Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VÀ LỰA CHỌN ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.22 KB, 73 trang )



1
MỞ ĐẦU
Kể từ năm 1987, khi Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
thông qua Luật đầu tư nước ngoài. Bằng đạo luật này một phạm trù kinh tế hoàn
toàn mới mẻ đã hình thành, phát triển và trở thành một bộ phận không thể tách
rời của nền kinh tế Việt Nam đương đại. Việt Nam chính thức mở cửa tiếp nhận
các khoản
đầu tư từ bên ngoài, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài của
Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, từng bước khẳng định vị trí của
mình trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp một phần không nhỏ vào thành công
chung của công cuộc đổi mới đất nước.
Biểu hiện sinh động là trong những năm đầu, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào n
ước ta có tốc độ gia tăng rất cao. Kết quả thu được từ hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng
hoảng kinh tế, bước sang giai đoạn tăng trưởng và duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao hơn các quốc gia khác trong khu vực trong thời kỳ diễn ra khủng
hoảng tiền tệ ở khu vực châu Á. Bên cạ
nh đó, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
còn trực tiếp tạo ra việc làm cho hàng chục vạn lao động với mức thu nhập
không nhỏ. Song song với các hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài là hàng loạt các ngành nghề kinh tế khác cùng phát triển theo.
Tuy nhiên, những hạn chế của hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam không
phải là nhỏ. Con số thống kê cho thấy từ nă
m 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam liên tục giảm. Hoạt động của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
đặt ra nhiều vấn đề phải xem xét lại về hình thức tổ chức và cách quản lý. Số doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thua lỗ chiếm tỷ lệ không nhỏ. Bên Việt Nam
trong một số liên doanh không những không tăng được tỷ lệ cổ phầ


n của mình mà
còn kinh doanh thua lỗ đến mất cả vốn góp phải rút khỏi liên doanh. Những vấn đề
về chuyển giao công nghệ và bảo vệ môi trường, về sử dụng nguồn lao động Có
nhiều nguyên nhân dẫn tới tình hình trên, cả nguyên nhân khách quan và chủ quan,
trong đó có nguyên nhân quan trọng là bước lựa chọn đối tác đầu tư trong hoạt


2
động kinh tế đối ngoại tại Việt Nam. Đây là khâu đầu tiên trong quá trình hợp tác
đầu tư lâu dài. Vì vậy, cần được xem xét nghiêm túc để tìm ra giải pháp đúng đắn
giúp các doanh nghiệp có được hướng đi đúng cho bước khởi đầu của mình trong
các hoạt động kinh tế sau này.
Hy vọng rằng với đề tài: “Lựa chọn đối tác đầu tư trong hoạt động kinh tế
đối ngoại ở Việt Nam”, khóa lu
ận này sẽ góp phần đưa ra những giải pháp hữu
hiệu nhất định cho vấn đề cần quan tâm này của các doanh nghiệp Việt Nam.
Nội dung của khóa luận được trình bày trong 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hoạt động
kinh tế đối ngoại và lựa chọn đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việ
t Nam.
Chương II: Thực trạng việc lựa chọn đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam trong thời gian qua.
Chương III: Một số biện pháp tiếp tục hoàn thiện việc lựa chọn đối tác đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.









CHƯƠNG I


3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VÀ LỰA CHỌN
ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM

1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI
1.1.1 Khái niệm về đầu tư trong hoạt động kinh tế đối ngoại
Hoạt động đầu tư là quá trình huy
động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ sản
xuất, kinh doanh nhằm sản xuất sản phẩm hay cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của cá nhân và xã hội.
Trong một nền kinh tế đóng cửa, nguồn vốn đầu tư (VĐT) phát triển kinh tế chỉ
dựa vào huy động vốn trong nước bao gồm : Vốn tích luỹ từ ngân sách Nhà
nước, VĐT của các doanh nghiệp ; V
ốn tích luỹ, tiết kiệm trong dân là chủ yếu.
Trong nền kinh tế mở ngoài vốn trong nước còn có phần đóng góp quan trọng
của vốn nước ngoài.
Cùng với việc đóng góp vốn thông qua các hoạt động kinh tế, KTĐN còn giữ
một số chức năng quan trọng sau :
- Tham gia vào phân công lao động quốc tế ; Trao đổi mậu dịch quốc tế tạo cầu
nối giữa nền kinh tế trong nước và thế giớ
i.
- Thông qua hợp tác hóa, chuyên môn hóa và trao đổi mậu dịch đảm bảo sự
phát triển nhanh chóng và cân đối cho nền kinh tế quốc dân.

