Tiểu luận nhóm Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Hạnh Quyên
LỜI NÓI ĐẦU
Nhà nước ra đời trong cuộc đấu tranh của xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm của cuộc đấu
tranh giai cấp, Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để thực hiện
các chức năng va nhiệm vụ về nhiều mặt như quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng
chấn áp và các nhiệm vụ xã hội.
Để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình Nhà nước cần phải có nguồn lực tài
chính – ngân sách Nhà nước, đó là cơ sở vật chất cho Nhà nước tồn tại và hoạt động.
Ngày nay kinh tế thị trường càng phát triển thì vị trí và vai trò của tài chính nhà nước
ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, xây dựng nền tài chính tự chủ
vững mạnh là yêu cầu cơ bản cấp bách trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta,
trong đó ngân sách Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc gia.
Ngân sách nhà nước là nơi tập trung quỹ tiền tệ lớn nhất trong nền kinh tế, có mối quan
hệ chặt chẽ với tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân cùng mối quan hệ khăng khít với tất
cả các khâu của hệ thống tài chính. Ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để
đảm bảo cho các chi tiêu của Nhà nước, và là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo cho
sự ổn định phát triển đồng đều giữa các nền kinh tế, và đảm bảo thu nhập cho người dân.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của Ngân sách nhà nước, nhóm 12 – Lớp ĐH
Kế Toán K08A đã thảo luận và cùng phân tích về Ngân sách nhà nước và tình hình hoạt động
của hệ thống Ngân sách nhà nước Việt Nam hiện nay..
Nhóm 12. Lớp Đại Học Kế Toán K08A Trang - 1 -
Tiểu luận nhóm Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Hạnh Quyên
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
1.1. Khái niệm Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước, hay Ngân sách chính phủ, là một thành phần trong hệ thống tài
chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở
mọi quốc gia. Tuy sự ra đời của ngân sách Nhà nước đã khá lâu, song quan niệm về ngân sách
nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy
theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách
nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc
gia. Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định
nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân
sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
1.2. Bản chất cuả Ngân sách nhà nước Việt nam
Ngân sách nhà nước là mối quan hệ kinh tế-xã hội giữa Nhà nước với các chủ thể kinh tế
khác trong nền kinh tế, thông qua việc tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của
nhà nước.
Từ khái niệm bản chất trên, ta có thể rút ra các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Hoạt động thu-chi ngân sách Nhà nước và gắn liền với việc thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế-xã hội của Nhà nước.
Thứ hai: Mọi hoạt động thu-chi của Ngân sách nhà nước đều phải dựa trên cơ sở pháp
luật của Nhà nước. Ví dụ như: pháp lệnh, chế độ, quy định về huy động vào ngân sách và chi
tiêu Ngân sách nhà nước.
Thứ ba: Quỹ Ngân sách nhà nước được hình thành thông qua quá trình phân phối lại dưới
nhiều hình thức, trong đó thuế là hình thức chủ yếu và phổ biến nhất.
Thứ tư: Đằng sau các hoạt động thu-chi Ngân sách nhà nước là các quan hệ kinh tế mà
trước hết là quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể kinh tế - xã hội.
Nhóm 12. Lớp Đại Học Kế Toán K08A Trang - 2 -
Tiểu luận nhóm Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Hạnh Quyên
1.3. Vai trò của Ngân sách nhà nước trong quá trình phát triển
nền kinh tế - xã hội của các quốc gia
Trong hệ thống tài chính thống nhất, Ngân sách nhà nước là khâu tài chính tập trung giữ
vị trí chủ đạo. Ngân sách nhà nước cũng là khâu tài chính được hình thành sớm nhất, nó ra đời,
tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lý nhà nước và sự phát triển của
hàng hoá, tiền tệ.
