MỞ ĐẦU
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng được quy định khá cụ
thể trong BLDS 2005. Tuy nhiên, trách nhiệm này không phải trong mọi trường hợp đều
được đặt ra cho người trực tiếp gây thiệt hại. Việc tìm hiểu những quy định của pháp luật
về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thuộc về
ai trong từng trường hợp cụ thể, đảm bảo nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời, bảo
vệ lợi ích cho người bị thiệt hại.
NỘI DUNG
A. TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
1. Khái niệm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển của
pháp luật thế giới cũng như pháp luật Việt Nam. Kế thừa những quy định về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, pháp luật dân sự ngày
nay đã có những quy định khá chi tiết về vấn đề này, cụ thể tại Điều 307 về trách nhiệm
bổi thường thiệt hại nói chung và chương XXI về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm BTTH mà chỉ
nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm,
…
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lí, ta có thể hiểu trách nhiệm BTTH là một
loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lí của
mình, gây tổn hại cho người khác thì phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra
1
.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm BTTH. Khái niệm về
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng chỉ được xây dựng dưới dạng quan điểm mà
chưa được ghi nhận chính thức trong bất cứ một văn bản pháp luật nào. Theo đó, trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự theo đó, người
có hành vi trái pháp luật dân sự phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
1
ThS. Nguyễn Minh Oanh – Khoa pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội, Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi chủ thể luật dân sự có hành vi
vi phạm nói chung như xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Ngoài ra, trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng còn phát sinh ngay cả khi hai bên có quan hệ hợp đồng trong trường hợp
gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng hoặc các bên có quan hệ hợp đồng nhưng thiệt hại
xảy ra không liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.
Là một loại trách nhiệm dân sự nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm dân sự
nói chung, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng còn có những đặc điểm riêng như:
- Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi thỏa mãn những điều kiện nhất
định do pháp luật quy định, giữa các bên không có quan hệ hợp đồng, thiệt hại xảy ra
không liên quan đến hợp đồng.
- Thiệt hại xảy ra rất đa dạng.
- Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm tài sản, hậu quả pháp lí mà người
gây thiệt hại phải gánh chịu là hậu quả bất lợi về tài sản.
- Người gây thiệt hại phải bồi thường trong một số trường hợp không có lỗi.
2. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp
luật quy định. Các điều kiện đó là: có thiệt hại xảy ra; hành vi gây thiệt hại là hành vi trái
pháp luật; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra; có lỗi.
Lỗi không phải là điều kiện bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng,
trong một số trường hợp, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh ngay cả khi người
gây thiệt hại không có lỗi (Khoản 3 Điều 623, Điều 624 BLDS 2005).
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Việc BTTH ngoài hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc sau:
- Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức
bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công
việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.
2
- Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người
gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi
mức bồi thường.
B. NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN
DO GÂY THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
I - Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Người gây thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà
nước,… Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có “khả năng” bồi thường và
chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể
không phải do chính họ thực hiện. BLDS quy định về năng lực chịu trách nhiệm BTTH
của cá nhân (Điều 606) mà không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác.
Bởi vậy, các chủ thể khác được mặc nhiên coi là có năng lực chịu trách nhiệm BTTH.
Việc xác định cá nhân nào có năng lực chịu trách nhiệm BTTH và phải BTTH trong
trường hợp nào có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị thiệt hại.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật
quy định. Khi có thiệt hại xảy ra, thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp luật, có mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi thì trong đa số trường
hợp, người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau như người gây thiệt hại bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, không có tài sản hoặc có tài sản nhưng không đủ để thực
hiện trách nhiệm bồi thường mà người gây thiệt hại không thể trực tiếp bồi thường cho
người bị thiệt hại. Vậy, câu hỏi đặt ra là ai sẽ là người có trách nhiệm bồi thường trong
những trường hợp trên?
Pháp luật cũng đã dự liệu cách giải quyết cho những tình huống này. Trong từng
hoàn cảnh cụ thể, luật dân sự xác định trách nhiệm BTTH thuộc về cha, mẹ của người
3
gây thiệt hại là người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, người giám hộ của người gây
thiệt hại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,… Cá thể hóa
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là việc xác định người có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại chính trong từng trường hợp gây thiệt hại cụ thể bất luận người đó
có phải là người trực tiếp gây ra thiệt hại hay không.
Việc cá thể hóa trách nhiệm bồi thường chính là việc quy trách nhiệm bồi thường
cho một chủ thể cụ thể. Đây là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong vấn đề
BTTH ngoài hợp đồng. Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ giúp cho việc giải
quyết vấn đề bồi thường thiệt hại diễn ra dễ dàng hơn, xác định đúng người có trách
nhiệm bồi thường sẽ tạo ra tính khả thi cho công tác thi hành án sau này; cá thể hóa trách
nhiệm để xác định trách nhiệm thuộc về ai giảm bớt nguy cơ việc lạm dụng việc mất
năng lực hay không đầy đủ khả năng nhận thức của người khác mà kích động họ gây
thiệt hại cho người khác và thu lợi bất chính, đồng thời nâng cao tinh thần, trách nhiệm
của những người có nghĩa vụ trông nom, giáo dục những người không có năng lực hành
vi hoặc có năng lực hành vi một phần.
Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường có thể dựa trên những tiêu chí nhất định như
độ tuổi và trình độ nhận thức. Cụ thể:
- Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ gây thiệt hại thì phải tự mình BTTH.
- Người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên, do đó khi người chưa thành niên gây
thiệt hại cần lưu ý:
+ Nếu người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại bằng tài sản của mình; nếu tài sản của cha mẹ
không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì
lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.
+ Nếu người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản
của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần
còn thiếu bằng tài sản của mình.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người
giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi
4
thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi
thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ
chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của
mình để bồi thường.
- Người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại trong thời gian
trường học, bệnh việc, tổ chức khác trực tiếp quản lí thì các tổ chức này phải BTTH.
Nếu tổ chức này chứng minh được mình không có lỗi thì cha mẹ người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự phải BTTH.
II - Năng lực bồi thường thiệt hại của người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Khoản 1 Điều 606 BLDS 2005 quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây
thiệt hại thì phải tự bồi thường”, tuy nhiên, qua việc xem xét mối liên hệ giữa quy định
này với quy định tại Khoản 3 Điều 606 thì thấy rằng cá nhân có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ thì phải tự bồi thường nếu gây thiệt hại.
Điều 19 về năng lực hành vi dân sự của người thành niên quy định: “Người thành
niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ trừ trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23
của Bộ luật này”. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người thành
niên nếu không bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình mà bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự; không
nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình mà
bị Tòa án tuyên hạn chế năng lực hành vi dân sự thì được coi là có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ. Ở mỗi con người bình thường đều có khả năng hình thành và phát triển ý thức
và tự ý thức. Nhưng phải qua quá trình hoạt động và giáo dục trong điều kiện xã hội, khả
năng đó mới có thể trở thành hiện thực. Những người đáp ứng đủ các điều kiện trên, xét
về cơ bản tâm sinh lí của họ đều đã phát triền một cách hoàn thiện. Họ hoàn toàn có đầy
đủ khả năng để nhận thức về sự vật, sự việc, và tự quyết định về hành động của mình,
hoàn toàn có khả năng nhận biết được thế giới khách quan. Họ có nghĩa vụ phải biết
trước những hành vi của mình sẽ đem lại những hậu quả như thế nào, hành vi đó có xâm
5
phạm đến lợi ích của các chủ thể khác hay không từ đó lựa chọn cách xử sự phù hợp,
đảm bảo cân bằng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích của các chủ thể khác và xã hội.
Việc xác định người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ phải bồi thường cho những thiệt hại mà mình gây ra là hoàn toàn phù hợp. Bởi lẽ,
người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đủ điều kiện tham gia vào các quan hệ pháp luật do
vây, họ hoàn toàn có năng lực để tham gia và trở thành chủ thể của quan hệ BTTH và
nếu là người gây thiệt hại thì họ hoàn toàn có đủ năng lực để thực hiện trách nhiệm bồi
thường. Ở độ tuổi này, họ đã có khả năng lao động, có thể tạo ra thu nhập, hình thành
khối tài sản riêng của mình.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ trong số những người từ đủ
mười tám tuổi trở lên là những người mới trưởng thành, họ vẫn còn đi học, chưa có công
việc làm, chưa có thu nhập hay tài sản đáng kể, vẫn sống phụ thuộc vào cha, mẹ. Vậy,
trong trường hợp những người từ đủ mười tám tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
nhưng không có tài sản riêng gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thuộc về ai? Nếu
họ vẫn là những người phải chịu trách nhiệm BTTH thì họ phải thực hiện trách nhiệm đó
như thế nào? Nếu họ không thực hiện được thì phải chăng họ phải gánh chịu những hậu
quả pháp lí bất lợi và những người bị thiệt hại cũng không được bồi thường? Đây là một
tình huống xảy ra khá phổ biến trong những vụ về xác định trách nhiệm BTTH ngoài
hợp đồng. Nếu Tòa án áp dụng một cách tuyệt đối và cứng nhắc những quy định của
pháp luật thì sẽ phải hoãn việc thi hành án cho đến khi người gây thiệt hại là người mới
trưởng thành có việc làm, có thu nhập. Tuy nhiên, việc làm này lại trái với nguyên tắc
bồi thường toàn bộ và kịp thời, không đảm bảo khôi phục lại tình trạng ban đầu hoặc
khắc phục thiệt hại một cách nhanh nhất, đảm bảo cuộc sống ổn định cho người bị thiệt
hại trước khi bị xâm phạm. Vậy nên chăng trong trường hợp này Toà án có thể chủ động
giải thích, khuyến khích cha mẹ người thành niên đó tự nguyện bồi thường thiệt hại do
người mới trưởng thành gây ra. Toà án có thể công nhận sự tự nguyện đó, những về mặt
pháp lý, không thể quyết định cha mẹ họ phải bồi thường. Ngoài ra, trong trường hợp
người thành niên có thu nhập, còn ở chung và chung kinh tế với cha mẹ, mà gây thiệt hại
thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng phần thu nhập thường xuyên của
6
bản thân và phần tài sản chung với cha mẹ. Toà án cần triệu tập cha mẹ họ đến phiên toà
với tư cách là dự sự.
