Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Phân tích các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại? So sánh với các nguyên tắc tố tụng Tòa án`

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.93 KB, 36 trang )

Đề tài: Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và một số vấn đề liên quan
đến pháp luật về thương mại quốc tế.
Bài làm:
I.Lời mở đầu:
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế vận động tất yếu của các nền kinh tế
trên thế giới gắn với quá trình toàn cầu hóa và khu vực do tác động của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ. Đối với các nước công nghiệp,hội nhập
kinh tế quốc tế là quá trình chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh
tế tri thức. Đối với các nước đang và chậm phát triển, hội nhập kinh tế quốc
tế là giải pháp để khai thác hiệu quả các nguồn lực và lợi thế so sánh, khai
thác có hiệu quả các nguồn lực phát triển bên ngoài, tránh được tình trạng tụt
hậu trong phát triển.Việt Nam mới hội nhập kinh tế quốc tế trong khoảng ba
thập kỉ trở lại đây, việc hội nhập kinh tế quốc tê cách sau khá xa so với các
nước trên thế giới và trong khu vực tạo cho Việt Nam rất nhiều thách thức
trong việc hội nhập cũng như chịu đựng sức ép của nền kinh tế thế giới, tuy
nhiên hội nhập kinh tế cũng mở ra cho Việt Nam rất nhiều cơ hội phát triển.
Trong quá trình hội nhập Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức kinh tế quốc
tế, việc hội nhập đó đòi hỏi Việt Nam cần có những cam kết tuân thủ pháp
luật thương mại quốc tế cũng như những cam kết khi gia nhập các tổ chức
kinh tế khu vực và toàn cầu. Phạm vi bài viết xin trình bày về vấn đề Việt
Nam hội nhập kinh tế quốc tế và một số vấn đề liên quan đến pháp luật về
thương mại quốc tế.

1
II.Phần nội dung:
1.Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế:
1.1 Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế:
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế nhưng
nhìn chung quan niệm tương đối phổ biến hiện nay là: Hội nhập kinh tế quốc
tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác khu
vực và toàn cầu, trong đó các nước thành viên chịu sự ràng buộc hoặc theo


quy định chung của cả khối.Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình quốc gia
thực hiện mô hình liên kết kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế
và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại đầu tư
và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
1.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết 6 vấn đề chủ yếu:
+ Đàm phán để cắt giảm các rào cản thuế quan
+ Giảm dần và loại bỏ các rào cản phi thuế quan
+ Giảm thiểu các hạn chế đối với hoạt động dịch vụ
+ Giảm thiểu các trở ngại đối với hoạt động đầu tư quốc tế
+ Điều chỉnh các quy định và công cụ của chính sách thương mại khác
+ Phát triển các hoạt động văn hóa giáo dục y tế trên toàn cầu.
1.3 Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam:
Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là vấn đề thời sự của hầu hết
các nước, thúc đẩy sự phát triển kinh tế toàn cầu, nước nào đóng cửa với thế
giới là đi ngược xu thế chung của thời đại khó tránh khỏi rơi vào lạc hậu.Mặt
khác mở cửa kinh tế quốc tế cũng có những tác động tiêu cực đối với những
nước mà sức cạnh tranh còn kém, trình độ khoa học kĩ thuật chưa cao.
2
Là một nước nghèo trên thế giới, bị tàn phá bởi hàng chục năm chiến tranh,
Việt Nam bắt đầu chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế
thị trường, từ một nền kinh tế bao cấp nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp xúc
với nền kinh tế thị trường đầy rẫy sức ép và khó khăn.Nhưng đứng trước xu
thế phát triển tất yếu của nên kinh tế, Việt nam là một bộ phận của cộng
đồng quốc tế không thể đứng ngoài việc hội nhập kinh tế. Chỉ có hội nhập
kinh tế Việt Nam mới có thể khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để
tạo ra những thuận lợi phát triển kinh tế.
+ Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện cho
Việt nam phát triển nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập đem lại nếu
Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ là động lực để thúc đẩy kinh tế,

