loại hình công ty hợp danh và được gọp chung dưới một cái tên là “ công ty hợp
danh “. Có thể thấy đây là điểm khác biệt cơ bản của pháp luật Việt Nam so với
pháp luật các nước trên thế giới nhưng khái niệm này của Luật doanh nghiệp
1
Luật Thương Mại Trần Hồng Minh_341209
năm 2005 thì có nội hàm công ty đối nhân theo pháp luật các nước. Tại khoản 1
điều 130 Luật doanh nghiệp 2005 đã định nghĩa về công ty hợp danh dưới dạng


liệt kê các đặc điểm cơ bản của nó :
1. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
a) Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng
nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài
các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Việc định nghĩa công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản
của nó và gộp chung hai loại hình công ty hợp danh như trên thế giới đã phân
loại tuy là một sự cộng gộp khá gọn gàng nhưng khái niệm này cũng làm phát
sinh nhiều vấn đề. Ở các nước trên thế giới thì sẽ có 2 quy chế điều chỉnh riêng
biệt cho hai hình thức của công ty hợp danh nhưng ở Việt Nam thì điều chỉnh
dưới một qui chế chung. Điều này sẽ làm phát sinh vấn đề về quy định số lượng
thành viên tối thiểu trong công ty hợp danh khi nó là điều kiện bắt buộc công ty
giải thể. Đối với công ty hợp danh thông thường chỉ bao gồm một loại thành viên
hợp danh thì khi không đủ hai thành viên hợp danh trong 6 tháng thì công ty sẽ
phải giải thể theo qui định của pháp luật. Công ty hợp danh hữu hạn thì việc xác
định sẽ là phức tạp, bởi vì theo qui định của Luật doanh nghiệp thì ngoài các
thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn mà không qui định phải có tối
thiểu bao nhiêu thành viên góp vốn. Theo qui định chung thì không còn đủ 2
2
Luật Thương Mại Trần Hồng Minh_341209
thành viên hợp danh thì công ty giải thể áp dụng điều này thì công ty hợp danh
hữu hạn mà không còn một thành viên góp vốn nào thì công ty cũng không phải
giải thể, điều này là không hợp lý bởi vì thành viên góp vốn có ý nghĩa quan
trọng đối với công ty hợp danh hữu hạn, khi không còn thành viên góp vốn thì
bản chất công ty hợp danh hữu hạn cũng thay đổi. Vì vậy cũng còn nhiều vấn đề
về khái niệm công ty hợp danh để áp dụng pháp luật điều chỉnh loại hình công ty

hợp danh.
II. Thành viên công ty hợp danh :
Công ty hợp danh bao gồm hai loại thành viên đó là thành viên hợp danh
và thành viên góp vốn theo qui định của Luật doanh nghiệp năm 2005. Công ty
hợp danh thì bắt buộc phải có thành viên hợp danh ( ít nhất 2 thành viên ) và có
thể có thành viên góp vốn.
A. Thành viên hợp danh :
“ Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty “ tại điểm b khoản 1 điều 130 Luật
thương mại 2005 . Vì vậy thành viên hợp danh trong công ty hợp danh chỉ có thể
là cá nhân mà không thể là tổ chức hoặc pháp nhân. Trách nhiệm tài sản của các
thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ của công ti là trách nhiệm vô hạn và
liên đới. Chủ nợ có quyền yêu cầu bất kì thành viên hợp danh thanh toán các
khoản nợ của công ty đối với chủ nợ. Mặt khác các thành viên hợp danh phải
bằng toàn bộ tài sản của mình chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty.
Quyền hạn và nghĩa vụ của thành viên hợp danh được qui định tại điều 134 Luật
doanh nghiệp, do phải chịu trách nhiệm vô hạn nên các thành viên hợp danh có
những quyền hạn trong sự tồn tại và phát triển của công ty ở cả hai mặt pháp lý
và thực tế. Thành viên hợp danh có quyền điều hành, quản lý, sử dụng tài sản
của công ty…. vào việc kinh doanh và cũng phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ
theo đúng của qui định pháp luật. Ngoài ra thành viên hợp danh vẫn phải liên đới
3
Luật Thương Mại Trần Hồng Minh_341209
chịu trách nhiệm ngay cả khi đã chấm dứt tư cách thành viên công ty như qui
định tại khoản 5 điều 138 Luật doanh nghiệp năm 2005.
Tại khoản 2 điều 13 Luật doanh nghiệp thì qui định các cá nhân như cán
bộ, công chức, sĩ quan, người chưa thành niên, ….. thì không thể trở thành thành
viên hợp danh của công ty hợp danh được do vai trò quan trọng của thành viên
hợp danh trong việc thành lập và quản lý công ty.
Tuy nhiên để bảo vệ lợi ích công ty thì pháp luật quy định một số hạn chế