- Khai thác được các lợi thế so sánh của mỗi quốc gia.
- Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên; tạo công ăn việc làm dẫn đến nâng cao
đời sống người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ đối với ngân sách quốc gia.
Đầu tư trong hoạt động KTĐN được gọi là đầu tư nước ngoài (
ĐTNN) hay đầu
tư quốc tế. Đầu tư quốc tế bao gồm hoạt động tiếp nhận VĐT nước ngoài vào


4
nước sở tại và đầu tư ra bên ngoài.
VĐT quốc tế có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như bằng
các loại tiền mặt hoặc giấy tờ có giá trị, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu,
quyền sử dụng đất đai, các sáng chế, phát minh, bí quyết công nghệ, nhãn hiệu
hàng hoá Lợi ích do hoạt động đầu tư mang lại thường là lợi ích kinh tế, đồng
thời còn có cả lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá - xã hội, lợi ích về bảo vệ môi
trường sinh thái
Sự phát triển của đầu tư quốc tế bắt nguồn từ một số nguyên nhân chủ yếu sau
đây:
- Sự phát triển của xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá đã thúc đẩy mạnh mẽ
quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư.
- Sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa họ
c - công nghệ và cách
mạng thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của
các nước tạo nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia.
- Sự thay đổi các yếu tố sản xuất kinh doanh ở các nước sở hữu vốn tạo nên
“lực đẩy” đối với đầu tư quốc tế.
- Nhu cầu VĐT phát triển để công nghiệp hoá củ
a các nước đang phát triển rất
lớn, tạo nên “sức hút” mạnh mẽ đối với nguồn VĐT nước ngoài.
Nếu xét theo chủ sở hữu nguồn vốn, vốn đầu tư nước ngoài có hai dòng chính:

Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của các chính phủ và tổ chức quốc tế và Đầu
tư của tư nhân :
- Đầu tư của tư nhân được thực hiện dưới ba hình thức:
Đầu tư trực tiếp, đầu tư
gián tiếp và tín dụng thương mại.
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là tất cả các khoản viện trợ không hoàn
lại và các khoản tài trợ có hoàn lại (cho vay dài hạn vơí một số thời gian ân hạn
và lãi suất thấp) của chính phủ, các hệ thống của tổ chức Liên hiệp quốc, các tổ
chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế (nh
ư WB, ADB, IMF ) dành


5
cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ. Các cơ quan và tổ chức hỗ trợ
phát triển nêu trên được gọi chung là đối tác viện trợ nước ngoài.
Khóa luận này chỉ đề cập đến hình thức đầu tư trực tiếp của tư nhân, vì nó chiếm
tỷ trọng lớn và ngày càng được mở rộng về quy mô với nhiều cách thức thực
hiện đa dạng khác nhau. Ngoài ra, nếu xét góc độ lựa ch
ọn đối tác thì khu vực
đầu tư tư nhân cũng là nơi thu hút sự chú ý nhiều nhất vì các đối tác hết sức đa
dạng.
1.1.2. Khái niệm đầu tư trực tiếp trong hoạt động kinh tế đối ngoại
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hình thức đầu tư quốc tế được hiểu trên
nhiều giác độ khác nhau:
- Xét trên khía cạnh về quyền sở hữu: FDI là một loại hình củ
a ĐTNN được
thực hiện khi quyền sử dụng gắn liền với quyền sở hữu tài sản đầu tư.
- Xét trên khía cạnh cán cân thanh toán : FDI thường được định nghĩa là phần
tăng thêm trên giá trị sổ sách của lượng đầu tư ròng ở một quốc gia được thực
hiện bởi các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời các nhà đầu tư này cũng chính là

