LỜI MỞ ĐẦU
Một nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ và sức hội nhập cao như Việt Nam là mảnh
đất màu mỡ cho sự phát triển của các giao dịch dân sự. Trong đó, giao dịch dân sự diễn
ra phổ biến nhất là giao dịch mua bán tài sản. Căn cứ vào chủ thể, mục đích và đối tượng
của hành vi mua bán, giao dịch mua bán có thể được phân chia thành giao dịch mua bán
tài sản có tính chất dân sự và giao dịch mua bán hàng hóa (mua bán tài sản trong thương
mại). Những qui định của pháp luật về hai loại hợp đồng này lần lượt được ghi nhận
trong Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại 2005. Việc nhận biết các điểm giống và khác
nhau của hai loại hợp đồng này có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các chủ thể tham
gia và thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa mà còn cả đối với các chủ thể áp dụng và
xây dựng pháp luật.
NỘI DUNG
I. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hoá (theo quy định của Luật thương mại 2005) và
hợp đồng mua bán tài sản (theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005):
Hợp đồng mua bán tài sản, theo định nghĩa tại Điều 428, BLDS 2005 là: ‘Hợp đồng
mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản
cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.”
Mua bán hàng hóa là nội dung trọng tâm của hoạt động thương mại, theo Luật
thương mại 2005, mua bán hàng hóa được định nghĩa là: “ Hoạt động thương mại, theo
đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận
thanh toán, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hóa theo thỏa thuận.” Là một hoạt động thương mại, bản thân mua bán hàng hóa đã
có những đặc điểm riêng so với hoạt động mua bán tài sản trong quan hệ dân sự, đó là
mục đích sinh lợi, là hành vi mang tính chất nghề nghiệp chủ yếu do thương nhân thực
hiện.
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lí là
hợp đồng mua bán hàng hoá (HĐMBHH). Dù Luật Thương mại 2005 không đưa ra định
nghĩa về HĐMBHH song có thể các định bản chất pháp lí của HĐMBHH trong thương
mại trên cơ sở điều 428 của Bộ luật Dân sự về hợp đồng mua bán tài sản (HĐMBTS). Do
đó, HĐMBHH trong thương mại là một dạng cụ thể của HĐMBTS, dù vẫn mang những
nét đặc thù riêng về chủ thể, đối tượng, hình thức…, thoả thuận về việc MBHH ở hiện tại
hoặc MBHH sẽ có ở một thời điểm nào đó trong tương lai đều có thể là một HĐMB.
Quan hệ HĐMBHH sẽ hình thành bất cứ khi nào nếu một chủ thể mua hàng hoá bằng
tiền hoặc phương thức thanh toán khác và nhận quyền sở hữu hàng hoá.
II. So sánh hai loại hợp đồng:
1. Những điểm giống nhau :
Với phạm vi áp dụng của Bộ luật Dân sự năm 2005 (khoản 1, Điều 1), các qui
định về hợp đồng dân sự được áp dụng cho hợp đồng nói chung (trong các lĩnh vực
dân sự, kinh doanh, thương mại và lao động). Về mặt lí luận, hợp đồng mua bán
hàng hóa được qui định trong luật thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng
mua bán tài sản trong dân sự. Chúng đều là sự thỏa thuận giữa bên bán và bên mua,
theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu cho bên mua, bên
mua có nghĩa vụ nhận hàng, quyền sở hữu và thanh toán cho bên bán. Các vấn đề
như giao kết hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lí hợp đồng vô hiệu, thực hiện hợp
đồng và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng không có sự khác biệt.
2. Những điểm khác biệt:
Thứ nhất, về đối tượng. HĐMBHH trong thương mại có đối tượng là hàng hoá.
Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định :
“Hàng hoá bao gồm :
a)Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
b) Những vật gắn liền với đât đai.”
Như vậy, hàng hoá trong thương mại là đối tượng mua bán có thể là hàng hoá hiện
đang tồn tại hoặc sẽ có trong tương lai, hàng hoá có thể là động sản hoặc bất động sản
được phép lưu thông thương mại và phải loại trừ một số hàng hoá đặc biệt chịu sự điều
chỉnh riêng như cổ phiếu, trái phiếu… Trong khi đó, đối tượng vủa mua bán tài sản là tài
sản được phép giao dịch ( Điều 429 BLDS). Theo qui định tại Điều 163 của BLDS, tài
sản là đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản không chỉ gồm có động sản, vật gắn liền
với đất đai mà còn có bất động sản theo qui định tại khoản 1 Điều 174 BLDS, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản khác.
Thứ hai, về chủ thể. chủ thể trong HĐMBHH chủ yếu là thương nhân. Khái niệm về
thương nhân được đề cập đến trong khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại bao gồm : tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng kí kinh doanh. Thương nhân là chủ thể của HĐMBHH có thể là thương
nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong HĐMBHH quốc tế). Ngoài chủ thể
là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành
chủ thể của HĐMBHH. Hoạt động của chủ thể không phải là thương nhân và không
nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ HĐMBHH chỉ phải tuân theo Luật Thương maị
khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật Thương mại. Trong khi đó, chủ thể tham gia
HĐMBTS có thể là mọi tổ chức, cá nhân đầy đủ năng lực, có nhu cầu mua bán tài sản, có
sự mở rộng hơn rất nhiều so với chủ thể trong HĐMBHH.
