Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.88 KB, 57 trang )

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Đức Bảo, giảng
viên Luật Hiến pháp, trường Đại học Luật Hà Nội, người đã
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo em trong việc nghiên cứu đề tài
này. Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô giáo
Trường Đại học Luật Hà Nội, gia đình và bạn bè đã dìu dắt,
động viên em trong suốt những năm học qua cũng như
trong quá trình em hoàn thành bài khóa luận.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
MỤC LỤC
Chương I
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2
1.3.
Chương II
2.1
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.2.5.


MỞ ĐẦU
Khái quát chung về chế độ kinh tế và chính sách kinh
tế
Khái niệm về kinh tế, chế độ kinh tế, chính sách kinh tế
Khái niệm kinh tế
Khái niệm chế độ kinh tế
Khái niệm chính sách kinh tế
Phân biệt chế độ kinh tế và chính sách kinh tế
Vai trò của chính sách kinh tế
Chính sách kinh tế của Nhà nước theo HP 1992
Cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn
Cơ sở lý luận
Cơ sở pháp lý
Cơ sở thực tiễn
Chính sách phát triển kinh tế
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng XHCN.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân.
Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
được bình đẳng với nhau trước pháp luật.
Các chính sách kinh tế đối ngoại :
Khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
01
03
03

03
04
05
05
06
08
08
08
10
12
13
15
19
20
20
21
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
2
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
2.3.
2.3.1.
2.3.2.
2.3.3.
2.3.4.
2.3.5.
Chương III
3.1.
3.2.
Chính sách đối với từng thành phần kinh tế.
Đối với kinh tế nhà nước

Đối với kinh tế tập thể
Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân
Đối với kinh tế tư bản nhà nước
Đối với kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài
Thực tiễn thực hiện và giải pháp, phương hướng.
Thực tiễn thực hiện.
Phương hướng, giải pháp.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
22
22
26
27
31
33
37
37
46
53
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
3
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CHXHCN: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
GDP: Tổng thu nhập quốc dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
4
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B

MỞ ĐẦU
Việt Nam - một dân tộc anh dũng đã bước qua cuộc đấu tranh giành độc
lập tự do, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự ngạc nhiên
và khâm phục của bạn bè thế giới. Song, công cuộc xây dựng đất nước, phát triển
kinh tế - xã hội, với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã làm
cho nước ta tụt hậu xa về mọi mặt từ kinh tế - văn hóa - đời sống xã hội… so với
các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên toàn thế giới nói chung. Nền
kinh tế đó đã tạo ra tình trạng lạm phát, sự khan hiếm hàng hoá, nạn tham nhũng,
suy thoái về đạo đức của cán bộ đảng viên, cùng hàng loạt những tiêu cực khác.
Từ những thực trạng nói trên việc đưa ra một chính sách mới để cải thiện
và phát triển nền kinh tế nhằm rút ngắn khoảng cách lạc hậu và nghèo khó so với
các nước trên thế giới là vô cùng cấp bách. Vì vậy, Hiến pháp nước CHXHCN
Việt Nam năm 1992 và Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc
hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt
Nam năm 1992 (Nghị quyết số 51/2001/QH10) đã có những sửa đổi, bổ sung cơ
bản về chính sách kinh tế. Nền kinh tế nước ta được hoạch định theo hướng xóa
bỏ cơ chế quản lý quan liêu, tập trung, bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN. Theo đó, một loạt văn bản luật ra đời dựa trên tinh thần
Hiến pháp 1992 như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp… đã góp phần quan trọng,
tích cực thể chế hóa chủ trương, đường lối được đưa ra tại các kỳ Đại hội Đảng,
qua đó xây dựng một nền kinh tế phù hợp với sự phát triển của đất nước, phù hợp
với xu thế hội nhập trên toàn cầu. Chính vì lẽ đó em đã chọn đề tài: “Chính sách
kinh tế của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp
1992” cho khoá luận tốt nghiệp của mình nhằm đáp ứng nhu cầu cả về lý luận và
thực tiễn hiện nay đối với chính sách kinh tế của nhà nước ta.
Đề tài nhằm mục đích hướng tới tìm hiểu những nội dung cơ bản trong
chính sách kinh tế của nhà nước được quy định trong Hiến pháp 1992 nói chung
và các văn bản pháp luật ban hành theo tinh thần Hiến pháp 1992 nói riêng, bao
gồm chính sách chung và các chính sách đối với từng thành phần kinh tế cụ thể.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992

5
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
Qua đó, xem xét, kiểm nghiệm trên thực tế để rút ra phương hướng khắc phục sai
lầm, phát huy ưu điểm, tiến tới xây dựng những chính sách kinh tế ngày càng
phù hợp hơn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, chế độ kinh tế và chính sách kinh tế. Các văn
kiện của Đảng, Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước được
sử dụng rộng rãi làm cơ sở pháp lí cho các vấn đề có liên quan đến nội dung của
khóa luận. Các công trình nghiên cứu, các bài viết của các học giả cũng được
tham khảo và kế thừa có chọn lọc.
Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận đã sử dụng phương pháp luận của
triết học Mác – Lênin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử
dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê kết hợp
với khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận được chia làm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về chế độ kinh tế và chính sách kinh tế.
Chương II: Chính sách kinh tế theo Hiến pháp 1992.
Chương III: Thực tiễn thực hiện và phương hướng giải pháp.
Chương I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ KINH TẾ
VÀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
6
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
1.1. Khái niệm về kinh tế, chế độ kinh tế, chính sách kinh tế
Để tìm hiểu về chế độ kinh tế và chính sách kinh tế, trước hết cần làm rõ
các khái niệm có liên quan như kinh tế, chế độ, chính sách…
1.1.1. Khái niệm kinh tế:
Phạm trù kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhiều cách định nghĩa
và lý giải khác nhau.