những người sở
hữu chính và nắm quyền kiểm soát quá trình đầu tư đó.
Tuy nhiên, trên thực tế phần lớn FDI được thực hiện dưới dạng thành lập các
công ty con, hoặc các công ty liên doanh trực thuộc các công ty đa quốc gia và
nhà đầu tư là các thành viên nắm quyền điều hành các công ty này.
Hoạt động FDI tại Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1988, sau khi Quốc hội
thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tháng 12 năm 1987 (còn gọi là Luậ
t đầu tư
87). Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài được
đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức sau:
- Doanh nghiệp liên doanh
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.


6
- Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng –
chuyển giao – kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT).
Đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp liên doanh

Trong Doanh nghiệp liên doanh các bên tham gia liên doanh cùng góp vốn với
nhau theo nhiều hình thức khác nhau; cùng nhau quản lý doanh nghiệp và cùng
phân chia lợi nhuận và rủi ro. Do đó, hình thức liên doanh này giúp giải quyết
tình trạng thiếu vốn của bên Việt Nam; đa dạng hóa sản phẩm; đổi mới công
nghệ thông qua việc nhập khẩu các công nghệ mới; tạo ra thị trường mới và đào
tạo được một đội ngũ người lao động có trình độ cao thông qua việc học tập các
công nghệ mới và các chương trình đào tạo của bên đối tác nước ngoài; tạo ra
sản phẩm với thương hiệu của các hãng có uy tín trên thị trường thế giới.
Đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài


Với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Nhà nước thu được ngay tiền
thuê đất, giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ VĐT, tập trung thu
hút vốn và công nghệ của nước ngoài vào những lĩnh vực khuyến khích xuất
khẩu, đào tạo được nguồn nhân lực cho tương lai.
Đặc trưng cơ bản của hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (HĐHTKD)

Hình thức HĐHTKD giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn do các bên đối tác
cùng góp vốn, có thể sử dụng công nghệ sẵn có của bên tham gia, đồng thời tạo
ra thị trường mới. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn có ưu điểm là tạo được
tính chủ động và nắm được quyền điều hành dự án do việc tổ chức được giao
cho một bên đối tác.
Các hình thức đầu tư nước ngoài tr
ực tiếp khác
Đối với nhiều nước đang phát triển trên thế giới, FDI dưới dạng các hợp đồng xây
dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh
doanh (BTO) hoặc hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) cũng khá phổ biển.
Dạng đầu tư này thường áp dụng cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi số


7
vốn lớn như xây dựng nhà máy điện, các công trình đường bộ Ở Việt Nam dạng
đầu tư này còn chưa nhiều.
Có thể nói mỗi hình thức đầu tư có những điểm hấp dẫn riêng đối với các nhà
đầu tư. Tuy nhiên, cũng bộc lộ các điểm hạn chế của mình. Vì vậy, việc đa dạng
hoá các hình thức đầu tư sẽ góp phần đáng kể vào vi
ệc tăng khả năng thu hút
FDI về cả số lượng cũng như chất lượng.
 Dòng FDI trên phạm vi toàn thế giới
Sau một thập kỷ tăng liên tục, dòng vốn FDI bắt đầu đi xuống trên phạm vi toàn
thế giới. Theo đánh giá của các tổ chức nghiên cứu kinh tế quốc tế, dưới tác