Năng lực bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại do tài sản của vợ chồng
gây ra
Liên quan đến vấn đề năng lực BTTH của người đã thành niên, có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự, theo ý kiến chủ quan, em xin được đề cập đến vấn đề BTTH ngoài
hợp đồng do tài sản của vợ chồng gây ra. Trên thực tế, có không ít những trường hợp tài
sản gây thiệt hại là tài sản thuộc sở hữu chung hoặc riêng của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân. Việc xác định trách nhiệm BTTH thuộc về ai trong những trường hợp này vẫn còn
được ít được nhắc tới.
Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành về tài sản, tài sản của vợ chồng bao
gồm vật, tiền và các quyền tài sản. Tài sản của vợ chồng có thể là động sản hay bất động
sản… Tất cả các tài sản này dựa vào các căn cứ khác nhau mà được phân thành tài sản
chung và tài sản riêng; việc xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ,
chồng là cơ sở để giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
khi có thiệt hại xảy ra.
Việc xác định trách nhiệm BTTH trong trường hợp thiệt hại do tài sản của vợ
chồng gây ra, bên cạnh việc xem xét các yếu tố để xác định trách nhiệm BTTH còn phải
căn cứ vào các loại tài sản cụ thể để xác định trách nhiệm BTTH. Chính vì vậy, trách
nhiệm BTTH do tài sản của vợ chồng gây ra cần phải được xem xét trên những khía
cạnh sau:
Thứ nhất, cần phải xác định có căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng hay không khi tài sản của vợ chồng gây thiệt hại. Điều này được xác định dựa trên
các căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, cụ thể: có thiệt hại xảy ra, có
hành vi trái pháp luật gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
và thiệt hại xảy ra, có lỗi (không phải điều kiện bắt buộc).
Thứ hai, cần xác định xem tài sản gây thiệt hại là tài sản chung hay tài sản riêng
của vợ, chồng. Đây là vấn đề quan trọng để chúng ta xác định trách nhiệm BTTH là
trách nhiệm của một bên vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng. Chính vì thế, việc xác định
7
một cách chính xác trách nhiệm của vợ chồng đối với việc BTTH trong trường hợp này
có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản của vợ
chồng, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của người bị thiệt hại.
Thứ ba, mặc dù là trách nhiệm BTTH được xác định là của một bên vợ, chồng
nhưng bên kia đã tự nguyện dùng tài sản chung của vợ chồng để bồi thường hoặc có khi
dùng tài sản riêng của mình để bồi thường cho phía bị thiệt hại, điều này hoàn toàn được
chấp nhận, miễn là thiệt hại được bồi thường toàn bộ và kịp thời theo đúng quy định của
pháp luật.
Theo nguyên tắc trách nhiệm thuộc về chủ sở hữu tài sản, trong trường hợp tài sản
gây thiệt hại là tài sản chung của vợ chồng thì trách nhiệm BTTH phát sinh là trách
nhiệm của cả hai vợ chồng. Điều này hoàn toàn phù hợp vì đối với tài sản chung hợp
nhất của vợ chồng thì vợ, chồng hoàn toàn bình đẳng về căn cứ tạo lập tài sản, bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ. Vì lẽ đó, cả hai vợ chồng phải có trách nhiệm BTTH bằng tài sản
chung của mình.
Cũng theo nguyên tắc nói trên, khi vợ, chồng có tài sản riêng gây thiệt hại thì
trách nhiệm BTTH lúc này chỉ phát sinh đối với một bên vợ, chồng. Tuy nhiên, trong đời
sống hôn nhân gia đình, thiệt hại này cũng có thể được vợ chồng thỏa thuận bồi thường
bằng tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp này được thể hiện khá rõ trong tình huống
tài sản riêng của vợ, chồng là nguồn nguy hiểm cao độ nhưng lại do bên còn lại sử dụng
và trong thời gian đó gây thiệt hại cho người khác. Khoản 2 Điều 623 quy định: “Chủ sở
hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra; nếu chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải
bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Cũng liên quan đến vấn đề này, Nghị
quyết 03/2006/NQ – HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về
BTTH ngoài hợp đồng bổ sung: “Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao
nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường
hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại”. Quan hệ giữa chủ sở hữu tài sản và người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp trong
8