Theo Từ điển tiếng Việt, ngôn ngữ học Việt Nam, kinh tế là “Tổng thể nói
chung những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất, phát
triển kinh tế”. Ví dụ: sự phát triển kinh tế; nền kinh tế quốc dân. Kinh tế được
hiểu là cách thức sản xuất để tạo ra sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của con
người. Nếu hiểu kinh tế là cách thức tổ chức sản xuất đặc trưng cho một giai
đoạn nhất định trong lịch sử hay một quan hệ sản xuất xã hội thì “Kinh tế là tổng
thể nói chung những quan hệ sản xuất của một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định”. Ví dụ: kinh tế phong kiến; kinh tế tư bản chủ nghĩa. Hiểu kinh tế dưới góc
độ động lực thúc đẩy nền sản xuất xã hội: “Kinh tế có liên quan đến lợi ích vật
chất của con người. Sử dụng đòn bẩy kinh tế để phát triển sản xuất”. Kinh tế tiếp
cận dưới góc độ là hiệu quả sản xuất kinh tế “Có tác dụng mang lại hiệu quả
tương đối lớn so với sức người, sức của và thời gian tương đối ít bỏ ra”.
Từ điển “Từ và Ngữ Việt Nam” của tác giả Nguyễn Lân lại tiếp cận kinh
tế dưới góc độ từ loại (danh từ, từ Hán Việt). Kinh: sửa trị, tế: cứu giúp. Kinh tế
là “Toàn bộ hoạt động nhằm sản xuất ra của cải vật chất và trao đổi, phân phối sử
dụng những của cải đó trong xã hội loài người”. Nói đến kinh tế (tính từ) là nói
đến hiệu quả (Tốn ít mà có hiệu quả). Còn câu ngạn ngữ “kinh bang tế thế” (Hán
Việt: kinh: sửa trị; bang: nước; tế: cứu; thế: đời) có nghĩa là dựng nước giúp đời.
Từ các cách tiếp cận trên đây, dưới góc độ sản xuất chúng ta có thể hiểu kinh tế
là cách thức, tài nghệ của con người nhằm cải biến, chiếm lĩnh của cải tự nhiên
để thoả mãn nhu cầu ngày càng tốt hơn. Phạm trù kinh tế có nguồn gốc xuất hiện
từ khi con người ra đời và biết sản xuất, kinh tế đã từng tồn tại qua các giai đoạn
phát triển khác nhau với các hình thức tên gọi khác nhau: kinh tế tự cấp tự túc,
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
7
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường. Còn xem xét dưới góc độ tính chất sản xuất
gắn với quy mô sản xuất có kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước, kinh tế công xã
nguyên thủy, kinh tế chiếm hữu nô lệ, kinh tế phong kiến, kinh tế tư bản chủ
nghĩa và kinh tế xã hội chủ nghĩa… Còn nếu gắn với sở hữu tư liệu sản xuất tổ

chức quản lý và phân phối sản phẩm có: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước…Nói chung, kinh
tế là một thuật ngữ phức tạp và có nhiều cách hiểu khác nhau:
- Về mặt danh từ, kinh tế là tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất của
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định hoặc là tổng thể nói chung những họa
động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất.
- Về mặt tính từ, kinh tế là những hoạt động có liên quan đến lợi ích vật
chất của con người hay có tác dụng mang lại hiệu quả lớn.
Tóm lại, kinh tế nói chung là những hoạt động của con người nhằm biến
đổi những sản vật tự nhiên thành thức ăn, vật dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu của
mình.
1.1.2. Khái niệm chế độ kinh tế
• Khái niệm chế độ:
Theo Từ điển luật học, chế độ được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, là hệ thống các quy định pháp luật cần phải được tuân thủ trong
một quan hệ xã hội xác định nhằm đạt được mục đích nhất định.
Thứ hai, là tổng thể các quy tắc cần phải tuân theo trong sinh hoạt đối với
các đối tượng khác nhau, như chế độ tập luyện, chế độ ăn uống…
Trong trường hợp này, từ chế độ được hiểu theo nghĩa thứ nhất.
• Khái niệm chế độ kinh tế:
Là chế độ pháp lý gồm tổng thể các quy phạm luật hiến pháp điều chỉnh
các quan hệ xã hội về kinh tế liên quan đến việc xác định mục đích, chính sách
của nền kinh tế, phương hướng phát triển nền kinh tế, quy định chế độ sở hữu,
các thành phần kinh tế và nguyên tắc quản lý nền kinh tế quốc dân.[5].
1.1.3. Khái niệm chính sách kinh tế
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
8
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
• Khái niệm chính sách:
Là chủ trương và các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong

các lĩnh vực kinh tế - xã hội (theo Đại từ điển tiếng Việt).
• Khái niệm chính sách kinh tế:
Là chính sách và biện pháp kinh tế mà Nhà nước áp dụng trong một giai
đoạn hay thời kỳ lịch sử nhằm đạt được những mục đích, yêu cầu kinh tế - chính
trị nhất định. Chính sách có thể mang tính chất đường lối, chiến lược lâu dài, có
thể có tính chất sách lược ngắn hạn.[5].
Hiến pháp 1992 đã thể chế hóa đường lối xây dựng kinh tế của Đảng, quy
định một loạt nội dung chính sách kinh tế mới của Nhà nước.
1.2. Phân biệt chế độ kinh tế và chính sách kinh tế
Chế độ kinh tế là một chế định quan trọng của ngành luật Hiến pháp Việt
Nam, bao gồm:
- Mục đích, phương hướng phát triển kinh tế.
- Các chính sách kinh tế của Nhà nước.
- Các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của nước ta trong thời kỳ
quá độ lên CNXH.
- Các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, chính sách kinh tế là một bộ phận của chế độ kinh tế, có vai trò
định hướng cho sự phát triển kinh tế phù hợp với khả năng và điều kiện của đất
nước. Mặt khác, xét về yếu tố thời gian, chính sách kinh tế thường chỉ được tính
toán trong một giai đoạn nhất định, và giai đoạn đó thông thường không kéo dài.
Trong khi đó, chế độ kinh tế được hoạch định trong một thời gian dài, mang tính
chất ổn định. Có thể nói, chế độ kinh tế bao trùm lên chính sách kinh tế và gồm
nhiều chính sách kinh tế khác nhau. Các chính sách kinh tế được xây dựng nối
tiếp tạo nên chế độ kinh tế của một nhà nước, một chính quyền.
1.3. Vai trò của chính sách kinh tế
• Thể hiện quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế của Nhà nước.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
9
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
Nhà nước thực hiện vai trò lãnh đạo toàn xã hội thông qua các chức năng:

chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng… Chỉ có nhà nước là chủ thể duy nhất có
đủ năng lực về tài chính và quyền lực tối cao có thể thực hiện những nhiệm vụ
trên. Để thực hiện chức năng kinh tế, nhà nước phải đề ra kế hoạch, chiến lược,
sách lược cụ thể, rõ ràng. Không thể có một nền kinh tế vững mạnh nếu không có
một đường lối phát triển được hoạch định chu đáo, toàn vẹn. Vì vậy, cần có
những chế độ kinh tế làm cơ sở cho việc thực hiện chức năng kinh tế. Tuy nhiên,
tình hình, hoàn cảnh kinh tế - xã hội của nước ta có nhiều thay đổi, do đó trong
từng thời điểm, từng giai đoạn lịch sử cần phải có những chính sách kinh tế phù
hợp. Ví dụ: Chính sách kinh tế trong thời kỳ từ 1954 - 1975 của Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa là xây dựng kinh tế XHCN ở miền Bắc, huy động sức
người, sức của chi viện cho miền Nam; đối với miền Nam là sản xuất song song
với chiến đấu giành độc lập toàn vẹn cho dân tộc.
Chính sách kinh tế này là hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh nước ta lúc bấy
giờ, đất nước bị chia cắt thành hai miền: miền Bắc đã được giải phóng, miền
Nam vẫn nằm trong sự thống trị của Đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền bù
nhìn Việt Nam cộng hòa. Không thể tách rời hai miền Nam Bắc, mục đích cao
nhất mà toàn dân hướng tới là giành độc lập, thống nhất, non sông thu về một
mối, tuy nhiên để thực hiện được mục tiêu cao cả ấy, miền Nam phải có lương
thực, vũ khí để chiến đấu. Trong điều kiện khó khăn thiếu thốn, bị kìm kẹp đủ bề
quân và dân miền Nam không thể đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu nhân lực, vật lực.
Vì vậy, miền Bắc có nhiệm vụ là trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam
chắc tay súng. Hai nhiệm vụ cùng nhằm hướng tới một mục tiêu. Do đó, không
thể thực hiện đồng thời một chính sách kinh tế ở hai miền khác nhau với những
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Chính sách kinh tế trong thời kỳ trên là bước
vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác – Lênin của Đảng và Nhà nước ta.
• Định hướng cho sự phát triển của đất nước.
Sự phát triển của một nhà nước được tính trên cả hai phương diện: kinh tế
và xã hội, nhà nước chỉ được coi là hoàn thiện khi có một nền kinh tế phát triển
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
10