Trong cơ chế thị trường, những quan hệ kinh tế thuộc nội dung Ngân sách nhà nước chỉ
có thể phát sinh, phát triển trên cơ sở vận động không ngừng của các cơ quan tiền tệ trong quá
trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tính chất, quy mô, mức đọ và hiệu quả của quá trình hoạt
động này là tiền đề vật chất quan trọng nhất của Ngân sách nhà nước. Sẽ không có một Ngân
sách lành mạnh nếu như sự vận động của các quan hệ tiền tệ trong quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hoá bị ách tắc hoặc bị biến dạng theo xu thế không có lợi, làm tổn thương đến sự
vận động của hàng hoá. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng: trong mối quan hệ giữa Ngân
sách nhà nước với sự vận động của các đơn vị tiền tệ nảy sinh trong lĩnh vực sản xuất, lưu
thông hàng hoá, các quan hệ tiền tệ thuộc nội dung Ngân sách nhà nước hoàn toàn không mang
tính thụ động mà có ảnh hưởng tích cực trở lại. Sự ảnh hưởng trở lại đó hoàn toàn phụ thuộc
vào việc nhà nước sử dụng Ngân sách làm công cụ quản lý kinh tế - xã hội như thế nào. Trong
cơ chế thị trường, Ngân sách nhà nước được nhà nước sử dụng làm công cụ quan trọng để điều
chỉnh vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Do vậy có thể nói cùng với việc đảm bảo chỉ tiêu của nhà nước
bằng việc huy động các nguồn tài chính trên phạm vi rộng lớn trong và ngoài nước.
Vai trò tất yếu của Ngân sách nhà nước ở mọi thời đại và trong mọi mô hình kinh tế là
công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường,
bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.
a. Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế
Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích
phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ
đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh
tế phát triển ổn định và bền vững.
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết
cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi
trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động
Nhóm 12. Lớp Đại Học Kế Toán K08A Trang - 3 -
Tiểu luận nhóm Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Hạnh Quyên
kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp
Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi
rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí
trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp,
đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn.
Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà
nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh
doanh.
b. Giải quyết các vấn đề xã hội
Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như
chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, các
khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng
bào bão lụt.
c. Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình ổn giá cả thị trường
hàng hoá
Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến
lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc
gia. Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ.
Kiềm chế lạm phát: cùng với ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ thích hợp Ngân sách
nhà nước góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ.
Chương 2: CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỦA NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
2.1. Thu và chi Ngân sách nhà nước:
a. Thu Ngân sách nhà nước
Sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia thường được quan niệm là sự tăng thêm ( hay
gia tăng ) về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Một trong các đại
lượng biểu thị sự tăng trưởng kinh tế đó là tổng sản phẩm trong nước hay tổng sản phẩm quốc
nội (GDP). Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của chính phủ như nước ta. Nhà nước
đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích sự tăng trưởng kinh tế, thông qua việc sử dụng
công cụ ngân sách của mình. Công cụ ngân sách nhà nước chủ yếu là thu và chi tiêu của nhà
nước. Nguồn thu quan trọng và chủ yếu là thuế, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu ngân sách nhà
nước. Ngoài thuế, Nhà nước còn sử dụng các hình thức khác để huy động vốn vào ngân sách
nhà nước như : thu từ bán tài sản của Nhà nước trong quá trình thực hiện cổ phần hoá doanh
Nhóm 12. Lớp Đại Học Kế Toán K08A Trang - 4 -
Tiểu luận nhóm Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Hạnh Quyên
nghiệp nhà nước, thu từ bán tài sản của nhà nước đã cho các chủ thể trong xã hội thuê trước
đây, thu từ sử dụng vốn thuộc nguồn của ngân sách nhà nước, thu từ bán lại các cơ sở kinh tế
của Nhà nước cho các thành phần kinh tế, thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên thiên nhiên, thu
lệ phí và phí. thu do nhận viện trợ và vay nợ của chính phủ. Chi ngân sách nhà nước gồm : chi
thường xuyên, chi đầu tư phát triển kinh tế và chi trả nợ viện trợ. Mỗi hình thức thu ngân sách
nhà nước đều có vị trí quan trọng trong việc đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
hay sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội.
