Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Một số vấn đề chung về thuế giá trị gia tăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.21 KB, 14 trang )

Luật Tài chính – Bài tập học kỳ
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hệ thống pháp luật về thuế của Việt Nam hiện nay có nhiều loại thuế
được áp dụng như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế xuất
khẩu thuế nhập khẩu, … Mỗi loại thuế đều đóng một vai trò nhất định trong việc
tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước cũng như thực hiện chính sách điều tiết kinh
tế, tiêu dùng của nhà nước. Thuế giá trị gia tăng là một trong những loại thuế được
áp dụng phổ biến hiện nay, rất gần gũi với các nhà sản xuất, kinh doanh lẫn người
tiêu dùng. Đây là một loại thuế “trẻ” trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nhưng tính
chất và việc áp dụng nó đã thể hiện nhiều điểm tích cực.
Đối với Việt Nam, thuế giá trị gia tăng từ khi được áp dụng đã thể hiện nhiều
ưu điểm và phát huy được những lợi thế của nó. Tuy nhiên, với một nền kinh tế
đang trong giai đoạn quá độ - kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – việc
áp dụng pháp luật nói chung và pháp luật về thuế giá trị gia tăng nói riêng còn
không ít những vấn đề cần quan tâm.
Xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia
tăng để tìm ra những nguyên nhân của nó và đưa ra hướng hoàn thiện là một vấn đề
cấp thiết vì loại thuế này có mức độ ảnh hưởng rộng đối với người nộp thuế cũng
như đối tượng chịu thuế, và là một trong những nguồn thu cơ bản của ngân sách
nhà nước. Nâng cao được hiệu lực thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt
Nam sẽ giúp cho nhà sản xuất, người tiêu dùng và các chủ thể quản lý nhận thức rõ
vai trò và vị trí của thuế, tự nguyện thực hiện và đảm bảo thực hiện đúng đắn pháp
luật về loại thuế này.
Bài làm sẽ xem xét những vấn đề liên quan về thuế giá trị gia tăng, pháp luật
về thuế giá trị gia tăng; dựa vào pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng để đánh
giá những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật và đưa ra một số kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng.
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngân – KT32C007
1
Luật Tài chính – Bài tập học kỳ
NỘI DUNG


1. Một số vấn đề chung về thuế giá trị gia tăng
1.1 Khái niệm , bản chất và đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
1.1.1 Khái niệm thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu
nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hóa và được cung cấp dịch vụ
[3, tr.57]. Đây là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát
sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng [1, tr.737].
Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế hiện đại, được các nhà kinh tế nghiên
cứu từ những năm 1920 [4,tr.61] nhưng đến tận năm 1954 thì phương thức thu thuế
đối với phần giá trị tăng thêm của hàng hóa mới được áp dụng đầu tiên ở Pháp. Từ
năm 1968, Pháp mở rộng diện áp dụng đối với dịch vụ. Do có những ưu thế về việc
thu không gây ra tình trạng đánh thuế trùng lặp nên thuế này được nhiều nước áp
dụng. Năm 1977, Liên minh châu Âu ra Nghị quyết số 06 về hoàn thiện cơ chế thu
thuế giá trị gia tăng và xem việc áp dụng nó là điều kiện gia nhập cộng đồng [1,
tr.737]. Hiện nay, có khoảng 120 quốc gia, vùng lãnh thổ đã áp dụng loại thuế này
[4,tr.61].
1.1.2 Bản chất của thuế giá trị gia tăng
Bản chất của thuế giá trị gia tăng là thuế gián thu. Thuế thu đối với người
tiêu dùng thông qua việc nộp thuế của người sản xuất, kinh doanh. Tính gián thu
của loại thuế gián thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế và người thực tế chịu thuế
khác nhau. Người nộp thuế là người sản xuất, kinh doanh nhưng người thực tế chịu
thuế là người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ vì số thuế nhà nước thu là một bộ phận
cấu thành của giá hàng hóa, dịch vụ. Do tính gián thu này mà thuế giá trị gia tăng
có khả năng điểu tiết tiêu dùng xã hội. Đây cũng là một loại thuế đem lại nguồn thu
lớn cho ngân sách, dễ quản lý vì người sản xuất, kinh doanh không phải là người
thực tế chịu thuế nên sẽ hạn chế động cơ trốn thuế [1, tr.737,738].
Vì thuế giá trị gia tăng cấu thành một phần trong giá bán (giá cả hàng hóa,
dịch vụ) nên loại thuế này có ảnh hưởng trực tiếp dến sức tiêu dùng trong nước
cũng như chỉ số lạm phát của nền kinh tế. Nhà nước cần quan tâm đến vấn đề này
để quyết định những chính sách thuế suất hợp lý trong những giai đoạn nhất định

