Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Sự hình thành của Phật Giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.16 KB, 19 trang )


1

I. Đơi nét về sự hình thành Phật giáo
Vào thế kỉ I TCN cùng với sự xuất hiện cảu một số dòng đạo khác thì
Phật giáo cũng chinh thức ra đời ở
ẤN ĐỘ
.
Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo phật là Xít-Đắc-Ta-Gơ-Ta-Ma
(Siddharta - Gautima), sau khi thành Phật thì được đệ tử tơn xưng là Xakia-
Muni (thích ca mẫu ni), con vua Suđơđana nước Capilavaxta ở chân núi
Himalaya, miền đất bao gồm một phần miền nam nước Nêpan và một phần của
ấn độ ngày nay.
Năm 29 tuổi, hồng tử Xít- Đac-Ta xuất gia đi tu để tìm con đường cứu
vớt những nỗi khổ cảu lồi người. Đến năm 35 tuổi, Xít-Đắc-Ta đã nghĩ ra được
cách giải thốt bản chất cảu tồn tại,nguồn gốc cảu mọi đau khổ do đó cho rằng
đã tìm được con dường cứu vớt. Từ đó ơng được gọi là Budda, ta quen gọi là
Phật hay là Bụt nghĩa là “đã giác ngộ”, “người đã hiểu được chân lý”.
Vào niên đại cảu Phật, hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau .Có một
số người cho rằng Phật sinh năm 536 TCN và mất năm 483 TCN .Một số người
khác lại cho rằng Phật sinh năm 544 TCN >Tín đồ Phật lấy năm 544 làm năm
mở đầu cho kỉ ngun Phật giáo.
II. Giáo lý Phật giáo
Nội dung của học thuyết Phật giáo được tóm tắt trong câu nói sau đây cảu
Phật thích ca “Trước đây và ngày nay ta chỉ lý giải và nêu ra chân lý về nỗi khổ
và sự giải thốt nỗi khổ ”,”cũng như nước đại dương có một vị mặn,học thuyết
của ta chỉ có một vị là cứu vớt”.
Cái chân lý về nỗi khổ đau và sự giải thốt khỏi khổ đau ấy dược thể hiện
trong thuyết “Tứ thánh đế”hoặc còn gọi là “Tứ chân đế”.”Tứ đế”.”Tứ diệu đế”.
Giáo lý Tứ đế là nền tảng của hệ thống giỏo lý đạo Phật. Ngay sau khi
Đức Phật thành đạo, Ngài đến vườn Nai thuyết pháp cho năm anh em Kiều Trần


Như, những bạn tu khổ hạnh với Ngài trước đây; nội dung bài thuyết giáo đầu
tiên ấy là Tứ diệu đế. Từ đó, xun suốt hành trỡnh hoằng húa của Ngài, giỏo lý
Tứ diệu đế được triển khai, mở rộng. Đức Phật nhiều lần xác định về tầm quan
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

2
trọng và siêu việt của giáo lý Tứ đế, Ngài dạy: "Những bậc A La Hán chánh
đẳng giác ở trong q khứ, ở trong tương lai hay hiện tại, được coi là vị Chánh
đẳng giác đúng nghĩa là Chánh đẳng giác về Bốn thánh đế" (Tương Ưng V).
Mục đích của đạo Phật là giải thốt mọi đau khổ, vỡ vậy cỏc phỏp mụn
được thiết lập, mọi nỗ lực tu tập đều hướng về mục tiêu ấy. Giáo lý Tứ điệu đế
được coi là thiện pháp tối thắng. Ngài Xá Lợi Phất nhận định: "Ví như tất cả dấu
chân của mọi lồi động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vỡ dấu chõn này lớn
nhất trong tất cả dấu chân. Cũng vậy, chư hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập
trung trong Tứ thánh đế" (Trung Bộ kinh I). Đức Phật cũng dạy: "Này các Tỳ
kheo, nếu có ai nói rằng khơng cần xây dựng tầng dưới của ngơi nhà, tơi sẽ xây
tầng trên của ngơi nhà, sự kiện này khơng thể xảy ra. Cũng vậy, nếu có ai nói
rằng khơng cần giác ngộ Tứ thánh đế, ta sẽ đoạn diệt khổ đau, sự kiện này
khơng thể xảy ra" (Tương Ưng V).
Cho đến lúc sắp nhập Niết bàn dưới cây sa la song thọ, một lần cuối, Ngài
nhắc lại giáo lý Tứ đế: "Các thầy Tỳ kheo, đối với Bốn chân lý, các thầy cũn
hồi nghi chỗ nào thỡ cú thể chất vấn tức khắc, khơng nên giữ sự hồi nghi mà
khơng cầu giải đáp" (kinh Di Giáo, Trí Quang dịch).
Như vậy, tầm quan trọng của giáo lý Tứ diệu đế đó được xác định bởi
chính Đức Phật và những đệ tử xuất sắc của Ngài. Trải qua hơn 2.500 năm, giáo
lý Tứ diệu đế vẫn được tất cả các bộ phái Phật giáo, Ngun thủy hay Đại thừa,
đều xiển dương và hành trỡ.
1. Nội dung
Định nghĩa
Tứ diệu đế là Hán dịch từ chữ Phạn Catvary Aryasatyani. Arya là Diệu,