Đứng về phương diện pháp lý, thu Ngân sách nhà nước bao gồm những khoản tiền Nhà
nước huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về mặt bản chất, thu
Ngân sách nhà nước là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong
quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của
Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của mình. Thu Ngân sách nhà nước chỉ bao gồm
những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm
hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp. Theo Luật Ngân sách nhà nước hiện hành, nội dung các
khoản thu Ngân sách nhà nước bao gồm:
o Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật;
o Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước:
o Lợi tức từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế;
o Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế;
o Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi).
o Thu từ hoạt động sự nghiệp;
o Thu hồi quỹ dự trữ Nhà nước;
o Tiền sử dụng đất; thu từ hoa lợi công sản và đất công ích;
o Các khoản huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công
trình kết cấu hạ tầng cơ sở;
o Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước;
o Các khoản di sản Nhà nước được hưởng;
o Thu kết dư ngân sách năm trước;
o Tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước tại các đơn vị hành chính, sự
nghiệp;
o Các khoản tiền phạt, tịch thu;
o Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật;
o Các khoản viện trợ không hoàn lại bằng tiền, bằng hiện vật của Chính phủ các nước, các
tổ chức, cá nhân ở nước ngoài;
o Các khoản vay trong nước, vay nước ngoài của Chính phủ để bù đắp bội chi và khoản
huy động vốn đầu tư trong nước của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là
tỉnh) quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật Ngân sách Nhà nước được đưa vào cân đối
ngân sách.
Nhóm 12. Lớp Đại Học Kế Toán K08A Trang - 5 -
Tiểu luận nhóm Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Hạnh Quyên
Cần lưu ý là không tính vào thu Ngân sách nhà nước các khoản thu mang tính chất hoàn
trả như vay nợ và viện trợ có hoàn lại. Vì thế, các văn bản hướng dẫn Luật Ngân sách nhà nước
(Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ và Thông tư 59/2003/TT-BTC ngày
23/6/2003 của Bộ Tài chính) chỉ tính vào thu Ngân sách nhà nước các khoản viện trợ không
hoàn lại; còn các khoản viện trợ có hoàn lại thực chất là các khoản vay ưu đãi không được tính
vào thu Ngân sách nhà nước .
Căn cứ vào tính chất sử dụng của các khoản thu, thu ngân sách nhà nước chia làm 2 loại :
thu trong cân đối ngân sách và thu để bù đắp thâm hụt ngân sách.
* Thu trong cân đối ngân sách
- Thuế: đây là hình thức cổ truyền được sử dụng từ trước đến nay để tạo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước. Tỉ lệ đóng góp của thuế vào ngân sách nhà nước luôn ở mức cao. Chẳng
hạn như các nước ASEAN có tỉ lệ thuế trong thu thường xuyên của ngân sách rất cao.
Ở Việt Nam, nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu là nguồn thu từ thuế. Mặt khác nếu
so sánh tỉ lệ thuế động viên vào ngân sách Nhà nước từ GDP của Việt Nam so với những nước
thành viên ASEAN. tỉ lệ này ở nước ta cũng cao nhất.
Điều đó cho thấy, Việt Nam khó huy động được nguồn thu ở một mức cao hơn nữa từ
GDP so với hiện nay. Do đó, một trong những nội dung cải cách hệ thống chính sách thuế bước
2 là tiến hành điều chỉnh hợp lý cơ cấu các sắc thuế trong kết cấu thu nhằm bảo đảm nguồn thu
ngân sách nhà nước theo hướng giảm thuế suất, tăng thu theo diện rộng. Đồng thời, việc cải
cách thuế phải thực hiện được nhiệm vụ khuyến khích. thúc đẩy sản xuất phát triển. Với hệ
thống thuế tối ưu, nguồn thu thuế sẽ tăng lên mà không cần đòi hỏi phải tăng thuế suất. Nhờ thế,
Nhà nước sẽ có được nguồn thu ổn định ở mức cao, dễ dàng chủ động thực hiện các chức năng
quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
- Phí và lệ phí : tuy chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng thu ngân sách nhà nước, song vẫn được
huy động và khai thác nguồn thu đưa vào ngân sách nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu
ngày càng tăng của Nhà nước.
- Thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước: khoản thu này phản ánh hoạt động kinh tế đa
dạng của Nhà nước. Trong giai đoạn trước mắt, Nhà nước có thể sử dụng các khoản thu này để
xây dựng các công trình công cộng y tế, giáo dục, đường sá, nhà ở . Với chủ trương bán nhà
thuộc sở hữu nhà nước cho các đối tượng đã thuê. số thu về hàng năm khá lớn (1995 : 200 tỉ
đồng; 1996 : 347 tỉ đồng; 1997 : 789 tỉ đồng; 1997 : 789 tỉ đồng; dự toán 1998 là 570 tỉ đồng).
Cùng với tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nà nước, số vốn thu hồi vào ngân sách sẽ tăng.
Đồng thời, khi các công ty cổ phần đi vào hoạt động và làm ăn có hiệu quả, Nhà nước còn thu
được lãi tức cổ phần được chia. Như vậy, tiền thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước sẽ là phần
đóng góp quan trọng trong giai đoạn trước mắt để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của
mình.
- Viện trợ không hoàn lại : bao gồm môt phần vốn ODA (chiếm khoản 25%) và toàn bộ
khoản viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (NGO ) để phục vụ cho đầu tư cộng cộng ; giáo
dục, y tế, giao thông .. Trong tương lai. khoản viện trợ không hoàn lại này có xu hướng giảm
dần. Do đó, Nhà nước cần tranh thủ tối đa nguồn vốn này bằng việc cải tiến các khâu điều tra và
Nhóm 12. Lớp Đại Học Kế Toán K08A Trang - 6 -
Tiểu luận nhóm Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Hạnh Quyên
quản lý để giải ngân nhanh hơn các chương trình ODA. và cần quan tâm nhiều hơn đến việc
quản lý, sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả.
Như vậy toàn bộ khoản thu trên sẽ là khoản ổn định và thường xuyên của ngân sách nhà
nước. Nhà nước sử dụng nguồn thu này để chi cho những hoạt động quản lý thường xuyên và
chi trả nợ của Nhà nước. Khoản chi này tuy không trực tiếp làm tăng thêm giá trị tổng sản
phẩm, nhưng rất cần thiết cho sự phát triển xã hội. Theo Luật Ngân Sách Nhà nước qui định là
toàn bộ khoản thu trong cân đối này sẽ tài trợ cho các loại chi nói trên, phần còn lại sẽ được
dùng cho chi đầu tư phát triển kinh tế. Đây chính là mức tiết kiệm của ngân sách nhà nước. Nếu
số thu này không đủ cho chi thường xuyên thì cương quyết cắt giảm chi. Do đó, có thể nói
thông qua nguồn thu này, Nhà nước đã tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển tốt nhất.