đối với quyền của thành viên hợp danh như : Không được làm chủ doanh nghiệp
tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác ( trừ trường hợp
được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại ), không được quyền chuyển
một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu
không đươc sự chấp nhận của các thành viên hợp danh còn lại ( nếu không hạn
chế điều này thì sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của công ty và môi trường
kinh doanh), không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác
thực hiện kinh doanh cùng ngành nghề kinh doanh của công ty đó.
Trong quá trình hoạt động thì công ty hợp danh có quyền tiếp nhận thêm
thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Việc tiếp nhận thêm thành viên phải
được hội đồng thành viên chấp thuận. Thành viên hợp danh mới được tiếp nhận
vào công ty phải cùng liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của nình đối
với khoản nợ và nghĩa vụ của công ti. Tại điều 138 luật doanh nghiệp năm 2005
thì quy định các trường hợp mà chấm dứt tư cách thành viên của công ty hợp
danh. Ví dụ như tự nguyện rút vốn khỏi công ty đã tạo sự linh hoạt cho thành
viên có thể tạm ngừng kinh doanh hoặc chuyển sang hướng kinh doanh khác.
Tuy nhiên thành viên hợp danh chỉ được rút vốn nếu được hội đồng thành viên
chấp thuận và phải thông báo và thông báo bằng văn bản yêu cầu rút vốn chậm
nhất sáu tháng trước ngày rút vốn bởi vì rút vốn làm cơ cấu quản lý và hoạt động
của công ty bị ảnh hưởng.
4
Luật Thương Mại Trần Hồng Minh_341209
B. Thành viên góp vốn :
Thành viên góp vốn cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc kinh
doanh của công ty, tạo điều kiện cho công ty mở rộng quy mô và phát triển hoạt
động kinh doanh của mình. “ Ngoài thành viên hợp danh thì công ty hợp danh có
thể có thêm thành viên góp vốn “ điều này được qui định trong Luật doanh
nghiệp năm 2005. Thành viên góp vốn có thể là các tổ chức hoặc cá nhân, khác
so với thành viên hợp danh chỉ có thể là cá nhân.
Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty

trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, là thành viên của công ty đối nhân
nhưng thành viên góp vốn hưởng chế đọ trách nhiệm tài sản như một thành viên
của công ty đối vốn. Họ hưởng lợi nhuận dựa trên phần vốn góp và chịu rủi ro
trong phần vốn góp đó và có các quyền cơ bản như được tham gia họp, biểu
quyết tại hội đồng thành viên, cung cấp thông tin kinh doanh của công ty …tuy
nhiên họ cũng bị hạn chế những quyền cơ bản của một thành viên công ty.
Thành viên góp vốn không được tham gia quản lý công ty, không được hoạt
động kinh doanh nhân danh công ty điều này xuất phát từ chế độ chịu trách
nhiệm hữu hạn của thành viên góp vốn. Họ chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi
vốn góp của mình do đó việc tham gia của thành viên góp vốn vào công ty là an
toàn và thoải mái hơn so với thành viên hợp danh, nên các quyền quản lý và kinh
doanh công ty được giao cho thành viên hợp danh quyết định sẽ cẩn thận và tính
toán kỹ lưỡng nhằm tránh rủi ro cho cả cá nhân họ và công ty. Tuy nhiên theo
qui định của luật doanh nghiệp năm 2005 về nghĩa vụ của thành viên góp vốn thì
có sự mâu thuẫn giữa hai điều luật đó là điểm a khoản 2 điều 140 : “Chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn
đã cam kết góp” và khoản 1 điều 130 “Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm
về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.” Có sự
mâu thuẫn vì vốn đã cam kết góp và vốn góp là hai khái niệm khác nhau, vốn
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×