cao q, mầu nhiệm; Satya là Đế, là sự thật, là chân lý. Tứ diệu đế cũn được gọi
là Tứ chân đế, Tứ thánh đế, Bốn chân lý mầu nhiệm.
1- Khổ đế (Dukkha): là thực trạng đau khổ của con người.
2- Tập đế (Samudaya): là nguồn gốc hay ngun nhân dẫn đến thực trạng
đau khổ.
3- Diệt đế (Nirodha): là sự kết thúc hay sự chấm dứt khổ đau.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

3
4- Đạo đế (Magga): là con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến
chấm dứt khổ đau.
Giáo lý Tứ diệu đế được nói đến trong các kinh: Đế phân biệt tâm kinh
(Trung Bộ III), kinh Phân biệt thánh đế (Trung A Hàm), kinh Chuyển pháp ln
(Tương Ưng & Tạp A Hàm), và rải rác trong kinh tạng Pàli cũng như Hán tạng.
Nội dung Tứ diệu đế
1)- Khổ đế (Dukkha): Khổ đau là một thực trạng mà con người cảm nhận
từ lúc lọt lũng mẹ cho đến khi nhắm mắt xi tay, khơng ai phủ nhận điều ấy.
Con người ln có xu hướng vượt thốt khổ đau, tỡm kiếm hạnh phỳc, nhưng vỡ
khụng hiểu rừ bản chất của khổ đau nên khơng tỡm được lối thốt thực sự; đơi
khi ngược lại, càng tỡm kiếm hạnh phỳc càng vướng vào khổ đau.
Khổ đế là một chân lý, một sự thực về bản chất cái khổ. Đức Phật dạy:
"Này các Tỳ kheo, sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương u
mà biệt ly là khổ, mong cầu mà khơng được là khổ. Tóm lại, chấp thủ năm uẩn
là khổ" (Tương Ưng V). Như vậy, Khổ có thể chia làm 3 phương diện như sau:
a)- Về phương diện sinh lý: Khổ là một cảm giác khó chịu, bức xúc, đau
đớn. Khi ta bị một gai nhọn đâm buốt bàn chân hay một hạt cát vào trong mắt
khó chịu..., đây là sự bức bách đau đớn của thể xác. Sự đau đớn của thể xác rất
lớn, như Lóo Tử núi: "Ngụ hữu đại hoạn do ngơ hữu thân" (Có thân nên có khổ).
Con người sinh ra đó vất vả khốn đốn; lớn lên già yếu, bệnh tật khốn khổ vơ
cùng; và cuối cùng, cái chết: sự tan ró cuối cựng của thể xỏc đem đến khổ thọ

lớn lao.
b)- Về phương diện tâm lý: Là sự khổ đau do khơng toại ý, khụng vừa
lũng v.v... Sự khụng vừa ý sẽ tạo nờn nỗi đau đớn về tâm lý. Những mất mát,
thua thiệt trong cuộc đời làm mỡnh khổ. Người mỡnh thương muốn gần mà
khơng được, người mỡnh ghột mà cứ gặp gỡ hồi, mỡnh muốn tiền tài, danh
vọng, địa vị nhưng nó cứ vụt qua ngồi tầm tay của mỡnh. Cuộc đời như muốn
trêu ngươi, những ước mơ khơng toại ý, lũng mỡnh luụn trống trải, bức bỏch
v.v... Đây là nỗi khổ thuộc về tâm lý.
c)- Khổ là sự chấp thủ năm uẩn (Upadana-skandhas): Cỏi khổ thứ ba
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