* Thu để bù đắp thâm hụt ngân sách
- Các khoản vay nợ của Chính phủ gồm có vay trong nước và vay ngoài nước. Theo Luật
Ngân Sách của nước ta ban hành năm 1996, qui định là Nhà nước sẽ dùng khoản tiết kiệm của
ngân sách để chi cho đầu tư phát triển kinh tế. nếu không đủ. Nhà nước sẽ đi vay để bù đắp
thâm hụt ngân sách. không sử dụng khoản vay nợ cho chi thường xuyên. Vay của Nhà nước bao
gồm vay trong nước và vay nước ngoài.Vay trong nước được thực hiện bởi việc phát hành công
trái dưới các hình thức : tín phiếu kho bạc. trái phiếu kho bạc. và trái phiếu công trình. Vay nợ
nước ngoài được thực hiện dưới các hình thức như : hiệp ước hay hiệp định vay mượn giữa hai
Chính phủ. hiệp định vay mượn giữa Chính phủ với các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới hoặc
phát hành trái phiếu ra nước ngoài. Vay nợ nước ngoài có 2 loại : vay ưu đãi với lãi suất rất
thấp. thời gian hoàn vốn khá dài ; vay thương mại với lãi suất cao hơn. thời gian hoàn vốn cũng
dài. Đối với khoản vay nợ nước ngoài thì nước vay nợ dễ gặp rủi ro do tỉ giá hối đoái tăng làm
cho đồng tiền trong nước mất giá. gánh nặng nợ nần chồng chất. Vì vậy.cần phải tính đến hiệu
quả kinh tế và hết sức thận trọng trong việc sử dụng nguồn vốn vay này. Đối với khoản vay
trong nước. nếu Nhà nước vay quá nhiều. sẽ ảnh hưởng đến mức tiết kiệm và tích luỹ của các
thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. do đó đầu tư của các thành phần này cũng
có thể giảm. Hơn
nữa, nếu Chính phủ vay trong nước nhiều. lãi suất có xu hướng gia tăng. giá cả hàng hoá tăng.
lạm phát có nguy cơ xảy ra
- Phát hành tiền : trước năm 1992. để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước còn sử dụng
hình thức này. Tuy nhiên. đối với tình trạng sản xuất yếu kém như nước ta trước đây. việc chọn
giải pháp này thường làm cho nền kinh tế không ổn định. do lạm phát có xu hướng gia tăng. Vì
thế đối với nước ta từ năm 1993 đến nay không phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách.
Như vậy để đầu tư phát triển kinh tế, trong khi nguồn thu ngân sách trong cân đối không đáp
ứng đủ, Nhà nước sử dụng biện pháp vay nợ hoặc phát hành tiền để bù đắp. Trong điều kiện
hiện nay việc phát hành tiền bị hạn chế nhiều. Do đó. nếu nguồn vay được sử dụng có hiệu quả
thì tổng sản phẩm quốc nội tăng đáng kể.Tuy nhiên để có thể thực hiện tốt chức năng mở đường
và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia phát triển kinh tế. đồng thời để
có thể kiểm soát được các mặt hoạt động của nền kinh tế. Nhà nước cần khống chế tỷ lệ vay nợ
Nhóm 12. Lớp Đại Học Kế Toán K08A Trang - 7 -
Tiểu luận nhóm Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Hạnh Quyên
bù đắp thâm hụt ngân sách ở một mức nhất định nào đó. chẳng hạn mức khống chế hiện nay là
dưới 3,5% GDP.
Toàn bộ khoản thu ngân sách nói trên đã tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi của tổng sản
phẩm quốc nội hay sự tăng trưởng kinh tế một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Tuy nhiên. việc huy
động vốn vào ngân sách nhà nước chỉ nên huy động ở mức vừa phải, hợp lý để Nhà nước vẫn
thực hiện được chức năng quản lý kinh tế xã hội. Đồng thời còn thực hiện vai trò động viên các
thành phần kinh tế khác cùng tham gia phát triển sản xuất, đưa đất nước phát triển một cách
vững chắc nhất.
2.2. Chi Ngân sách nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo
những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Thực hiện chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tại chính cho
các nhiệm vụ của nhà nước. Song việc cung cấp này có những đặc thù riêng, đó là:
Chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà
Chính phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia. Mức độ, phạm vi chi tiêu ngân sách nhà nước
phụ thuộc vào tính chất, nhiệm vụ của chính phủ trong mỗi thời kỳ.
Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang
tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt chính trị và xã hội, ngoại giao.