động của suy thoái kinh tế Mỹ, Nhật và sự ngưng trệ của làn sóng sáp nhập công
ty là nguyên nhân quan trọng làm cho FDI thế giới giảm từ đỉnh cao 1.271 tỷ
USD năm 2000 xuống còn 760 tỷ USD năm 2001. Đây là lần tụt giảm đầu tiên
kể từ năm 1991 và là mức sụt giảm nhiều nhất trong vòng 3 thập kỷ qua. Tuy
nhiên, theo đánh giá của IMF và WB trong thời gian trung hạn từ 5 – 10 năm
tới, các nước công nghiệp phát triển sẽ vẫn là những địa chỉ chủ yếu thu hút FDI
của thế giới. Các nước này chiếm tỷ trọng khoảng từ 70 – 75% FDI, đồng thời
cũng là lực đẩy chính làm gia tăng luồng vốn FDI của thế giới. Theo UNCTAD,
thì EU, Mỹ
, Canada và Nhật Bản vẫn sẽ là lực hút (khoảng 71%) và lực đẩy
chính (khoảng 82%) của FDI của thế giới.


Bảng 1 : Sự phân bổ vốn FDI theo khu vực (1998 – 2001)
(tỷ USD)
1998 1999 2000 2001
(1)

Toàn thế giới 693 1075 1271 760
Các nước phát triển 483 830 1005 510
Các nước đang phát triển
(2)
188 222 240 225


8
Châu phi
(3)
8 9 8 10
Mỹ Latinh và Caribe 83 110 86 80

Châu Á - Thái Bình Dương 96 100 144 125
Nam, Đông và Đông Nam Á 86 96 137 120
Trung và Đông Âu (bao gồm cả các nước
thuộc Liên bang Nam Tư cũ)
22 25 27 27
(Ghi chú : (1) Dựa trên cơ sở số liệu của 51 nước thu hút FDI chủ yếu ; (2) Bao
gồm cả các nước thuộc Liên bang Nam Tư cũ ; (3) Nếu tính cả Nam Phi, lượng
FDI vào khu vực này sẽ là năm 1998 : 8 ; 1999 : 10 ; 2000 : 9 ; 2001 : 11) –
Nguồn UNCTAD, World Investment Report – 2001.
Nhìn vào bảng trên ta thấy, lượng FDI vào các nước công nghiệp phát triển giảm
đáng kể, trong khi luồng vốn FDI vào khu vực Trung và Đông Âu tiếp tục ổn
định ở mức 27 tỷ USD và tăng đôi chút ở Châu Phi.
Các nước đang phát triể
n cũng chịu tác động chung, nhưng mức tụt giảm là
không đáng kể (6% so với 49% suy giảm của các nước phát triển) rơi từ mức
240 tỷ USD của năm 2000 xuống còn 225 tỷ USD trong năm 2001, giảm 15 tỷ
USD. Song xét về tổng thể, tỷ phần vốn FDI mà các nước đang phát triển nhận
được trong năm 2001 lại tăng lên tới 30%, cao hơn cả tỷ lệ mà các nước này tiếp
nhận được vào n
ăm 1998 (27%).


Biểu đồ 1: Sự phân bố luồng vốn FDI tại các nước đang phát triển
050100150
Trung & §«ng
©u
Ch©u ¸ & Th¸i
B×nh D−¬ng
Mü Latinh &
Caribe