Thứ ba, về mục đích. HĐMBHH trong thương mại chủ yếu là để kinh doanh thu lợi
nhuận cho các thương nhân. Chỉ phần nào đó phục vụ mục đích tiêu dùng và các mục
đích khác cho cả thương nhân và những chủ thể không phải thương nhân tuỳ theo mong
muốn và nhu cầu của họ trong từng thời điểm.
Điều đó khác với HDMBTS qui định trong BLDS, hành vi ở đây chỉ thuần túy mua
và bán. Ví dụ một người nào đó có thể mua nhà để ở, thương nhân có thể mua nhà để
kinh doanh. Ở đây khách thể của hai hành vi đều là ngôi nhà nhưng sự quan tâm của hai
chủ thể đối với ngôi nhà là khác nhau. Đối với người mua nhà để ở, sự quan tâm của nó
chủ yếu tập trung vào thuộc tính thứ nhất của ngôi nhà, đó là giá trị sử dụng. Còn đối với
người mua để bán lại quan tâm nhiều hơn đến thuộc tính thứ hai của ngôi nhà, đó là giá
trị.
Thứ tư, về hình thức. Mặc dù hai loại hợp đồng này đều có thể xác lập bằng lời nói,
văn bản hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên, trong thực tế kinh doanh chúng ta thấy rằng, đối
tượng là hàng hoá thường mang số lượng nhiều, giá trị lớn và để đảm bảo lợi ích, tránh
xảy ra tranh chấp không đáng có thì hình thức hợp đồng bằng văn bản hay được ưu tiên
do những ưu điểm vốn có của nó (minh bạch, rõ ràng, có thể dễ dàng đưa ra làm bằng
chứng khi có tranh chấp).
Thứ năm, về nội dung. Nội dung của HĐMBHH là các điều khoản do các bên thoả
thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng, là sự phát triển
tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống về HĐMBTS. Có rất nhều sự tiếp tục
tạo nên sự khác biệt như : Khó có thể tìm thấy điều luật cụ thể trong Bộ luật Dân sự về
nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ của HĐMBTS, nhưng trong Luật Thương mại
được đề cập trong Điều 46 như sau:
“1. Bên bán không được bán hàng hoá vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Bên bán phải
chịu trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ với
hàng hoá đã bán.
2.Trường hợp bên mua yêu cầu bên bán phải tuân theo bản vẽ kĩ thuật, thiết kế, công
thức hoặc những số liệu chi tiết do bên mua cung cấp thì bên mua phải chịu trách nhiệm
về các khiếu nại liên quan đến những vi phạm quyền sử hữu trí tuệ phát sinh từ việc bên
bán đã tuân thủ những yêu cầu của bên mua.”
Điểm đặc biệt hơn, giá không phải là nội dung bắt buộc để HĐMBHH có hiệu lực.
Bởi ngay cả khi không có sự thoả thuận về giá hàng hoá, không có sự toản thuận về
phương pháp xác định giá và cũng không có bất kì chỉ dẫn nào khác về giá thì giá của
hàng hoá được xác định theo giá của loại hàng hoá đó trong các điều kiện tương tự về
phương thức giao hàng, thời điểm mua bán hàng hoá, thị trường địa lí, phương thức thanh
toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá (Điều 52 Luật Thương mại 2005). Trong
HĐMBTS thường mang tính chất nhỏ, lẻ thì việc toản thuận về giá mang ý nghĩa rất lớn.
Để tránh xảy ra tranh chấp các chủ thể, đặc biệt là các thương nhân phải rất chú ý điểm
khác biệt này trong kinh doanh.
KẾT LUẬN
HDMBHH và HDMBTS có những đặc điểm giống nhau và cũng có những đặc trưng
của mình, chúng thể hiện rõ mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung. Việc pháp luật có
những qui định riêng về hai loại hợp đồng này, trong đó HDMBTS làm gốc, đã đáp ứng
nhu cầu của xã hội, đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự 2005.
2. Luật Thương mại 2005.
3. Giáo trình luật thương mại, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB. CAND, 2009.
4. Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 2, TS. Lê Đình Nghị, NXBGD, 2010.
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP CÁ NHÂN TUẦN
MÔN : LUẬT THƯƠNG MẠI MODULE 2
Đề bài số 11:Tìm hiểu về thực trạng bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng ở Việt Nam hiện nay. Phân tích những quy định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng, từ đó đề ra các giải pháp.
HỌ VÀ TÊN: NGUYÊN THANH TÙNG
MSSV: 342148
LỚP: NO4. TL1 – NHÓM 02
Hà Nội – 09/ 2011