để đảm bảo khi thực hiện thuế giá trị gia tăng không gây ra những xáo trộn lớn
trong dân chúng [4,tr,58].
1.1.3 Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng[4,tr.59-61]
Thứ nhất, thuế giá trị gia tăng có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi người
tiêu dùng trong xã hội khi mua hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ đều phải chi trả một
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngân – KT32C007
2
Luật Tài chính – Bài tập học kỳ
phần thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất của nền kinh tế xã hội. Loại
thuế này thể hiện sự công bằng trong chính sách thuế của nhà nước, đồng thời cũng
là công cụ để nhà nước điều tiết tiêu dùng xã hội: đánh thuế thấp đối với những
hàng hóa, dịch vụ được khuyến khích tiêu dùng và đánh thuế cao đối với những
hàng hóa, dịch vụ cần hạn chế tiêu dùng.
Thứ hai, thuế giá trị gia tăng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng
hóa dịch vụ, cho nên không gây đột biến về giá cho người tiêu dùng.
Thứ ba, nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ thì số thuế giá
trị gia tăng phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác
nhau. Đây chính là tính liên hoàn của loại thuế này, và cũng là ưu việt của nó so với
thuế hàng hóa dịch vụ thông thường (thuế doanh thu) mà Việt Nam và nhiều quốc
gia đã áp dụng trong giai đoạn trước đây.
Trong tương quan so sánh với thuế doanh thu trước đây, thuế giá trị gia tăng
được coi là mọt loại thuế lý tưởng khi thỏa mãn bốn tiêu chuẩn: (i) đơn giản về mặt
kỹ thuật, tức là không tạo ra cơ hội trốn thuế: thuế suất áp dụng không ở nhiều
mức; (ii) hiệu quả về mặt tài chính, do chủ thể chịu thuế và đối tượng chịu thuế rất
rộng; (iii) công bằng về mặt xã hội: cơ chế đánh thuế của nó với mức thuế suất thấp
đánh vào các mặt hàng tiêu dùng thông thường và mức cao đánh vào các mặt hàng
xa xỉ, nhờ đó nó góp phần vào phân phối lại thu nhập tức là đưa lại kết quả phân
phối lại của cải xã hội; và (iv) có tác dụng khuyến khích về mặt kinh tế, tức là có
tác động thúc đẩy kinh tế phát triển nhờ vào cơ chế khấu trừ thuế đầu vào và miễn
thuế đối với hàng xuất khẩu. [3]

1.2 Pháp luật về thuế giá trị gia tăng trong hệ thống pháp luật Việt Nam
1.2.1 Pháp luật thuế giá trị gia tăng
Pháp luật thuế giá trị gia tăng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai,
nộp thuế, quản lý và quyết toán thuế giá trị gia tăng. [4, tr.64]
Pháp luật thuế giá trị gia tăng có hai đặc điểm cơ bản:
- Có tác động trong phạm vi rộng, đến tất cả các đối tượng có thu nhập, sử
dụng một phần thu nhập để phục vụ đời sống trong xã hội.
- Chỉ có thể được ban hành khi các điều kiện áp dụng đạt đến mức độ nhất
định, đặc biệt là các tiêu chuẩn về kế toán, chứng từ hóa đơn và khả năng quản lý
hành chính của các cơ quan tham gia quản lý, thu thuế.
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngân – KT32C007
3
Luật Tài chính – Bài tập học kỳ
1.2.2 Lịch sử phát triển pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trước năm 1990, khi còn xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, thuế doanh thu được áp dụng, tuy nhiên loại thuế này thể hiện sự phân biệt
đối xử giữa các thành phần kinh tế và bộc lộ nhiều nhược điểm cơ bản. Thứ nhất,
doanh thu tính thuế được xác định là toàn bộ doanh thu phát sinh của mỗi khâu sản
xuất lưu thông – làm cho hàng hóa càng qua nhiều khâu trung gian thì số tiền thuế
doanh thu được tính cho hàng hóa đó càng lớn. Điều này đã vi phạm nguyên tắc
tránh đánh thuế nhiều lần. Thứ hai, chế độ thuế suất của thuế doanh thu cũng rất
phức tạp, gây khó khăn khi áp dụng và dễ nảy sinh nhiều vi phạm pháp luật.
[4,tr.62]
Vào cuối những năm 1980, do nhận thức được những hạn chế của loại thuế
doanh thu và học tập kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới về thuế giá trị gia
tăng, Việt Nam đã triển khai nghiên cứu áp dụng loại thuế này [1,tr.737]. Năm
1993, 1994, Việt Nam đã thử nghiệm áp dụng thí điểm thuế giá trị gia tăng đối với
một số doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định [4,tr.62,63]. Với
những thành công đạt được từ những thử nghiệm đó, ngày 10/5/1997, Quốc hội IX