Chính vì vậy, trong công tác quản lý tài chính, một yêu cầu đặt ra là cần sử dụng tổng hợp các
chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng, đồng thời phải có quan điểm toàn diện và đánh giá
tác dụng, ảnh hưởng của các khoản chi phí ở tầm vĩ mô.
Xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi ngân sách nhà nước đều là các khoản cấp
phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Chính vì vậy các nhà quản lý tài chính cần
có sự phân tích, tính toán trên nhiều khía cạnh trước khi đưa ra các quyết định chi tiêu để tránh
được những lãng phí không cần và nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách nhà nước.
Tuỳ theo yêu cầu của việc phân tích, đánh giá và quản lý ngân sách trong từng thời kỳ
người ta có thể phân chia các khoản chi ngân sách theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Theo chức năng nhiệm vụ của nhà nước, nội dung chi ngân sách nhà nước gồm:
• Chi kiến thiết kinh tế.
• Chi văn hoá – xã hội.
• Chi quản lý hành chính.
• Chi an ninh - quốc phòng.
Nhóm 12. Lớp Đại Học Kế Toán K08A Trang - 8 -
Tiểu luận nhóm Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Hạnh Quyên
• Các khoản chi khác.
Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước được chia các nội dung sau đây:
Chi thường xuyên về:
o Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục
thể thao, sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường và các sự nghiệp khác;
o Các hoạt động sự nghiệp kinh tế;
o Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội;
o Hoạt động của các cơ quan nhà nước;
o Hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam;
o Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam;
o Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
o Các chương trình quốc gia;
o Hỗ trợ quỹ Bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ;
o Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
o Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp theo quy định của pháp luật;
o Trả lãi tiền do Nhà nước vay;
o Viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài;
o Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Chi đầu tư phát triển:
o Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng
thu hồi vốn;
o Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các Doanh nghiệp nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh
vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo
quy định của pháp luật;
o Chi cho Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Quỹ hỗ trợ phát triển đối với các
chương trình, Dự án phát triển kinh tế;
o Dự trữ nhà nước;
o Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển.
o Chi trả nợ gốc tiền do Nhà nước vay.
o Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.
Ngoài ra, còn có thể phân loại chi ngân sách nhà nước theo các ngành kinh tế, theo tính
chất của quá trình tái sản xuất xã hội.
2.3. Tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước
Nhóm 12. Lớp Đại Học Kế Toán K08A Trang - 9 -
Tiểu luận nhóm Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Hạnh Quyên
Hệ thống ngân sách nhà nước là tổng thể ngân sách của các cấp chính quyền nhà nước. Ở
nước ta với mô hình nhà nước thống nhất nên hệ thống ngân sách được tổ chức theo hai cấp:
ngân sách trung ương và ngân sách của các cấp chính quyền địa phương, trong đó ngân sách địa
phương bao gồm các cấp ngân sách: ngân sách thành phố (hay tỉnh) , ngân sách quận (huyện) ,
ngân sách xã (phường).
Hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam được tổ chức và quản lý thống nhất theo nguyên
tắc tập trung và dân chủ, thể hiện những đặc điểm sau đây:
Tính thống nhất: đòi hỏi các khâu trong hệ thống ngân sách phải hợp thành một thể thống
nhất, biểu hiện các cấp ngân sách có cùng nguồn thu, cùng định mức chi tiêu và cùng thực hiện
một quá trình ngân sách.
Tính tập trung: thể hiện ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn
thu lớn và các nhiệm vụ chi quan trọng. Ngân sách cấp dưới chịu sự chi phối của ngân sách cấp
trên và được trợ cấp từ ngân sách cấp trên nhằm đảm bảo Cân đối của ngân sách cấp mình.
Tính dân chủ: Dự toán và quyết toán ngân sách phải được tổng hợp từ ngân sách cấp
dưới, đồng thời mỗi cấp chính quyền có một ngân sách và được quyền chi phối ngân sách cấp
mình.
Đảm bảo tính phủ hợp giữa cấp Ngân sách với cấp chính quyền Nhà nước .