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
và đời sống xã hội bền vững. Để được như vậy, các nhà lãnh đạo nhà nước phải
là những người có tầm nhìn xa trông rộng, hoạch định được những chính sách
kinh tế vừa cụ thể, vừa khái quát, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Chính sách kinh tế
cụ thể giúp giải quyết từng vấn đề, từng lĩnh vực, định hướng từng ngành nghề,
từng khu vực sản xuất hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, chính sách kinh tế
khái quát có tác dụng giữ ổn định nền kinh tế, nền kinh tế không bị xáo trộn liên
tục, gây nên những bất ổn, thậm chí có thể tác động cả đến nền chính trị và sự
lãnh đạo của đảng cầm quyền, sự tin tưởng của nhân dân vào nhà nước. Đây là
một nhiệm vụ khó khăn, một thách thức đối với đội ngũ các nhà lập pháp, nhưng
khi thực hiện được thì sẽ góp phần to lớn vào tiến trình xây dựng đất nước, làm
cho dân giàu, nước mạnh, xã hội ổn định, phồn vinh.
Chương II. CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
THEO HIẾN PHÁP 1992
2.1. Cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn của chính sách kinh tế
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
11
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
2.1.1. Cơ sở lý luận: văn kiện Đại hội Đảng.
Đại hội Đảng VI (12/1986) đã thổi luồng gió mới vào đời sống kinh tế ở
nước ta. Đại hội đã phân tích đúng đắn nguyên nhân của thực trạng yếu kém của
nền kinh tế nước ta, chỉ ra: “Ngày nay đã có những điều kiện để hiểu biết đầy đủ
hơn về con đường tiến lên CNXH ở nước ta” [1] và chỉ rõ trong nhận thức và
trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất. Đồng thời, Đại hội xác định: “Thời kỳ quá độ ở nước
ta, do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã
hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”. [1].

Trên cơ sở đó Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Đó là một mốc lịch sử
quan trọng trên con đường phát triển, mở ra một bước ngoặt trong sự nghiệp xây
dựng CNXH ở nước ta.
Dựa trên sự tổng kết thực tiễn của nhiều năm qua, Đại hội Đảng VI cho
rằng: “Muốn đưa nền kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân đối, phải
dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các ngành,
các vùng, các thành phần kinh tế… phải được bố trí cân đối, liên kết với nhau phù
hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định”. [1]. Đảng
cũng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục
trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, với những hình thức và bước đi thích hợp,
làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất”. [1].
Như vậy, tại Đại hội VI, hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo sự
nghiệp đổi mới ở nước ta đã hình thành. Đường lối đổi mới toàn diện đất nước
được đề ra là nhằm nhận thức đúng hơn và thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc
xây dựng CNXH. Đại hội đã đưa ra những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
12
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên, thừa nhận sự tồn tại khách
quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh.
Đại hội Đảng VII (1991): cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Đại hội VII khẳng định
nền kinh tế Việt Nam có năm thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể, cá thể, tư
bản tư nhân, tư bản nhà nước. Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là vấn đề có
tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Các
thành phần kinh tế tồn tại lâu dài và nằm trong một cơ cấu kinh tế thống nhất.

Đại hội Đảng VIII (6/1996): tiếp tục chủ trương thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng
XHCN đó là “xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. [3]. Đổi
mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về
CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù
hợp. Có thể khẳng định, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần định
hướng XHCN chính là nguồn gốc của mọi sự thay đổi theo xu hướng tiến bộ của
pháp luật nước ta.
Đại hội Đảng IX (2001) là đại hội của “ý Đảng lòng dân” về sở hữu và các
thành phần kinh tế. Đại hội đã có những bổ sung và phát triển trong chính sách
kinh tế, đặc biệt là quy định thêm chính sách đối với thành phần kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” được đưa ra
tại Đại hội IX là sự diễn đạt ngắn gọn nhưng vẫn phản ánh đúng tinh thần cơ bản
của những khái quát do Đại hội Đảng đã nêu ra và đặc biệt nói rõ được mô hình
kinh tế tổng quát ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội chỉ rõ: Kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
13
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức
quản lý và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN chính
là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Sự khẳng định mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN là
mục tiêu của đất nước ta trong Đại hội IX có hai ý nghĩa sâu sắc: một là, khẳng
định tính nối tiếp của quá trình đổi mới của nước ta từ Đại hội VI; hai là, xác định

rõ tính chất thị trường, tính chất nhiều thành phần, trong đó Nhà nước không
những thực thi vai trò chính trị mang bản chất XHCN, mà còn là một thành phần
kinh tế cùng với thành phần kinh tế tập thể tạo nền tảng của chế độ kinh tế mới.
Như vậy, tư duy về kinh tế thị trường đã trải qua một quá trình hình thành và
phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, ngày càng cụ
thể, sâu sắc. Nếu ở Đại hội VI, Đảng ta mới khẳng định sự cần thiết phải sử dụng
quan hệ hàng hóa – tiền tệ dưới CNXH, thì đến Đại hội VII và Đại hội VIII, Đảng
ta đã khẳng định cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng
XHCN. Đại hội IX tiếp tục đánh dấu thêm một bước phát triển mới trong lý luận
của Đảng ta khi xác định “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là
mô hình kinh tế tổng quát” [4] trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
2.1.2. Cơ sở pháp lý
Chính sách kinh tế được quy định tại Chương II Hiến pháp 1992 “Chế độ
kinh tế” (từ Điều 15 đến Điều 29) và tại các Khoản 6,7,8,9,10 Điều 1 Nghị quyết
số 51/2001/QH 10.
Đây là bản Hiến pháp thứ tư từ khi nhà nước Việt Nam được khai sinh vào
mùa thu năm 1945 lịch sử và cũng là bản Hiến pháp XHCN thứ ba của nước ta,
đánh dấu bước phát triển trọng đại trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp
của hành trình đổi mới sâu sắc và toàn diện.
Nói Hiến pháp 1992 thể hiện một cách đậm nét đường lối đổi mới của
Đảng ta thì phải nhấn mạnh đến những sửa chữa, bổ sung ở Chương II quy định
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
14
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
về Chế độ kinh tế. Trong 15 điều ở Chương II của Hiến pháp 1992 thì có tới 10
điều hoàn toàn mới so với Hiến pháp 1980, 5 điều còn lại được sửa đổi cơ bản.
Về mặt pháp lý, Hiến pháp 1992 đánh dấu bước chuyển đổi nền kinh tế của cơ
chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa hoạt
động theo cơ chế thị trường. Nhiều nội dung mới phù hợp với chính sách kinh tế
trong thời kỳ đổi mới của Đảng được Hiến pháp 1992 thể chế hóa.