Ch©u Phi
2001
2000
1999
1998


9
(tỷ USD)
Nguồn : UNCTAD, World Investment Report - 2001
Năm 2002, FDI vào Trung Quốc đạt mức 50 tỷ USD. Trong thời gian từ năm
1993 – 2001, Trung Quốc luôn đứng thứ 2 trên thế giới về thu hút FDI. Năm
2002, lần đầu tiên Trung Quốc vượt qua Mỹ trở thành nước thu hút FDI lớn nhất
trên thế giới.
 Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư thế giới.
Động cơ truyền thống của FDI những năm đầu thập kỷ 60 là chạy theo lao động
rẻ để thu lợi nhuận và những ngành sản xuất truyền thống thu hút nhiều lao động
là khai khoáng, chế biến nông sản và công nghiệp chế tạo năm 1964 trong tổng
vốn FDI xuất khẩu của các TNCs Mỹ, lĩnh vực khai khoáng và dầu khí chiếm
40,5%, ngành chế tạo chiếm 30%, ngành dịch vụ chiếm 12,8%.
Trong những n
ăm gần đây đã xuất hiện xu hướng mới là đầu tư vào lĩnh vực cơ
sở hạ tầng gia tăng nhanh, nhất là các ngành viễn thông điện tử, giao thông vận
tải, thuỷ lợi Nguyên nhân là vì các nước, nhất là các nước đang phát triển có
nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng cam kết mạnh mẽ không quốc hữu hoá, dành
chính sách ưu đãi để thu hút vốn FDI vào cơ sở hạ
tầng nhằm khắc phục sự hạn
hẹp của ngân sách.
Từ bức tranh khái quát về sự hình thành và vận động của các nguồn FDI trên thế
giới, ta có thể rút ra được những nhận xét sau:

- Nguồn FDI cũng ngày càng mở rộng và gia tăng do có sự phát triển liên tục
của nền kinh tế thế giới. Làn sóng hợp nhất công ty thành các công ty khổng lồ
tạo ra hàng ngàn tỷ USD qua các hợp đồng hợp nhất. Các công ty đa qu
ốc gia
tiếp tục mở rộng mạng lưới sản xuất của họ.
- Sự phân bổ FDI giữa các quốc gia và khu vực có sự thay đổi liên tục là do
chiến lược thu hút đầu tư của mỗi nước trong từng thời kỳ khác nhau, do kết quả
của các cuộc cải cách kinh tế, do chính sách FDI, do cải thiện môi trường đầu tư,


10
do sự ổn định về chính trị - xã hội, do hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn VĐT ở
mỗi nước.
- Sự vận động của các nguồn FDI chịu ảnh hưởng rất lớn của xu hướng khu
vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế, và sự ổn định của thị trường chứng khoán
quốc tế.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC TIÊU CHÍ VỀ LỰA CHỌN ĐỐ
I TÁC ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Khái niệm
Lựa chọn đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài là một quá trình nghiên cứu, sàng
lọc và tuyển chọn một trong nhiều nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tìm ra
được đối tác phù hợp với các tiêu chí, chỉ tiêu và mục đích của dự án cũng như
của nước nhận đầu tư.
1.2.2 Các tiêu chí về lựa chọn đố
i tác đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.2.1 Tiêu chuẩn lựa chọn đối tác FDI
Mục tiêu của việc lựa chọn đối tác FDI được qui định bởi mục tiêu chung của
hoạt động FDI cũng như của việc khai thác, thu hút các nguồn vốn đầu tư từ bên
ngoài.

Trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành từ 31/12/1987 và được
sửa đổi bổ xung năm 1990, 1992 cũng như xây dựng l
ại năm 1996, và mới đây nhất
là năm 2000 đã chỉ rõ mục tiêu ấy là: “để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài,
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển nền kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước”.
Mục tiêu nói trên về cơ bản đã được quán triệt trong quá trình kêu gọi đầu tư,
tuyên truyề
n vận động đầu tư, thẩm định dự án và cấp giấy phép đầu tư. Tuy
nhiên, mục tiêu chung về thu hút FDI được qui định trong Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam được nhận thức khác nhau ở từng địa phương, từng ngành,


11
từng cấp quản lý, qua từng cán bộ cụ thể và cũng phụ thuộc rất lớn vào mục tiêu
và tiềm lực của mỗi nhà đầu tư.
Bên cạnh nhiều dự án chọn được các nhà đầu tư có đủ năng lực tài chính, năng
lực công nghệ và pháp lý, có một số trường hợp do chưa quán triệt rõ mục tiêu
thu hút ĐTNN, do đó không xác định được đúng đối tác cần tìm.