4
ny bao hm hai ci kh trn, nh trong kinh ú dy: "Chp th nm un l
kh".
Nm un l 5 yu t nng ta vo nhau to thnh con ngi, gm cú:
thõn th vt lý v cu trc từm lý nh: cm giỏc, nim tng, hnh v thc (sc,
th, tng, hnh, thc). Núi mt cỏch tng quỏt, khi ta bỏm vớu vo 5 yu t
trờn, coi ú l ta, l ca ta, l t ngú ca ta, th s kh au cú mt. í nim v
"thõn th tụi", "tnh cm ti", "t tng tụi", "tõm t tụi", "nhn thc ca tụi"...
hnh thnh mt ci ti ham mun, v k; t ú, mi kh au phỏt sinh. Mi kh
au, lo lng, s húi, tht vng, iờn cung u gn lin vi ý nim v "ci ti"
y.
Túm li, cỏi kh v mt hin tng l cm giỏc kh v thõn, s bc xỳc
ca hon cnh, s khụng toi nguyn ca tõm lý. V mt bn cht, kh au l do
s chp th, ngú hỳa nm un.
2)- Tp (Samudaya): Tp l tch tp, cc phin núo t hi to thnh
nng lc a n kh au; õy l nguyờn nhõn, l ngun gc ca cỏc kh. Khi
nhn thc c bn cht ca kh mt cỏch r rng, ta mi cỳ th i vo con
ng on tn kh au (o ).
Cuc i l kh au hay khụng kh? Cõu tr li l tựy thuc vo thỏi

tõm lý, cm th v nhn thc ca mi ngi; nguyờn nhõn ca kh cú ngun gc
sõu xa trong tõm tng ca con ngi. Pht giỏo cng nhn thy cc nguyn
nhừn ca au kh; cỳ ci pht sinh t vt cht hay hon cnh xú hi, nhng
nguyờn nhõn tht s vn l tõm thc.
Nguyờn nhõn ca kh thng c cỏc kinh cp chớnh l tham ỏi, do
tham ỏi m chp th, bỏm vớu vo cỏc i tng ca tham ỏi. S khao khỏt v
dc lc s dn n kh au, bi v lng khao kht y khng bao gi tha mún.
Nguyờn nhõn sõu hn v cn bn hn chớnh l vụ minh, tc l si mờ
khụng thy r bn cht ca s vt hin tng u nng vo nhau m sinh khi,
u vụ thng v chuyn bin, khụng cú cỏi ch th, cỏi bn vng c lp
trong chỳng. Do khụng thy r nn sinh từm tham mun, m gi ly cc i
tng lc thỳ. Do khụng thy r mi lm tng rng "cỏi tụi" l quan trng nht,
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN

5
là cái có thực cần phải bám víu, củng cố và thỏa món nhu cầu của nú. Núi cỏch
khác, do vô minh mà có chấp thủ "cái tôi" và "cái của tôi" như thân tôi, tỡnh
cảm tụi, tư tưởng tôi..., người yêu của tôi, tài sản của tôi, sự nghiệp của tôi... Do
những chấp thủ ấy mà có những nỗi thống khổ của cuộc đời.
Tóm lại, chỳng ta cú thể nhận thấy một cỏch rừ ràng, khổ hay không là do
lòng mình; lòng mình đầy tham lam, chấp thủ, nhận thức sai lầm thì khổ là chắc
chắn. Nói cách khác, do cái nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay
không. Nếu không bị sự chấp ngó và dục vọng vị kỷ hay phiền nóo khuấy động,
chi phối, ngự trị trong tâm thỡ cuộc đời đầy an lạc, hạnh phúc.
3)- Diệt đế (Nirodha): Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt
hay dập tắt phiền nóo, nguyờn nhõn đưa đến đau khổ và sự chấm dứt khổ đau;
cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế đồng nghĩa với Niết bàn
(Nirvana/Nibbàna).
Đạo Phật xác nhận cuộc đời đầy dẫy những đau khổ, đồng thời cũng xác
định có một sự thật khác nữa là an lạc, hạnh phúc. Vỡ vậy mà cú sự tu tập để đạt