Căn cứ vào Luật Ngân sách nhà nước quy định, Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách
trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương (ngân sách địa phương).
Ngân sách các cấp chính quyền địa phương gồm:
- Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh);
- Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp
huyện);
- Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
2.4. Thâm hụt ngân sách nhà nước
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình trạng
khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không mang tính hoàn trả"
của ngân sách nhà nước.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt
so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế
một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt ngân
sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực.
2.5. Năm ngân sách và chu trình quản lý ngân sách nhà nước
Nhóm 12. Lớp Đại Học Kế Toán K08A Trang - 10 -
Tiểu luận nhóm Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Hạnh Quyên
Năm ngân sách (hay còn gọi là năm tài chính, tài khoá), là giai đoạn mà trong đó dự toán
thu – chi tài chính của nhà nước đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành.
Hiện nay ở tất cả các nước trên thế giới, thời gian cho một năm ngân sách bằng với thời
gian của một năm dương lịch (bằng với 12 tháng). Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội ở mỗi nước khác nhau nên thời điểm bắt đầu và kết thúc của một năm ngân sách được tính
từ ngày mùng 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12 năm dương lịch.
Trong chu trong chu trình ngân sách, lập ngân sách là khâu khởi đầu, có ý nghĩa quyết
định đến toàn bộ các khâu của chu trình quản lý ngân sách. Lập ngân sách thực chất là dự toán
các khoản thu chi của ngân sách trong một năm ngân sách. Việc dự toán thu chi đúng đắn, có cơ
sở khoa học, cơ sở thực tiễn sẽ có tác dụng quan trọng đối với kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội nói chung và thực tiễn ngân sách nói riêng.
Sau khi ngân sách được phê chuẩn và năm ngân sách bắt đầu, việc thực hiện ngân sách
được triển khai. Nội dung của quá trình này là tổ chức thu Ngân sách nhà nước và bố trí cấp
ngân sách nhà nước cho các nhu cầu đã được phê chuẩn. Việc chấp hành ngân sách nhà nước
thuộc về tất cả các pháp nhân và thể nhân dưới sự điều hành của chính phủ. Trong đó, Bộ Tài
chính có vai trò quan trọng.
Mục tiêu đặt ra trong việc tổ chức chấp hành dự toán thu là không ngừng bồi dưỡng, tăng
nguồn thu, tìm mọi biện pháp động viên mà Quốc hội đã phê chuẩn, đáp ứng nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước đã hoạch định.
Đối với tổ chức chấp hành dự toán chi, mục tiêu đặt ra là đảm bảo đầy đủ và kịp thời
nguồn kinh phí của ngân sách cho hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện các chương
trình kinh tế - xã hội đã được hoạch định trong năm kế hoạch một cách tiết kiệm và hiệu quả.
Khâu cuối cùng trong chu trình trong chu trình quản lý ngân sách nhà nước là khâu quyết
toán ngân sách nhà nước. Thông qua quyết toán ngân sách sẽ thấy được kết quả toàn diện về
hoạt động kinh tế - xã hội của Nhà nước, hoạt động Ngân sách nhà nước với tư cách là công cụ
vĩ mô của nhà nước trong thời gian qua, từ đó rút knih nghiệm cần thiết trong điều hành ngân
sách nhà nước. Do đó, yêu cầu của quyết toán Ngân sách nhà nước phải đảm bảo chính xác,
tính trung thực và kịp thời.
Khi phân cấp quản lý ngân sách cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước;
Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ bản để bảo đảm
thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước;
Phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần trăm (%) phân
chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới từ 3 đến 5
Nhóm 12. Lớp Đại Học Kế Toán K08A Trang - 11 -
Tiểu luận nhóm Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Hạnh Quyên
năm. Hàng năm, trong trường hợp có trượt giá, chỉ xem xét điều chỉnh tăng số bổ sung
cho ngân sách cấp dưới theo một phần trượt giá;
Kết thúc mỗi kỳ ổn định, căn cứ khả năng thu và yêu cầu chi, Chính phủ, Uỷ ban nhân
dân tỉnh thực hiện việc điều chỉnh tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân
sách các cấp và mức bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới.