n cứ vào mục tiêu mà ta đề ra các tiêu chí lựa chọn đối tác. Điều đầu tiên cần
có là đối tác được lựa chọn phải có khả năng thực hiện, triển khai dự án đã được
duyệt và phải có các năng lực sau :
- Năng lực pháp lý của nhà đầu tư
- Năng lực tài chính của nhà đầu tư
- Năng lực công nghệ của nhà đầu tư
- Năng lực qu
ản lý của nhà đầu tư
- Khả năng chiếm lĩnh thị trường của nhà đầu tư
- Bề dầy uy tín kinh doanh của nhà đầu tư

Trên cơ sở phân tích các năng lực này của nhà ĐTNN mà bên Việt Nam có thể
tiến hành lựa chọn. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là năng lực đó được thể hiện, được
đánh giá, được xác định như thế nào, bằng những chỉ
tiêu kinh tế - kỹ thuật nào.
Nói chung, thời kỳ đầu việc lựa chọn đối tác FDI đối với chúng ta còn nhiều bỡ
ngỡ, nặng về cảm tính, mang tính bị động, nói cụ thể hơn là còn thiếu tiêu chuẩn
rõ ràng và thống nhất. Điều đó được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
- Chúng ta chưa xác định và đề ra những tiêu chuẩn cần thiết đối với đối tác
FDI. Khi còn ít đối tác nướ
c ngoài đến tìm hiểu và ra quyết định đầu tư tại Việt
Nam, chúng ta không đặt vấn đề lựa chọn, chỉ cần xuất hiện đối tác là đã sẵn
sàng đi tới quyết định hợp tác đầu tư. Như vậy là chạy theo số lượng đối tác,
thiếu sự xem xét, nghiên cứu, lựa chọn một cách nghiêm túc. Giai đoạn 1993 -
1996, khi bước sang thời kỳ bùng nổ của hoạt động FDI t
ại Việt Nam, số lượng


12
các đối tác FDI đến Việt Nam ngày càng nhiều hơn, tính chất đa dạng hơn, khả
năng kinh doanh phong phú và khác biệt nhau nhiều hơn, điều đó tất yếu dẫn
đến yêu cầu phải lựa chọn đối tác. Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm và chưa
được chuẩn bị trước nên việc lựa chọn đối tác diễn ra một cách tự phát, thiếu
hướng dẫn cụ thể và rõ ràng. Tiêu chuẩn lựa chọn
đối tác lúc này đã được đặt ra
nhưng chưa có cơ sở khoa học đầy đủ, tùy thuộc vào khả năng hiểu biết và trình
độ cán bộ ở mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi địa phương. Từ 1997 đến nay, hoạt động
FDI vào Việt Nam bị suy giảm rõ rệt do những yếu tố khách quan và chủ quan,
số lượng đối tác đến Việt Nam ngày càng giảm xuống. Như vậy, qua hơn 10 năm
triể
n khai hoạt động FDI tại Việt Nam chúng ta vẫn chưa đạt được sự chuẩn xác

và rõ ràng cần thiết trong việc xây dựng các tiêu chuẩn phục vụ cho công tác lựa
chọn đối tác ĐTNN.
- Do thiếu tiêu chuẩn rõ ràng và thống nhất, cho nên việc lựa chọn đối tác chịu
sự chi phối đáng kể của phía nước ngoài. Trên thực tế, không ít trường hợp diễn
ra tình trạng bị động trước mục tiêu và tiêu chí lựa chọ
n của bên nước ngoài.
Điều đó là do Việt Nam thiếu kế hoạch và chương trình một cách cụ thể và nhất
quán, thiếu thông tin và hiểu biết về đối tác nước ngoài. Chính vì vậy, tính rủi ro
của các dự án như trên là rất cao.
1.2.2.2. Phương thức và tổ chức việc lựa chọn đối tác đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Việc tổ chức lựa chọn đối tác FDI là một công đo
ạn cần thiết, có ý nghĩa quan
trọng vì nó quyết định khả năng tiếp cận để lựa chọn được đối tác FDI như
mong muốn. Đây là một hoạt động bao gồm nhiều công việc khác nhau để lựa
chọn ra được nhà đầu tư cần thiết. Tuy nhiên trên thực tế cũng rất khó tách bạch
từng công việc với những mục tiêu cụ thể mà nhiều khi phải đồng thờ
i tiến hành
các công việc khác nhau trong việc thu thập những thông tin ban đầu về đối tác.
Bên cạnh đó cần tiến hành thực hiện các phương thức khác nhau trên cơ sở đó