được hạnh phúc. Hạnh phúc là gỡ? Hạnh phỳc có các mức độ khác nhau.
a)- Hạnh phúc tương đối: Một khi bạn đó làm lắng dịu lũng tham ỏi, chấp
thủ, thỡ những nỗi lo õu, sợ hói, bất an giảm hẳn, thõn tõm của bạn trở nờn
thanh thản, đầu óc tỉnh táo; bạn nhỡn mọi vấn đề trở nên đơn giản và rộng lượng
hơn. Đó là một hỡnh thức của hạnh phỳc. Kinh Trung Bộ cú một vớ dụ: Cú một
người con trai đang yêu một cô gái. Tỡnh cờ, anh ta bắt gặp cụ gỏi núi chuyện,
cười đùa với một chàng trai khác. Tâm hồn của người con trai đang yêu ấy bị
xáo trộn mạnh mẽ, khó chịu, bực bội và đau khổ. Thời gian sau, người con trai
ấy không cũn yờu thương cô gái ấy nữa; lần này, anh ta gặp cô ái ấy đang nói
chuyện, cười đùa với những chàng trai khác, nhưng hỡnh ảnh ấy khụng làm tõm
hồn anh ta đau đớn nữa. Cũng vậy, nhờ tâm trí không bị chi phối bởi những tư
tưởng chấp thủ, nhờ không bị đun nóng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng, sợ
hói, mà tõm ý của bạn trầm tĩnh và sỏng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật
hiện tượng sâu sắc và chính xác hơn, bạn tạo nên một phép lạ: thân tâm được
chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn đối với mọi người độ lượng, bao dung và
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN

6
khiêm tốn; đối với của cải, tài sản, danh vọng trở nên thanh thản hơn, khơng cũn
bị ỏp lực của nú đè nặng lên trái tim mỡnh. Trờn cơ sở ấy, bạn hưởng thụ đời
sống có phẩm chất hơn.
Tóm lại, tùy vào khả năng giảm thiểu lũng tham, sõn và vụ minh đến mức
độ nào thỡ đời sống của bạn sẽ được tăng phần hạnh phúc lên mức độ ấy.
Nếu bạn phát triển hạnh phúc tinh thần cao hơn bằng cách tu tập thiền
định thỡ bạn sẽ cú sự an lạc tuyệt vời. Đức Phật dạy: "Có người có thể khơng bị
bệnh về thể xác trong một năm hay có thể đến cả trăm năm, nhưng thật hiếm có
người khơng bị bệnh về tinh thần, dù chỉ trong một phút". Những tâm lý được
coi là bệnh của tinh thần gồm có 5 trạng thái tâm lý, thường gọi là 5 triền cái:
tham lam, sân hận, hơn trầm ngủ nghỉ, dao động và hối hận, hồi nghi và do dự.
Khi 5 loại tâm lý này cú mặt, nú sẽ trúi buộc và ngăn che tâm trí bạn; loại trừ