xã hội phát triển.
+ Việc hội nhập nền kinh tế quốc tế cũng góp phần mở rộng thị trường
xuất nhập khẩu của Việt Nam.Cùng với việc được hưởng những ưu đãi về
thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế đội đãi ngộ khác đã tạo
điều kiện cho hàng hóa của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng thu hút đầu tư nước ngoài tới Việt
Nam, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế.
+ Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp
thu khoa học kĩ thuật công nghệ tiên tiến thúc đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa, các kĩ thuật công nghệ mới có điều kiện du nhập
vào Việt Nam nhằm phát triển năng lực kĩ thuật công nghệ quốc gia.Đào tạo
cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh.
+ Hội nhập kinh tế góp phần duy trì hòa bình ổn định tạo dựng môi trường
thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế.
3
+ Hội nhập kinh tế còn tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta
với các nước như nguồn lực lao động, nhập khẩu các lao động kĩ thuật cao,
các công nghệ mới, phát minh sáng chế mà Việt Nam chưa có.
2.Quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế:
Theo quan điểm của Đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước, dần
dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý.Việc đặt ra một lộ trình quá ngắn
về thời hạn mở cửa thị trường và mức độ giảm các loại thuế quá lớn ngay
lập tức sẽ vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế dẫn đến thua thiệt,sự
đổ vỡ của hàng loạt các doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà
nước và kéo theo nhiều hậu quả khó lường. Tuy nhiên điều đó không có
nghĩa lộ trình càng dài càng tốt, bởi kéo dài quá trình hội nhập sẽ đi liền với
duy trì quá lâu chính sách bảo hộ bao cấp của nhà nước gâu tâm lý trì trệ ỷ
lại, không dốc sức cải tiến công nghệ,kéo dài tình trạng kém hiệu quả yếu
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Do vậy xác định lộ trình hội nhập là rất quan
trong đây không chỉ là xác định thời gian mở cửa thị trường trong nước mà

còn xác định mục tiêu nền kinh tế nước ta, phát huy lợi thế so sánh chiếm
lĩnh thị phần ngày càng lớn trên thương trường quốc tế, thâm nhập ngày
càng nhiều vào thị trường các nước cả về hàng hóa và đầu tư dịch vụ. Việt
Nam đã và đang tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế quốc tế khu vực và toàn
cầu.
Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế 1986 đến nay Việt Nam đã
từng bước chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Kể từ khi tiến hành đổi mới
đến giữa những năm 1990, Việt Nam thực hiện hội nhập chủ yếu thông qua
việc tự do hóa đơn phương, kí kết các hiệp định thương mại và hiệp định bảo
hộ và khuyến khích đầu tư với các nước.
Tháng 12/1987, Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam đã mở cửa các cuộc đàm phán để nối lại các quan hệ với quỹ tiền tệ
4
quốc tế và ngân hàng tài chính thế giới, đến tháng 10/1993 đã bình thường
hóa quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính tiền tệ lớn nhất thế giới.Tháng
7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 1/1/1996 bắt đầu
thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tức
AFTA. Cùng đó tháng 7/1995 Việt nam đã kí kết hiệp định khung về hợp tác
kinh tế khoa học kĩ thuật và một số lĩnh vực khác với cộng đồng Châu Âu
EU đồng thời bình thường hóa quan hệ với Mĩ.Tháng 11/ 1998 Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái
Bình Dương (APEC). Tháng 7/ 2000 hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa
kì được kí kết. Sau 11 năm chuẩn bị để gia nhập WTO và 8 năm đàm phán
thì tháng 10/ 2006 Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO. Tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra đa dạng với nhiều hình thức khác nhau, vừa
tiếp tục tiến hành tự do hóa, vừa đẩy mạnh các mối liên kết song phương,
tiểu khu vực và đa phương. Các giao dịch thương mại, đầu tư và dịch vụ
giữa các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế của Việt Nam với phần còn lại của
thế giới đang ngày càng mở rộng cả về quy mô, mức độ, pham vi và gia tăng
về tốc độ.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều cơ hội đồng thời cũng dẫn
đến nhiều thách thức to lớn đối với nền kinh tế việt nam.Các thách thức này
là khả năng cạnh tranh quốc tế khá hạn chế của hàng hóa, dịch vụ, doanh
nghiệp Việt Nam và khả năng cạnh tranh thấp của quốc gia, nguy cơ bị phá
sản của các doanh nghiệp và mất thị trường trong nước trước các đối thủ
nước ngoài,suy thoái tài nguyên, tác động xấu về văn hóa an ninh.Tác động
của hội nhập kinh tế quốc tế là hai chiều nên cần chủ động khai thác triệt để
cơ hội giảm thiểu thach thức để chủ động hội nhập kinh tế có hiệu quả.
3.Một số vấn đề liên quan đến pháp luật về thương mại quốc tế:
5
Việc Việt Nam hội nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu đòi
hỏi Việt Nam phải tuân thủ các quy định của pháp luật kinh tế quốc tế nói
chung cũng như quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật của các tổ chức
kinh tế nói riêng.
3.1 Các quy định cơ bản về thương mại hàng hóa quốc tế:
Thương mại hàng hóa quốc tế được hiểu là tổng thể các hoạt động thương
mại liên quan đến hàng hóa được các nước tiến hành với nhau. Khi gia nhập
các tổ chức kinh tế quốc tế, Việt Nam cần tuân thủ các quy định của thương
mại quốc tế như thuế quan, các quy định về nông nghiệp và nông sản, về
tiêu chuẩn an toàn sản phẩm, các quy định về chống bán phá giá, trợ cấp, tự
vệ, các rào cản phi thuế quan và các quy định cụ thể khác đối với mỗi tổ
chức kinh tế quốc tế.
a) Các quy định về thuế quan:
Thuế quan là một lĩnh vực quan trọng được cộng đồng thương mại quốc
tế quan tâm, WTO và các khối liên kết kinh tế quan tâm quy định tương đối
chi tiết để áp dụng trong lĩnh vực thương mại hàng hóa. Thuế quan thường
được hiểu là các khoản thu của nhà nước đánh vào hàng hóa khi hàng hóa
đó di chuyển từ lãnh thổ hải quan này sang lãnh thổ hải quan khác nhằm
tăng cường nguồn thu ngân sách quốc gia và bảo hộ hàng hóa tương tự
trong nước.Những vấn đề quan trọng liên quan tới thuế quan mà các nước