Có thể khẳng định rằng, với những sửa đổi, bổ sung quan trọng, cơ bản,
thích ứng và kịp thời, Hiến pháp 1992 đã phát huy được hiệu quả, tạo cơ sở pháp
lý quan trọng để nước ta từng bước chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá
tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy
nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội nước ta đã có những thay đổi lớn lao và mục tiêu đặt ra của cách
mạng nước ta cần đi tới đòi hỏi Hiến pháp 1992 phải được bổ sung, sửa đổi một
số điều cho thích ứng. Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa X ngày 29/6/2001 đã
thành lập Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều Hiến pháp 1992. Ngày
25/12/2001, kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X đã nhất trí thông qua việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam.
Trên cơ sở những vấn đề được nêu ra trong các văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ IX của Đảng, Chương II – Chế độ kinh tế được sửa đổi, bổ sung ở 5 điều: 15,
16, 19, 21, 25. Trong đó, xác định rõ hơn các vấn đề về định hướng, nguyên tắc,
mục tiêu của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế; mở rộng hơn các thành phần kinh tế và vị trí của chúng trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Không chỉ dừng lại ở sự ghi nhận, Hiến pháp sửa
đổi còn tạo cơ sở pháp lý để công dân được phát huy quyền tự do kinh doanh làm
lợi cho quốc kế dân sinh và kinh tế gia đình.
Như vậy, trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất, chính sách kinh tế
của Nhà nước ta được xác định là chính sách “phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng XHCN”. Đây là cơ sở quan trọng để ban hành
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
15
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
nhiều văn bản luật cụ thể hóa, chi tiết hóa như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp,
Luật Hợp tác xã…
2.1.3. Cơ sở thực tiễn
+ Tình hình thế giới:
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế, khuyết tật của mô

hình kinh tế Xô-viết bộc lộ ra rất rõ cộng với sự yếu kém trong công tác lãnh
đạo, quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và các nước Đông Âu rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Một số người
lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình
bằng công cuộc cải cách, cải tổ, nhưng với một “tư duy chính trị mới”, họ đã
phạm sai lầm nghiêm trọng cực đoan, phiến diện, dẫn tới sự tan rã của Liên Xô
và sự sụp đổ của hệ thống XHCN thế giới. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước
XHCN khác ở Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ
XX đã làm lộ rõ những khuyết tật của mô hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường.
+ Tình hình trong nước:
Với chế độ công hữu hình thức, áp đặt, chúng ta đã nhanh chóng xóa bỏ các
hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế phi XHCN, thực tế là đã triệt tiêu
động lực kinh tế, làm cho nền kinh tế không phát triển được. Do đó, khủng hoảng
xảy ra như một hậu quả tất yếu.
Cụ thể:
- Thu nhập quốc dân bình quân mỗi năm chỉ tăng 3,7%.
- Nông nghiệp là ngành kinh tế then chốt, chiếm khoảng 50% thu nhập
quốc dân, nhưng trong những năm 1976 – 1985, bình quân mỗi năm chỉ tăng
3,8%. Sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính độc canh lúa. Sản lượng lương thực
năm 1985 là 18,2 triệu tấn.
- Sản xuất công nghiệp được đầu tư vốn lớn nhưng tốc độ tăng trưởng cũng
rất thấp và không ổn định. Bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1976 – 1985 giá
trị tổng sản lượng công nghiệp chỉ tăng 5,2%.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
16
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B

- Sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của dân cư.
Hầu như toàn bộ quỹ tích lũy và một phần tiêu dùng phải dựa vào viện trợ và vay
nợ nước ngoài. Trong những năm 1976 – 1980, vay nợ và viện trợ nước ngoài