chúng thỡ tinh thần sẽ sỏng tỏ thanh tịnh và an lạc như mặt trăng thốt khỏi mây
che. Các trạng thái hạnh phúc tinh thần này được gọi là Tứ thiền.
b)- Hạnh phúc tuyệt đối: Trên nền tảng hạnh phúc tinh thần, bạn phát triển
tuệ qn, hướng tâm đến đoạn trừ tồn bộ phiền nóo vi tế, thõm sõu, bạn cú thể
đạt hạnh phúc tuyệt đối, tối thượng là Niết bàn. Diệt đế chính là Niết bàn. Niết
bàn là sự thanh tịnh, là hạnh phúc tuyệt đối. Đức Phật dạy: "Vơ bệnh lợi tối
thắng, Niết bàn lạc tối thắng" (K.Magandiya, TBK II).
Niết bàn cũn được diễn tả dưới nhiều danh từ khác nhau, tiêu biểu như: vơ
sanh, giải thốt, vơ vi, vơ lậu, đáo bỉ ngạn, tịch tịnh, chân như, thực tướng, pháp
thân... Niết bàn khơng phải là đối tượng của tư duy, khái niệm hay ngơn ngữ.
Đây là trạng thái an lạc, hạnh phúc tuyệt đối khi tâm ý đó vắng mặt tham, sõn,
si.
Chúng ta thường quan niệm Niết bàn như một cảnh giới, một cừi nào đó
cao cấp hơn cừi người, như là cừi thiờn đường của các tơn giáo khác; đó là một
sai lầm lớn. Niết bàn vượt thốt mọi khái niệm đối đói về thời gian, khụng gian,
cú, khụng, lớn, nhỏ... Dự vậy, Niết bàn khụng phải là hư vơ, mà là một thực tại
thanh tịnh, siêu việt, khơng nằm trong phạm vi phân biệt của ý thức, hay nói
cách khác, khơng thể nhận thức được Niết bàn khi đang cũn tham, sõn, si. Một
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

7
vị Thiền sư nói: "Hóy nhỡn những rặng nỳi, những con suối chảy, những rừng
cây xanh ngắt đẹp tuyệt vời kia. Khi biết nhỡn mọi vật với một nhón quan mới,
một nhón quan khụng bị chi phối bởi tham sõn si, thỡ cảnh đẹp kia chính là Niết
bàn đó ! Niết bàn khơng phải là một nơi chốn nào khác biệt với thế gian, một
cảnh giới nào mà người ta có thể tỡm đến. Niết bàn chính là ở đây". Đức Phật và
các vị Bồ Tát, A La Hán đó đạt Niết bàn ngay trong đời sống này. Điều đó nghĩa
là Niết bàn nằm ngay trong tầm tay của mỗi người. Biểu hiện của Niết bàn là
khơng cũn tạo nghiệp và khụng cũn tỏi sinh.
4)- Đạo đế (Magga): Đạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt

được an lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày hay hạnh phúc tuyệt đối Niết
bàn. Như vậy, tồn bộ giáo lý mà Đức Phật đó dạy đều là Đạo đế, tổng qt và
căn bản gồm có 37 pháp, thường gọi là 37 phẩm trợ đạo. Đức Phật dạy: "Này
các Tỳ kheo, đây là những pháp do ta chứng ngộ và giảng dạy, các con phải
khéo học hỏi, thực chứng tu tập, truyền bá rộng rói để chánh pháp được trường
tồn, vỡ hạnh phỳc cho chỳng sinh, vỡ an lạc cho chỳng sinh, vỡ lũng thương
tưởng cho đời, vỡ hạnh phỳc, vỡ an lạc cho chư Thiên và lồi người. Đó là Bốn
niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần,
Tám thánh đạo phần" (kinh Đại Bát Niết Bàn).
Trong 37 phỏp thỡ Tỏm thỏnh đạo được coi là tiêu biểu và căn bản nhất
của Đạo đế. Tám thánh đạo, cũn gọi là Tỏm chỏnh đạo - con đường chân chính -
có 8 chi phần:
1)- Chính kiến (Sammà Ditthi): Thấy và hiểu đúng đắn, nghĩa là nhận
thức đúng về đạo đức của cuộc sống, cái nào là thiện, cái nào là ác. Nhận biết
đúng về bản chất của sự vật là vơ thường, vơ ngó, duyờn sinh. Nhận thức rừ bản
chất của khổ, nguyờn nhõn của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến hết khổ.
2)- Chánh tư duy (Sammà Sankappa): Suy nghĩ đúng đắn, nghĩa là
đừng để đầu óc của mỡnh nghĩ ngợi những vấn đề bất thiện như tham dục, tức
tối giận hờn, bạo động hóm hại... dẫn tư duy của mỡnh hướng về tâm cao
thượng như tư duy về sự bng thả, sự giải thốt, về thương u giúp đỡ chúng
sinh, về sự bất bạo động, nhẫn nhục, trầm tĩnh.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

×