đã thông qua Luật Thuế giá trị gia tăng có hiệu lực từ 1/1/1999 và từ đó thuế giá trị
gia tăng thay thế thuế doanh thu [1,tr.737]. Luật thuế giá trị gia tăng được ban hành
và áp dụng thay cho thuế doanh thu bởi ba lý do cơ bản: (i) Việc áp dụng luật thuế
giá trị gia tăng giải quyết tình trạng đánh chồng thuế qua các khâu của quá trình lưu
thông hàng hóa; (ii) Áp dụng luật thuế giá trị gia tăng với quy định thuế suất đơn
giản, đảm bảo ở mức độ tương đối về tính đơn giản và tính trung lập của thuế; (iii)
Luật thuế giá trị gia tăng với những điều kiện và phương pháp tính thuế không chỉ
tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách, đảm bảo bình đẳng về nghĩa vụ của đối tượng
nộp thuế mà còn là biện pháp chống gian lận, trốn lậu thuế ở các khâu của quá trình
sản xuất, lưu thông hàng hóa. [4, tr.64,65]
Luật Thuế giá trị gia tăng năm 1997 qua nhiều năm áp dụng và được sửa đổi
bổ sung hai lần (vào năm 2003 và năm 2005) đã thể hiện vai trò tích cực của nó
trong việc thực hiện chính sách thuế của nhà nước. Tuy nhiên, trước bối cảnh nền
kinh tế tiếp tục chuyển đổi mạnh mẽ, hội nhập ngày càng sâu hơn, rộng hơn, Luật
thuế giá trị gia tăng năm 1997 và các Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế giá trị gia
tăng vẫn còn bộc lộ một số hạn chế [2]. Quốc hội đã ban hành Luật Thuế giá trị gia
tăng năm 2008 với những thay đổi nhất định nhằm hoàn thiện pháp luật về thuế giá
trị gia tăng. Hiện nay, có hai văn bản điều chỉnh pháp luật thuế giá trị gia tăng là
Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 và Nghị định số 123/2008/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng.
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngân – KT32C007
4
Luật Tài chính – Bài tập học kỳ
2. Thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay – những
yếu tố ảnh hưởng
2.1 Những yếu tố ảnh hưởng tích cực đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị
gia tăng
Một là, với diện chủ thể chịu thuế và đối tượng chịu thuế rộng; là loại thuế
gián tiếp không gây tác động lớn đến sự biến đổi giá cả và là thuế gián thu, thuế giá
trị gia tăng đã tạo ra nguồn thu thường xuyên và ổn định cho ngân sách nhà nước.

Có thể nhận thấy những loại thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá
nhân, thuế xuất khẩu nhập khẩu ...trong thời kỳ kinh tế suy thoái thường bị tác
động rất lớn. Tuy nhiên, đối với thuế giá trị gia tăng thì ngay cả trong thời kỳ kinh
tế đi xuống, nhà nước vẫn thu được một khi người tiêu dùng vẫn còn tiêu dùng.
Hơn nữa, tiêu dùng của xã hội càng ngày càng tăng. Do đó, nguồn thu ngân sách
nhà nước từ thuế giá trị gia tăng rất thường xuyên và ổn định. Các cơ quan nhà
nước nói chung và những chủ thể có trách nhiệm trong việc tính thuế, thu thuế có
trách nhiệm đối với việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng nhằm đảm bảo thu
đúng, thu đủ loại thuế này.
Hai là, với việc quy định thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu, và với
tính liên hoàn của nó, thuế giá trị gia tăng cũng là một yếu tố góp phần khuyến
khích hoạt động sản xuất, chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu. Hàng hóa, dịch
vụ qua nhiều khâu nhưng số tiền thuế không đổi nên những người sản xuất, kinh
doanh có thể chia nhỏ quá trình sản xuất ra mà không lo tăng giá. Với lợi thế này,
thuế giá trị gia tăng được các chủ thể sản xuất, kinh doanh quan tâm và áp dụng để
bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình và tận dụng được chính sách của nhà nước để
tìm được lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh, đặc biệt là xuất khẩu.
Ba là, thuế giá trị gia tăng được tính toán trên cơ sở các hóa đơn, chứng từ
hợp pháp và hiện nay công tác hạch toán, kế toán của các doanh nghiệp cũng đã
hoàn thiện và ổn định dần. Đây là cơ sở để việc áp dụng thuế giá trị gia tăng được
dễ dàng, thuận lợi, minh bạch, hạn chế được gian lận về thuế.
Bốn là, hiện nay pháp luật Việt Nam quy định hai phương pháp tính thuế:
phương pháp khấu trừ và phương pháp trừ trực tiếp. So với nhiều quốc gia trên thế
giới chỉ áp dụng phương pháp khấu trừ thì ở Việt Nam, việc áp dụng hai cách tính
này là điểm phù hợp với nền kinh tế thị trường còn non trẻ. Các chủ thể kinh doanh
với mô hình chặt chẽ, hệ thống kế toán hoàn chỉnh và được phép sử dụng hóa đơn
sẽ được áp dụng phương pháp khấu trừ:
Thuế GTGT nộp = Thuế GTGT đầu ra – Thuế GTGT đầu vào.
Còn những mô hình không chặt chẽ, chi phí thấp, tiết kiệm, đơn giản và chỉ
sử dụng hóa đơn bán lẻ thì áp dụng phương pháp trừ trực tiếp:

Sinh viên: Nguyễn Thị Ngân – KT32C007
5

×