chiếm 38,2% tổng thu ngân sách và bằng 61,9% tổng số thu trong nước. Tương
ứng, thời kỳ 1981 – 1985 là 22,4% và 28,9%. Đến năm 1985, nợ nước ngoài lên
tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ đô la. Trong khi đó ngân sách vẫn thâm hụt và phải bù đắp
bằng phát hành.
- Nhiều loại sản phẩm bình quân đầu người năm 1985 còn thấp hơn năm
1976: than, gỗ tròn, cá biển, giấy bìa… Do sản xuất không đủ tiêu dùng nên hầu
hết các loại hàng hóa đều phải nhập khẩu, kể cả một số mặt hàng trong nước có
thể sản xuất được như gạo, vải…
- Chỉ số lạm phát lớn, tăng nhanh, lên đến đỉnh cao vào năm 1986
(776,9%).
- Đời sống nhân dân khó khăn nghiêm trọng.
2.2. Chính sách phát triển kinh tế
Chính sách kinh tế theo Hiến pháp 1980 đã xây dựng nên một mô hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Nhà nước trở thành người trực tiếp
quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, phân phối, cả đất nước trở thành một
doanh nghiệp do Nhà nước chỉ huy điều hành trực tiếp. Đối với sở hữu tập thể,
mọi tư liệu sản xuất của người lao động từ cái cày, cái cuốc, con trâu đến ruộng
đất đều bị tập thể hóa. Từ đó quá trình sản xuất và phân phối đều do ban quản trị
điều hành. Thế nhưng toàn bộ tài sản được tập thể hóa cũng không phải là của xã
viên mà cũng không phải của ban quản trị, cũng không phải của nhà nước. Nó
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
17
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
chẳng của ai cả, vô hình trung đã trở thành không có chủ đích thực. Quy mô của
hợp tác xã càng lớn thì tính vô chủ đối với tư liệu sản xuất càng cao. Do đó phát
sinh tình trạng lãng phí, tham ô khá phổ biến. Từ đó dẫn đến hiệu quả kinh tế
ngày càng giảm sút và người xã viên không gắn bó cùng hợp tác xã.
Đối với sở hữu toàn dân, loại sở hữu này cũng dẫn đến tình trạng vô chủ vì
người lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh chỉ là người làm công ăn
lương. Còn giám đốc tuy do nhà nước bổ nhiệm nhưng họ cũng là người hưởng

lương như người lao động. Quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm do Ủy ban
Kế hoạch nhà nước quyết định. Ở đây, kế hoạch: nhà nước giao; vốn: nhà nước
cấp; giá: nhà nước định; lãi: nhà nước thu; lỗ: nhà nước bù.
Đây chính là cơ sở kinh tế xã hội làm phát sinh tình trạng quan liêu, cửa
quyền, tham ô, móc ngoặc. Thực chất của chế độ công hữu với hai hình thức toàn
dân và tập thể ở nước ta là như vậy, nhưng chúng ta lại lầm tưởng đó là quan hệ
sản xuất XHCN và đã cố gắng bảo vệ nó.
Từ tuyệt đối hóa mặt sở hữu về tư liệu sản xuất, chúng ta đi đến tuyệt đối
hóa quan hệ sản xuất, đi ngược lại quy luật kinh tế khách quan là đẩy mạnh việc
xây dựng quan hệ sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Cách
làm này đã không tạo được điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển mà trái lại
kìm hãm lực lượng sản xuất.
Không thể phủ nhận vai trò của mô hình kinh tế này trong điều kiện xây
dựng cơ sở vật chất ban đầu của xã hội mới và đáp ứng yêu cầu quốc phòng, bảo
vệ đất nước. Nhưng mô hình này lại thiếu hiệu quả và không đáp ứng được yêu
cầu tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế hiện đại và hội nhập kinh tế thế giới.
Trên thực tế việc thực hiện hướng dẫn khuyến khích và giúp đỡ nông dân cá thể,
người làm nghề thủ công… tiến lên con đường làm ăn tập thể ở nhiều địa
phương chưa đúng nguyên tắc tại Điều 24 đã đề ra, đó là nguyên tắc tự nguyện.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
18
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là chính sách kinh tế của Nhà nước CHXHCN
Việt Nam cần phải được sửa đổi.
Mục đích của chính sách kinh tế của Nhà nước được xác định là “làm cho
dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần
của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các
thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ,
kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, mở rộng

hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới”. (Điều
16). [14].
Để thực hiện mục đích trên, chính sách kinh tế được xây dựng gồm các nội
dung:
2.2.1. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Trong Nghị quyết số 51/2001/QH10, chính sách này được sửa đổi như sau:
“Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN”. [21].
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển
nhất định của văn minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị trường
vừa là vấn đề của lực lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất. Phải
đạt đến một trình độ phát triển nhất định, nền sản xuất xã hội mới thoát khỏi tình
trạng tự cung tự cấp, mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Cũng phải trong
những quan hệ xã hội như thế nào của sản xuất mới nảy sinh cái tất yếu kinh tế:
người sản xuất hàng hóa phải mang sản phẩm dư thừa ra thị trường; kẻ mua và
người bán trao đổi sản phẩm với nhau trên thị trường.
Kinh tế thị trường thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, nhưng nó không bao
giờ tự sản sinh ra một hệ thống quan hệ sản xuất đầy đủ, độc lập với các phương
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
19
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
thức sản xuất mà trong đó nó vận động. Nó bao giờ cũng gắn bó hữu cơ với hệ
thống các quan hệ sản xuất và trao đổi của từng thời đại kinh tế, với các quan hệ
sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối của từng phương thức sản xuất trong lịch
sử. Sự gắn bó đó chặt chẽ đến mức chúng ta có thể nói đến nền kinh tế hàng hóa
của xã hội nô lệ; nền kinh tế hàng hóa giản đơn trong lòng xã hội phong kiến.
Đến chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng hóa giản đơn trở thành kinh tế hàng hóa tư
bản chủ nghĩa, trở thành kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Và, trong chủ nghĩa
tư bản, những quan hệ kinh tế của kinh tế thị trường và của chủ nghĩa tư bản