thường quan tâm bao gồm: danh mục thuế quan, mức thuế trần và lộ trình
giảm thuế quan.
Đối với mỗi danh mục thuế quan, mỗi nước có danh mục thuế quan của
riêng mình và được công bố rộng rãi cho mọi người liên quan thực
hiện.WTO từ khi thành lập đã có 22.500 trang danh mục thuế quan cam kết
của các nước đối với một số loại hàng hóa cụ thể được thỏa thuận trong
khuôn khổ WTO, nhất là các loại cam kết cắt giảm thuế và mức thuế trần
6
đối với hàng hóa nhập khẩu.ASEAN/AFTA cũng có danh mục thuế quan
cam kết của các nước thành viên, trong đó có danh mục cam kết của Việt
Nam cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ thỏa thuận CEPT/AFTA.
Đối với mức thuế trần các danh mục mở cửa thị trường không chỉ đơn
giản là những barem về thuế quan.Chúng chính là những cam kết không
tăng thuế vượt quá một mức đã được xác định, được gọi là mức trần,
thường là mức thuế đang được áp dụng trên thực tế.Có nhiều mức thuế trần
khác nhau.Đa số các nước đang phát triển thường có mức thuế trần cao hơn
một chút so với mức thuế đang áp dụng.
Luật thương mại quốc tế có quy định ngoại lệ đối với quy tắc nói trên, tức
có thể chấp nhận cho phép một nước có thể phá bỏ mức thuế trần.Nhưng để
làm được điều này nước đó phải đàm phán với các nước liên quan và có thể
bị buộc phải bồi thường thiệt hại thương mại cho các đối tác liên quan.Việt
Nam đã phải đàm phán với Thái Lan về vấn đề này trong quá trình thực
hiện các cam kết của mình về CEPT/AFTA năm 2004- 2005.
Về lộ trình giảm thuế quan, kết quả vòng đàm phán Urugoay về việc
thành lập WTO cho thấy các nước phát triển chấp nhận giảm từng bước
hàng rào thuế quan trong vòng 5 năm kể từ ngày 1/1/1995. Mỗi nước tham
gia thỏa thuận phải áp dụng thống nhất cam kết của mình đối với hàng hóa
nhập khẩu của tất cả các nước thành viên WTO phù hợp với nguyên tắc tối
huệ quốc. Lộ trình của Việt Nam với AFTA là năm 2006, đối với Hoa Kỳ
theo cam kết trong hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ cũng khoảng