13
tiến hành các kỹ thuật cần thiết để lựa chọn, tìm ra được đối tác phù hợp với
từng dự án đầu tư cụ thể.
Trong thời gian qua ở Việt Nam, những công việc liên quan đến quá trình thu
thập thông tin, tiếp cận đối tác, gây sự chú ý của đối tác, tạo sự hiểu biết lẫn
nhau giữa khách và chủ nhà được tổ chức khá mạnh mẽ với nhiều hình thức
phong phú và đ
a dạng. Cụ thể là:

- Tổ chức thu thập thông tin về đối tác FDI bằng nhiều hình thức khác nhau, qua
nhiều kênh khác nhau, cả trực tiếp và gián tiếp, thí dụ thông qua các cơ quan
thương vụ, các văn phòng đại diện, các tổ chức nghiên cứu thị trường. Nhìn
chung, các cơ quan có chức năng chuyên môn về tổ chức hoạt động ĐTNN tiến
hành các hoạt động thu thập thông tin này mang tính hệ thống và cập nhật hơn.
Còn các cơ quan khác,
đặc biệt ở cấp địa phương, thiếu điều kiện cần thiết cả về
phương pháp cũng như phương tiện tiếp cận thông tin và xử lý thông tin nên
phương thức tổ chức thu thập thông tin không đầy đủ, không kịp thời, mang tính
manh mún, chia cắt. Điều quan trọng đáng nói là việc chia xẻ thông tin giữa các
cơ quan hữu trách, giữa trung ương và địa phương, giữa ngành có chức năng
t
ổng hợp với ngành chuyên môn chưa được đặt ra một cách đúng mức, thiếu sự
đồng bộ và kết hợp giữa các đơn vị do đó không đảm bảo độ chuẩn xác.
- Tổ chức việc tiếp xúc tìm hiểu lẫn nhau giữa các nhà ĐTNN với các cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp trong nước về nhu cầu thu hút đầu tư của các ngành, các
cấp thông qua các hội nghị của các nhà đầu tư, giới thi
ệu danh mục dự án kêu
gọi ĐTNN. Ngay từ khi chủ trương đẩy mạnh thu hút vốn FDI được khẳng định
với việc ban hành Luật ĐTNN tại Việt Nam và các văn bản dưới luật, các cơ
quan chức năng ở trung ương và địa phương đã tổ chức các hội nghị chuyên đề
giới thiệu cho các nhà ĐTNN tìm hiểu về hệ thống luật pháp, chính sách, chủ
trương của Nhà n
ước ta nói chung và từng địa phương nói riêng. Đồng thời các
cơ quan chuyên môn đã tiến hành lập danh mục các dự án kêu gọi ĐTNN vào
Việt Nam nói chung và vào từng ngành nói riêng để giới thiệu rộng rãi với đông