Chương 3: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Nguồn thu của ngân sách nhà nước
Năm 2009, mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế
giới, nền kinh tế Việt Nam vẫn có chuyển biến tích cực. Việc thực hiện nhiệm vụ tài chính –
ngân sách nhà nước Việt Nam năm 2009 được đánh giá rất khả quan, dù điều kiện hoạt động
sản xuất - kinh doanh, xuất - nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế toàn cầu song
việc thu Ngân sách nhà nước năm 2009 cơ bản đạt dự toán. Trong đó thu nội địa, thu từ hoạt
động xuất nhập khẩu (chưa tính hoàn thuế giá trị giá tăng) và thu viện trợ đạt và vượt dự toán;
riêng thu từ dầu thô giảm so với dự toán do giá dầu giảm. Tăng trưởng GDP quý sau cao hơn
quý trước (quý I tăng trưởng 3,1%, quý II là 4,5%, quý III đạt 5,8% và quý IV có khả năng đạt
6,8%).
Theo báo cáo của Bộ Tài chính thì ước thu Ngân sách nhà nước cả năm 2009 đạt 390.650
tỷ đồng, bằng 100,2% dự toán (vượt 750 tỷ đồng), đạt tỷ lệ động viên 23,3% GDP. Tổng chi
Ngân sách nhà nước năm 2009 ước đạt 533.005 tỷ đồng, tăng 8,5% (41.705 tỷ đồng) so với dự
toán. Tổng thu Ngân sách nhà nuớc trong 7 tháng đầu năm 2009 ước đạt 222.120 tỷ đồng, đạt
57,0%, giảm 10% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, thu nội địa ước đạt 59,1% dự toán, giảm
2,8% so với cùng kỳ, thu từ dầu thô ước đạt 48% dự toán, giảm 37,2% so với cùng kỳ, thu cân
đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 57,5% dự toán, giảm 5,7% so với cùng kỳ.
Xét về tiến độ thực hiện dự toán, số thu 7 tháng đầu năm 2009 tuy thấp hơn cùng kỳ năm
2008 (đạt 73,1%) song vẫn ở mức khá hơn so với những năm gần đây (năm 2006 đạt 56,5%;
năm 2007 đạt 55,0%). Đây là kết quả tích cực trong điều kiện kinh tế suy giảm, phát triển
không thuận lợi, phải thực hiện nhiều ưu đãi về chính sách thuế để kích thích kinh tế, ngăn chặn
suy giảm và duy trì tăng trưởng knih tế, đồng thời thể hiện quyết tâm và nỗ lực lớn của cả hệ
thống chính trị, các ngành, các cấp và các cơ quan chức năng liên quan.
Riêng về thu dầu thô, giá dầu thô tháng 7 trên thị trường thế giới giảm nhẹ so với tháng 6,
bình quân chỉ đạt 64USD/thùng. Do có độ trễ trong thnah toán nên giá dầu tính thu Ngân sách
nhà nước tháng 7 ước đạt 67 USD/thùng, nâng mức giá bình quân 7 tháng đạt 50USD/thùng. Số
lượng đầu thanh toán 7 tháng ước đạt 9,4 triệu tấn, 59,2% kế hoạch năm.
Đến hết thanhg 7 năm 2009, theo báo cáo đã có 29 trên 63 địa phương thu đạt trên 65%
dự toán (Hậu Giang, Hoà Bình, Đồng Tháp, Kon Tum). Tuy nhiên, cũng còn một số địa phương
thu đạt dưới 50% dự toán (Quảng Ngãi, Cà Mau, Vĩnh Phúc, Bình Phước, Bình Thuận).
Nhóm 12. Lớp Đại Học Kế Toán K08A Trang - 12 -