thời gian cơ bản tương tự.
b) Các quy định về nông nghiệp và nông sản:
Hiệp định về nông nghiệp cho phép các chính phủ được hỗ trợ khu vực
nông thôn nhưng bằng những biện pháp tác động tối thiểu đến cạnh
tranh.Các nước đang phát triển không bị buộc phải giảm trợ cấp hoặc thuế
7
suất bằng với mức của các nước phát triển và có thêm thời gian để thực
hiện cam kết của mình. Có một số điều khoản đặc biệt quy định về lợi ích
của các nước bị buộc phải nhập khẩu lương thực thiết yếu và đề cập những
mối quan tâm của những nước kém phát triển.
Đối với những sản phẩm trước kia bị hạn chế bằng hạn ngạch thì sẽ bị
đánh thuế; các nước được phép áp dụng những biện pháp khẩn cấp đặc biệt
nhằm bảo vệ nông dân trước việc giá cả giảm đột ngột hay việc hàng nhập
khẩu tăng mạnh. Hiệp định cũng nêu rõ khi nào và như thế nào thì các biện
pháp khẩn cấp này có thể được áp dụng. Đối với trợ cấp xuất khẩu, hiệp
định về nông nghiệp cấm việc trợ cấp cho xuất khẩu nông sản, trừ khi
chúng được nêu rõ trong danh mục cam kết của các nước thành viên. Trong
trường hợp đó, các nước sẽ bị buộc phải giảm đồng thời mức trợ cấp và
khối lượng hàng hóa xuất khẩu được trợ cấp.
c) Các quy định về tiêu chuẩn và an toàn sản phẩm:
Luật thương mại quốc tế cho phép các nước được can thiệp vào các giao
dịch hàng hóa nhằm bảo vệ sức khỏe và cuộc sống của con người và động
vất hoặc bảo tồn các loài thực vật với điều kiện các nước không được phân
biệt đối xử và không được lạm dụng nhằm bảo hộ trá hình. Ngoài ra WTO
có riêng hai hiệp định điều chỉnh mức độ an toàn của lương thực, sức khỏe
và sự an toàn cho các loài động thực vật (Hiệp định SPS), cũng như tiêu
chuẩn kĩ thuật đối với một số sản phẩm (Hiệp định TBT).
- Các quy định về an toàn đối với lương thực, động vật và thực vật:
Hiệp định SPS quy định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật, hiệp
định cho phép các nước xây dựng cho mình những tiêu chuẩn riêng, song