thâm nhập vào nhau thành một thể thống nhất. Điều đó gây nên rất nhiều sự
nhầm lẫn khi cho rằng kinh tế thị trường chỉ tồn tại trong lòng chủ nghĩa tư
bản.Chỉ có hiểu biết đầy đủ và phân tích đúng đắn mới làm rõ được bản chất và
đặc điểm của kinh tế thị trường trong từng phương thức sản xuất cụ thể.
Cho đến nay, nhân loại mới chỉ biết đến nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa như là nền kinh tế phát triển ở trình độ cao mà chưa biết đến nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, bởi vì ở nơi mà CNXH hiện thực đã ra đời thì lại
không phát triển thị trường định hướng XHCN; còn ở nơi phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN thì CNXH chưa phát triển hoàn chỉnh.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta. Đây là một điểm đột phá lý luận, một mô hình thực tiễn
đang trong quá trình thử nghiệm, là sự phủ định con đường xây dựng CNXH tập
trung, quan liêu, bao cấp. Đương nhiên, đó không phải là nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa, tuy rằng nó có thể học hỏi nhiều điều từ nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa hiện đại. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có bản chất
kinh tế khác với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Bản chất đó được quy
định bởi các quan hệ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Nền kinh tế thị trường mà nước ta xây dựng và hướng tới là nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN, nền kinh tế này có những điểm khác cơ bản với
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
20
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Có thể xem xét những khác biệt đó ở
một số tiêu chí như: vai trò của sở hữu nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng…
- Sự lãnh đạo của Đảng: kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa gắn liền với
quá trình tư nhân hóa nền kinh tế, phát triển các doanh nghiệp tư nhân. Chính vì
vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng bị xem nhẹ. Ngược lại, kinh tế thị trường định
hướng XHCN luôn luôn coi trọng vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, đường lối,
tư tưởng của Đảng được thể chế hóa thành những chính sách cụ thể phù hợp với
từng thời kỳ, kể cả khi xây dựng nền kinh tế thị trường.

- Vai trò của sở hữu nhà nước không hề được coi trọng trong nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa. Đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, sở
hữu nhà nước được xác định là thành phần chủ yếu, là nền tảng cơ bản của nền
kinh tế quốc dân. Chủ thể của nền kinh tế chính là các doanh nghiệp nhà nước và
các hợp tác xã. Trong các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã đó, không có
quan hệ tư bản và lao động làm thuê như dưới chủ nghĩa tư bản.
- Mục tiêu phát triển kinh tế gắn với mục tiêu xã hội: trong nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa, mục tiêu lợi nhuận là tâm điểm khiến cho các thành
phần kinh tế đều vươn tới. Bằng mọi biện pháp, thủ đoạn, các nhà sản xuất tìm
mọi cách để thu được nhiều lãi. Hình thức phân phối chủ đạo là phân phối theo
tư bản. Chính vì vậy mà thị trường tư bản chủ nghĩa phải hoạt động theo quy luật
lợi nhuận, gây ra sự phân hóa giai cấp, tình trạng bất công xã hội khó khắc phục
được. Đó cũng là nguồn gốc sinh ra mọi sự suy đồi và tệ nạn đang hoành hành
một cách phổ biến trong xã hội tư sản. Trái lại, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN luôn chú trọng đến các mục tiêu xã hội. Kinh tế phát triển đồng thời với
nâng cao đời sống nhân dân, tăng cường các phúc lợi xã hội, hạn chế khoảng
cách giàu nghèo, chăm lo đến các đối tượng chính sách, xây dựng các công trình
công cộng… Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế thị trường
mang đậm tính nhân văn, nhân đạo. Đây là đặc điểm mà bất kỳ nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa nào cũng không thể có được. Điều này được giải thích là
do bản chất của chế độ xã hội quy định.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
21
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
Có ý kiến cho rằng, không thể có kinh tế thị trường định hướng XHCN;
rằng CNXH và kinh tế thị trường không thể dung hợp với nhau. Theo tôi, ý kiến
này không phù hợp. Lý do là vì, hoặc ý kiến này muốn trì kéo Việt Nam trong
quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận định hướng XHCN, không
muốn Việt Nam đi lên CNXH. Đó là điều trái với quy luật khách quan, không thể
chấp nhận. Hoặc cũng có thể do ý kiến này xuất phát từ những người chưa thoát

ra khỏi lối tư duy cũ, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, cho kinh
tế thị trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, từ đó “dị ứng” với kinh tế thị
trường, không thấy hết những yếu tố mới, xu hướng tiến bộ của kinh tế thị
trường trong điều kiện mới của thời đại, lặp lại sai lầm trước đây.
Cũng có ý kiến nhấn mạnh một chiều những đặc trưng chung, những cái
phổ biến của kinh tế thị trường, chưa thấy hết hoặc phân vân, nghi ngờ về những
đặc điểm riêng, những cái đặc thù của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ
đó chưa tin là kinh tế thị trường có thể phát triển trên cơ sở chế độ công hữu là
nền tảng, kinh tế quốc doanh là chủ đạo; rằng trong kinh tế thị trường không thể
có kế hoạch, không thể thực hiện được công bằng xã hội, không thể khắc phục
được những tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường.
Lại có ý kiến cho rằng, việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng XHCN
thực chất là trở về với chủ nghĩa tư bản, chẳng qua chỉ là những cách diễn đạt
khác nhau cho có vẻ “giữ vững lập trường”.
Thực chất, những ý kiến, thắc mắc đó không phải quá khó hiểu, vì đây là
những điều còn rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, điều cần làm là xác định rõ nội dung
định hướng XHCN và kiên trì vai trò quản lý nhà nước XHCN đối với nền kinh
tế thị trường, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải đơn
giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh
tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển sang
nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên CNXH. Đây là sự
lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể của
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
22
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước này giảm thiểu được
những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới CNXH trên cơ sở sử
dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai cơ chế: kế
hoạch và thị trường. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN là kiểu

tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ
thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng XHCN. Chính tính chất,
đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của
nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao
hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nướcXHCN, phát triển khoa học và công
nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian
không dài có thể khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần cũng có nhiều
thay đổi: nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế
hoạch và chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý nhà nước giữa
các ngành các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, tập thể với lợi ích của nhà nước.
2.2.2. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Qua hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu
đáng phấn khởi, được bạn bè thế giới đánh giá cao. Những thành tựu đó là nhờ
sự lãnh đạo của Đảng trong đổi mới tư duy kinh tế, đưa nền kinh tế nhiều thành
phần thay cho việc chỉ chú trọng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Sự nhận
thức rõ về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo điều kiện cho đất nước
khởi sắc. Thực tiễn cho thấy phát triển kinh tế hàng hóa là giai đoạn thấp của
kinh tế thị trường, cho nên đẩy mạnh sản xuất hàng hóa trong điều kiện đất nước
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
23
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
còn nghèo thì phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đúng hướng. Đến Đại
hội Đảng X, cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân là một bước nhận thức mới
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu là đưa Việt Nam trở thành một
nước công nghiệp, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Để thực hiện mục tiêu này, kinh tế nhà nước phải là đầu tàu để cùng các thành
phần kinh tế khác phát triển. Kinh tế nhà nước sẽ có mặt ở những nơi khó khăn,
xung yếu, làm những việc mà kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác
không thể làm được, hoặc làm không hiệu quả.
2.2.3. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được bình
đẳng với nhau trước pháp luật.
Trong thời kỳ phong kiến, quan niệm về sự phân hóa các tầng lớp trong xã
hội “sĩ, nông, công, thương” đã ăn sâu vào ý thức của người dân Việt Nam, theo
đó tầng lớp được kính trọng nhất trong xã hội là những nhà nho, những học trò,
nói chung là những người có học vấn. Còn tầng lớp thương nhân dù có điều kiện
kinh tế nhưng vẫn không được coi trọng, biểu hiện là vị trí của họ được xếp thấp
trong thang bậc các tầng lớp xã hội. Xã hội ngày nay là xã hội XHCN, với một
trong những nguyên tắc cơ bản là bình đẳng, giữa mọi công dân, cơ quan, tổ
chức… Do đó các thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật được xem
như một trong những hình thức cụ thể hóa nguyên tắc công bằng trong xã hội
XHCN. Chính sách này khác hoàn toàn với chính sách được quy định trong Hiến
pháp 1980, đó là có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, khuyến
khích phát triển thành phần kinh tế này nhưng lại hạn chế, kìm hãm thành phần
kinh tế kia.
2.2.4. Các chính sách kinh tế đối ngoại.
Do Nhà nước thống nhất quản lý và mở rộng, phát triển các hình thức quan
hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
24
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước. Bắt đầu từ thời kỳ
đổi mới, chuyển qua kinh tế hàng hóa, chúng ta càng coi trọng mở rộng quan hệ
kinh tế với nước ngoài. Quan hệ đó, trước đây chủ yếu là với Liên Xô, Hội đồng
Tương trợ kinh tế (khối SEV), các nước xã hội chủ nghĩa khác, tức là khu vực sử

dụng đồng rúp, thì nay chuyển sang quan hệ ngày càng nhiều với các nước và
các tổ chức quốc tế sử dụng đồng đô-la Mỹ. Không những thế, quan hệ với các tổ
chức kinh tế trên thế giới (như WTO, EU) cũng như trong khu vực (như
ASEAN) không ngừng được mở rộng và tăng cường để phù hợp với chiến lược
mở cửa thị trường cũng như xu thế toàn cầu hóa đang ngày càng phổ biến, thu
hút nhiều quốc gia tham gia.
Trước đây chính sách kinh tế đối ngoại của nhà nước ta là nhà nước nắm
độc quyền về ngoại thương, chính sách này làm hạn chế sự phát triển, không phát
huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế khác. Do đó, Hiến pháp 1992 đã
sửa đổi một cách cơ bản, thay vì nhà nước nắm độc quyền thì nay nhà nước chỉ
thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại. Đây là chính sách
tiến bộ và hợp lý, vừa có sự quản lý của nhà nước để giữ vững định hướng
XHCN vừa tạo cơ hội cho các thành phần kinh tế được phát triển năng động,
sáng tạo, thích ứng kịp thời với những thay đổi của nền kinh tế thế giới.
Ví dụ: các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ký hợp đồng xuất khẩu
sản phẩm với các quốc gia có nhu cầu.
2.2.5. Khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Nội dung này được quy định tại Điều 25 Hiến pháp 1992 và trong khoản 10
Điều 1 Nghị quyết số 51 được sửa đổi như sau: “Nhà nước khuyến khích các tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp
luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế… Nhà nước khuyến khích và tạo
điều kiện thuận lợi để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước”.
[21].
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
25

×