Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.31 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
TRANG
1. Khái quát chung về Trọng tài thương mại....................................2
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại..............................................2
1.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài 3
2. Thẩm quyền của trọng tài thương mại...........................................4
3. Những quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động
của trọng tài theo Luật trọng tài thương mại năm 2010.......5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................13

1. Khái quát chung về Trọng tài thương mại.
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại.
Trọng tài là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại, đây là phương thức thông qua một thiết chế tài phán do
các bên thỏa thuận với nhiều ưu việt, hạn chế được những khó khăn khi giải
quyết tranh chấp tại Tòa án công của nhà nước trong các tranh chấp thương mại.
Dựa trên nguyên tắc tôn trọng tự do ý chí của các bên, phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài ngày càn được sử dụng phổ biến trong các quan hệ
thương mại không chỉ ở phạm vi quốc gia mà ở cả phạm vi quốc tế.
Trọng tài phi chính phủ được hiểu là hình thức giải quyết tranh chấp thông
qua hoạt động của các trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm
dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự tồn tại của các bên
tranh chấp và có hiệu lục bắt buộc đối với các bên.
Trọng tài là một thiết chế dân chủ trong giải quyết tranh chấp thương mại.
Theo quy định của Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì trọng tài thương mại
là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành
theo quy định của Luật này (khoản 1 Điều 3). Trọng tài không có thẩm quyền
đương nhiên mà chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi mà các bên có
quyền lợi liên quan chỉ định, thẩm quyền của trọng tài được xác lập trên cơ sở
của thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc


giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh (khoản 2
Điều 3). Điều 16 Luật trọng tài thương mại 2010 cũng quy định về hình thức của
thỏa thuận trọng tài, có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài
trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.
Ưu điểm của trọng tài đó là thủ tục tiện lợi, nhanh chóng, thể hiện tính chất
đơn giản, linh hoạt mềm dẻo về mặt tố tụng. Phán quyết của trọng tài thường
chính xác, có kết quả và có độ tin cậy cao, đảm bảo bí mật và giữ vững uy tín cho
các chủ thể tranh chấp. Điều này xuất phát từ quy chế của trọng tài cho phép các
bên được quyền thỏa thuận lựa chọn quy tắc tố tụng, chọn trọng tài viên, xét xử
2
kín…; quyết định của trọng tài là chung thẩm, vì vậy việc kháng cáo, kháng nghị
về mặt nội dung bị loại trừ. Ngoài ra, với thủ tục tố tụng đơn giản nên chi phí
trọng tài ít tốn kém hơn so với chi phí kiện tụng trước tòa án, nhất là trường hợp
tranh chấp được giải quyết qua nhiều cấp toàn án.
Tuy nhiên, trọng tài thương mại cũng có những nhược điểm so với con đường
tòa án, điều này giải thích cho hiện tượng tại sao mặc dù có sự tồn tại của trọng
tài mà các bên vẫn có trường hợp đưa các tranh chấp thuộc thầm quyền của trọng
tài ra tòa án giải quyết. Các nhược điểm đó là trọng tài không phải cơ quan quyền
lực nhà nước nên khi xét xử, trong trường hợp cần áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời nhằm đảm bảo chứng cớ, trọng tài không thể ra quyết định mang tính
chất bắt buộc về điều đó mà phải yêu cầu tòa án thi hành các phán quyết trọng tài.
Hiện nay, để khắc phục nhược điểm này, Luật trọng tài thương mại 2010 đã xây
dựng được một cơ chế hỗ trợ phối hợp giữa tòa án và trọng tài về áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời và việc thực thi phán quyết cuối cùng của trọng tài.
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức. đó là trọng tài vụ việc (trọng
tài ad-hoc) và trọng tài thường trực. Trọng tài vụ việc là trọng tài được thành lập
bởi các bên đương sự, nhằm giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể nào đó và sẽ tự
chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Trọng tài thường trực được tổ
chức dưới dạng các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ, có tài khoản riêng và trụ sở cố định, có danh sách trọng tài viên.

1.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Theo quy định tại Điều 4 Luật trọng tài thương mại năm 2010, các nguyên tắc
giải quyết bằng trọng tài như sau:
Thứ nhất, trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận
đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
Thứ hai, trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định
của pháp luật.
Thứ ba, các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng
trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình.
3
Thứ tư, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành không công khai,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Thứ năm, phán quyết trọng tài là chung thẩm.
2. Thẩm quyền của trọng tài thương mại.
Trọng tài thương mại được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương
mại. Nhưng tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết
của trọng tài thương mại nếu các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và
thỏa thuận trọng tài này có hiệu lực.
Như vậy một tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương
mại khi có hai điều kiện:
Thứ nhất, tranh chấp được gửi đến trọng tài thương mại phải là tranh chấp
thương mại;
Thứ hai, giữa các bên có tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài.
Trước khi xem xét nôi dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay
không và xem xét thẩm quyền của mình. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm
quyền giải quyết của mình thì Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp
theo quy định của pháp luật. Trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết của
mình, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định định rõ thỏa thuận trọng tài

không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài quyết định đình chỉ việc giải
quyết và thông báo ngay cho các bên biết.
Khác với thẩm quyền của Tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền
vụ việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân
định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa
thuận của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài.
Khi các bên đã thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài, họ
trao cho hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp và phủ định thẩm
quyền xét xử đó của Tòa án trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc các bên hủy
bỏ thỏa thuận trọng tài.
4
3. Những quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng
tài theo Luật trọng tài thương mại năm 2010.
Hiện nay ở VN có hai cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp về kinh doanh
thương mại đó là: hệ thống Tòa án nhân dân và hệ thống Trọng tài thương mại.
Toà án và Trọng tài thương mại là các phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại bổ sung lẫn nhau. Theo quy định tại Điều 6 Luật trọng tài 2010 thì nếu các
bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện Tòa án thì Tòa án
phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận
trọng tài không thể thực hiện được. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của các
Trung tâm Trọng tài thương mại cần có sự phối hợp của Toà án. So với Pháp lệnh
trọng tài thương mại 2003, Luật Trọng tài thương mại đã có những sửa đổi và bổ
sung thêm đối với cac quy định đối với sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động
của trọng tài. Điều 7 Luật trọng tài thương mại 2010 xác định Tòa án có thẩm
quyền đối với hoạt động trọng tài như sau:
“1. Trường hợp các bên đã có thỏa thuận lựa chọn một Tòa án cụ thể thì Tòa án
có thẩm quyền là Tòa án được các bên lựa chọn.
2. Trường hợp các bên không có thỏa thuận lựa chọn Tòa án thì thẩm quyền của
Tòa án được xác định như sau:
a) Đối với việc chỉ định Trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc thì

Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của bị đơn nếu bị đơn là cá nhân hoặc
nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức. Trường hợp có nhiều bị đơn thì
Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của một trong các bị
đơn đó.
Trường hợp bị đơn có nơi cư trú hoặc trụ sở ở nước ngoài thì Tòa án có thẩm
quyền là Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn;
b) Đối với việc thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc thì Tòa án
có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp;
c) Đối với yêu cầu giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa
thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm
5

×