cũng quy định các tiêu chuẩn này phải có căn cứ khoa học.
Các nước thành viên của WTO được khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn,
định hướng hoặc khuyến nghị quốc tế sẵn có. Tuy vậy các nước vẫn có thể
8
thông qua những biện pháp sử dụng những chuẩn cao hơn nếu họ có cơ sở
khoa học. Họ cũng có thể xây dụng những tiêu chuẩn khắt khe hơn dựa trên
việc đánh giá hợp lý các rủi ro, với điều kiện phương pháp tiến hành phải
chặt chẽ, không tùy tiện. Trong một chừng mực nào đó, các nước này có thể
áp dụng nguyên tắc phòng ngừa trong trường hợp chưa có căn cứ khoa học
chắc chắn.
Hiệp định còn có các điều khoản về thủ tục kiểm tra giám định và công
nhận độ an toàn. Chính phủ các nước phải thông báo trước những quy định
mới hoặc được sửa đổi về vệ sinh dịch tễ mà mình sẽ áp dụng và thiết lập
một cơ sở thông tin quốc gia.
- Các quy định về kĩ thuật và tiêu chuẩn:
Hiệp định TBT thừa nhận quyền của các nước được đưa ra những chuẩn
mực mà họ cho là thích hợp để bảo vệ sức khỏe và cuộc sống của con người
và động vật để bảo tồn các loài thực vật, bảo vệ môi trường hay các quyền
lợi khác của người tiêu dùng.Các nước thành viên Hiệp định này không bị
cấm thông qua các biện pháp cần thiết để bảo đảm việc tuân thủ các chuẩn
mực này.Để tránh có sự chênh lệch quá lớn, hiệp định khuyến khích các
nước áp dụng những tiêu chuẩn quốc tế khi chúng tỏ ra phù hợp.
- Các quy định về dệt may:
Từ năm 1974 đến cuối vòng đàm phán Urugoay, thương mại sản phẩm dệt
may chịu sự điều chỉnh của hiệp định Đa sợi (MFA).Hiệp định này tạo
khung pháp lý cho việc thiết lập các hạn ngạch nhập khẩu trên cơ sở các
thỏa thuận song phương hoặc bằng các biện pháp đơn phương nhằm hạn
chế nhập khẩu vào thị trường các nước mà ngành sản xuất có nguy cơ bị rối
loạn do sự lan tràn của hàng nhập khẩu. Các hạn ngạch quota là phần nổi
bật của hệ thống này, khuyến khích áp dụng thuế quan hơn là các biện pháp

hạn chế định lượng. Chúng đã tạo nên một ngoại lệ đối với nguyên tắc đối
9
xử bình đẳng giữa tất cả các đối tác thương mại trong hệ thống GATT. Từ
năm 1995, hiệp định Dệt may của WTO (ATC) đã thay thế cho hiệp định đa
sợi. Đến ngày 1.1.2005, ngành dệt may cần phải áp dụng hoàn toàn hệ
thống các các luật lệ thông thường của GATT, đặc biệt các nước phải xóa bỏ
hạn nghạch và các nước nhập khẩu không được đối xử phân biệt giữa các
nước xuất khẩu.
- Các quy định về chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ:
+) Theo hiệp định AD, một sản phẩm bị coi là bán phá giá nếu giá xuất
khẩu của sản phẩm đó thấp hơn giá có thể so sánh được trong điều kiện
thương mại bình thường của sản phẩm tương tự được tiêu thụ tại thị trường
nước xuất khẩu.
Hiệp định AD có quy định chi tiết đối với việc so sánh về giá để đi đến
quyết định cuối cùng về việc bán phá giá, quy định cách thức xác định “giá
trị bình thường”.Hiệp định cho phép chính phủ các nước có biện pháp chống
bán phá giá khi ngành sản xuất trong nước thực sự bị thiệt hại vật chất do
việc bán phá giá gây ra. Hiệp định AD, pháp luật AD của Việt Nam thừa
nhận việc chống bán phá giá bất kể hành vi nào có hợp lý hay bất hợp lý từ
góc độ kinh tế và bất kể có đem lại lợi ích cho người tiêu dùng hay không.
+) Luật thương mại quốc tế có quy định khá cụ thể về trợ cấp và các biện
pháp chống trợ cấp trong thương mại quốc tế. WTO có hiệp định về trợ cấp
và các biện pháp đối kháng.Hiệp định SCM có chức năng kép: thiết lập kỉ
cương đối với trợ cấp của quốc gia, và quy định các biện pháp mà các nước
có thể áp dụng nhằm bù đắp các hậu quả của trợ cấp.Hiệp định SCM có quy
định ba loại trợ cấp là: Các loại trợ cấp bị cấm, các trợ cấp có thể bị đối
kháng, các trợ cấp không thể bị đối kháng.
Hiệp định SCM thừa nhận hai phương thức tồn tại song song được phép sử
dụng để xử lý các trường hợp trợ cấp bất hợp pháp. Thứ nhất là các bên tư
10

nhân tại nước thành viên có thể khởi kiện theo pháp luật trong nước để áp
đặt một khoản thuế nhằm làm cân bằng lại hay đối kháng lại các khoản trợ
cấp bất hợp pháp, nếu các yêu cầu về pháp lý và thủ tục tố tụng được thỏa
mãn. Thứ hai chính phủ các nước thành viên có thể có biện pháp thông qua
cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO nếu nước nguyên đơn chứng minh
được rằng loại trợ cấp này vi phạm hiệp định SCM và gây thiệt hại đối với
lợi ích của mình.
+) Các biện pháp tự vệ trong trường hợp khẩn cấp được quy định trong các
hiệp định về biện pháp tự vệ của WTO. Hiệp định đưa ra một khuôn khổ về
các thủ tục trong nước mà theo đó có thể đem lại quyết định hạn chế nhập
khẩu hàng hóa đã hoặc đang gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất
các hàng hóa tương tự trong nước. Nhìn chung các biện pháp tự vệ được áp
dụng đối với hàng nhập khẩu bất kể từ nước nào. Nước xuất khẩu thông
thường được phép phản ứng lại các hạn chế thương mại của nước nhập khẩu.
Một trong số các yêu cầu về thủ tục của hiệp định tự vệ là yêu cầu nước
thành viên khi xem xét sử dụng biện pháp tự vệ phải đưa ra cơ hội thích hợp
để tham vấn trước với các nước thành viên có quyền lợi đáng kể với tư cách
là nhà xuất khẩu sản phẩm liên quan.
d) Các rào cản phi thuế quan:
Hàng rào phi thuế quan là khái niệm chỉ các rào cản đối với thương mại và
không phải thuế quan như : cơ chế cấp giấy phép nhập khẩu, các quy định về
định giá hải quan đối với hàng hóa, kiểm hóa trước khi xuất; các quy tắc
xuất xứ; các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại.
3.2 Các quy định cơ bản về thương mại dịch vụ:
+Theo hiệp định GATS thì thương mại dịch vụ được hiểu là sự cung cấp
một dịch vụ: từ lãnh thổ nước này đến lãnh thổ của một nước khác theo
phương thức cung ứng dịch vụ qua biên giới;trên lãnh thổ của một nước này
11
(nước sử dụng dịch vụ) cho người sử dụng dịch vụ của bất kì nước nào khác
theo phương thức tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài; Bởi người tổ chức cung

ứng dịch vụ của nước này tại bất kì một nước khác (nước sử dụng dịch vụ)
theo phương thức hiện diện thương mại; Bởi người thể nhân cung cấp dịch
vụ của nước này (nước cung cấp dịch vụ) tại bất kì một nước khác (nước sử
dụng dịch vụ) theo phương thức hiện diện thể nhân.
+ Hoạt động thương mại dịch vụ quốc tế tuân theo những nguyên tắc cơ bản
như là:
- Đối xử tối huệ quốc (MFN) ưu đãi nào đã được dành cho dịch vụ và nhà
cung cấp dịch vụ của một nước thì phải được dành cho dịch vụ và nhà cung
cấp dịch vụ của tất cả các nước khác. Nguyên tắc MFN có nghĩa là tất cả các
đối tác thương mại được đối xử công bằng theo đúng nguyên tắc không phân
biệt đối xử.Trong khuôn khổ của GATS nếu một nước mở cửa một lĩnh vực
cho cạnh tranh nước ngoài thì nước đó sẽ phải dành cơ hội đồng đều cho các
nhà cung ứng dịch vụ của tất cả các nước thành viên của WTO. Ngoài ra
nguyên tắc MFN cũng có những ngoại lệ trong các quy định cụ thể của các
tổ chức kinh tế.
- Tuân thủ các cam kết mở cửa thị trường (MA) và đãi ngộ quốc gia (NT):
Cam kết mở cửa thị trường nội địa và mức độ mở cửa trong các lĩnh vực cụ
thể chính là kết quả của các cuộc đàm phán.Các cam kết này được liệt kê
trong các danh mục các ngành sẽ mở cửa, mức độ mở cửa đối với mỗi ngành
và các hạn chế có thể có đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia.
- Chấp nhận loại trừ các dịch vụ công: Các dịch vụ công được loại trừ khỏi
luật thương mại quốc tế và không có quy định nào của GATS buộc các cơ
quan công quyền phải tư nhân hóa các ngành công nghiệp dịch vụ.
12
- Đảm bảo tính minh bạch công khai: Chính phủ các nước phải công bố tất
cả các luật, quy định phù hợp và thiết lập các điểm thông tin trong các cơ
quan hành chính của mình.
- Công nhận hệ thống chất lượng: Khi hai hay nhiều chính phủ ký hiệp định
công nhận hệ thống chất lượng của nhau( chẳng hạn trong việc cấp giấy
phép hoặc chứng nhận cho các nhà cung ứng dịch vụ) thì họ phải tạo điều

kiện cho các thành viên khác được đàm phán với họ về các thỏa thuận tương
tự.
- Được thanh toán và chuyển tiền quốc tế theo lộ trình tự do hóa từng bước:
3.3 Các quy định cơ bản của luật thương mại quốc tế về đầu tư nước
ngoài:
+Đầu tư nước ngoài là hình thức lưu chuyển tư bản từ nước này sang nước
khác nhằm mục đích kinh tế, kinh tế - xã hội nhất định. Có hai loại hình đầu
tư nước ngoài phổ biến là : Đầu tư công cộng nước ngoài và đầu tư tư nhân
nước ngoài .
+) Đầu tư công cộng nước ngoài : Là đầu tư nước ngoài dưới dạng cho vay,
tín dụng, trợ cấp hay viện trợ không hoàn lại của các quốc gia hoặc tổ chức
quốc tế liên chính phủ cấp cho một nước ( thường là nước đang phát triển )
nhằm chủ yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế và cải thiện mức sống ở nước
đó, với những điều kiện tài chính dễ dàng, không áp dụng trong quan hệ
thương mại thông thường .
+) Đầu tư tư nhân nước ngoài : Là đầu tư nước ngoài của một cá nhân hay
tổ chức trên lãnh thổ một quốc gia khác nhằm mục đích kinh tế, kinh tế xã
hội nhất định. Hình thức đầu tư này làm phát sinh nhiều mối quan hệ pháp
lý (giữa tư nhân xuất vốn với quốc gia nhập vốn hay với tư nhân nhập vốn
thuộc quốc gia đó; giữa quốc gia có người xuất vốn với quốc gia nhập vốn).
13
Các quan hệ pháp lý này vừa có nội dung pháp lý quốc tế, vừa có nội dung
pháp lý quốc nội về dân sự, thương mại có yêu tố nước ngoài.
+ Vai trò của đầu tư nước ngoài
Đối với các nước xuất vốn đầu tư, ĐTNN góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư; xây dựng thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định, giá hạ;
và bành trướng sức mạnh kinh tế, nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc
tế.
Đối với các nước nhận vốn đầu tư, ĐTNN giúp giải quyết những khó khăn
về kinh tế và xã hội trong nước như nạn thất nghiệp, lạm phát; tăng thu

ngân sách dưới hình thức các loại thuế; tạo môi trường cạnh tranh để thúc
đẩy phát triển kinh tế, thương mại trong nước, giúp các nhà doanh nghiệp
địa phương học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến, ứng dụng kĩ thuật mới;
và giảm một phần nợ nước ngoài.
+ Các hình thức đầu tư công cộng
Thứ nhất , trong quan hệ đa phương
Trên phạm vi toàn cầu, Hệ thống Liên hợp quốc thực hiện viện trợ tài
chính công cộng đa phương thông qua Tập đoàn Ngân hàng Thế giới, đặc
biệt là IBRD, IDA và IFC, trong đó Ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển
( IBRD) là cơ quan tài trợ có thẩm quyền chung; Hiệp hội quốc tế phát triển
( IDA) là cơ quan cung cấp các khoản tín dụng cho nhu cầu phát triển của
các nước nghèo nhất và công ty tài chính quốc tế ( IFC ) là cơ quan khuyến
khích sự phát triển của khu vực tư nhân trong nền kinh tế các nước đang
phát triển .
Ngoài ra, các nước còn lập ra một số quỹ viện trợ hoạt động với tư cách
là những cơ quan phụ trợ hay tổ chức chuyên môn của Hệ thống Liên hợp
quốc .
14

×