14
đảo các nhà kinh doanh nước ngoài. Các hội nghị chuyên đề được tổ chức ở

trong và ngoài nước nhằm tạo thuận lợi cho sự tiếp xúc, tìm hiểu lẫn nhau giữa
các đối tác hai bên, trao đổi trực tiếp về môi trường, cơ hội đầu tư và các yêu
cầu của từng dự án đầu tư cụ thể.
- Trên cơ sở các thông tin thu thập được và sự hiểu biết, gặp gỡ bước đầ
u giữa
các nhà ĐTNN với các nhà đầu tư trong nước, hai bên tiến hành các cuộc đàm
phán, tham quan, khảo sát lẫn nhau để có được những thông tin đầy đủ và toàn
diện hơn, đồng thời có sự hiểu biết lẫn nhau ở mức cao hơn làm cơ sở đi đến
quyết định ký các hợp đồng hợp tác đầu tư dưới các hình thức và mức độ khác
nhau được quy định trong Luật ĐTNN tại Việ
t Nam.
Nhìn chung phương thức và việc tổ chức lựa chọn đối tác FDI gồm nhiều công
việc đa dạng và phức tạp. Qua tích luỹ kinh nghiệm chúng ta cũng đã có những
tiến bộ và trưởng thành dần lên. Các kỹ năng về thu thập thông tin đối với các
nhà ĐTNN, về tổ chức vận động đầu tư, lập và giới thiệu danh mục các dự án
đầu tư ngày càng đầy đủ và có bài bản h
ơn.
1.3 VAI TRÒ CỦA VIỆC LỰA CHỌN ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI
1.3.1 Khái niệm và phân loại đối tác FDI
Khái niệm đối tác FDI

Đối tác FDI là các chủ thể có tư cách pháp nhân thực hiện hoạt động FDI. Đó
thường là các công ty hoặc tập đoàn kinh doanh được thành lập và đăng ký hoạt
động theo luật pháp của một quốc gia nào đó. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng
nước mà luật pháp có những qui định cụ thể khác nhau. Những qui định này sẽ
chi phối nội dung và cách thức hoạt động, trách nhiệm và nghĩa vụ củ
a từng đối
tác đó.
Đối tác đầu tư FDI tại Việt Nam tự mình hoặc là đại diện của công ty, hay tập

đoàn nước ngoài đã, đang và sẽ có ý định vào Việt Nam tham gia hoạt động kinh


15
doanh dưới dạng góp vốn FDI theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Phân loại đối tác FDI

Mỗi đối tác FDI có đặc điểm và sắc thái riêng biệt của công ty hay tập đoàn mà
họ làm đại diện. Việc phân loại các đối tác này có thể dựa trên nhiều tiêu chí
khác nhau như quốc tịch, nền văn hoá, loại hình công ty, hay theo lĩnh vực hoạt
động kinh doanh.
Thực tế cho thấy, các đối tác nước ngoài đến Việt Nam từ nhiều quốc gia khác
nhau, bằng nhiều con đường khác nhau. Các đối tác nước ngoài vào Việt Nam:
- Qua các cơ quan
đối ngoại của Việt Nam (thường loại đối tác này có đầy đủ
thông tin hơn về khả năng tài chính và năng lực thực sự của họ).
- Qua các văn phòng đại diện kinh tế thương mại, các văn phòng đại diện cho
các công ty nước ngoài tại Việt Nam.
- Qua môi giới, giới thiệu của các cá nhân ở trong nước, của Việt kiều, vv…
Tìm hiểu môi trường đầu tư, tìm kiếm các cơ h
ội đầu tư để thu lợi nhuận là mục
tiêu chung của các đối tác ĐTNN khi thâm nhập vào thị trường một nước. Trên
cơ sở luật pháp của Việt Nam và tuỳ theo tầm cỡ về qui mô, khả năng tài chính
cũng như ý đồ đầu tư của các đối tác nước ngoài mà họ sẽ có cách tiếp cận thị
trường Việt Nam một cách thích hợp nhất. Cũng trên cơ sở những thông tin
nghiên c
ứu về từng đối tác trong từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể mà phía Việt
Nam có được qua nhiều kênh thông tin khác nhau mà bên Việt Nam tiến hành
việc kiểm tra và lựa chọn đối tác đầu tư cho thích hợp.
FDI được coi là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của cả các

nước đầu tư cũng như các nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên ảnh hưởng cụ thể
của chúng
đối với mỗi quốc gia, trong mỗi thời kỳ là không giống nhau. Tuỳ
theo giác độ nghiên cứu, quan điểm đánh giá, có thể tồn tại những ý kiến khác
nhau về vai trò, hiệu quả của FDI đối với sự phát triển của nước đầu tư và nước
tiếp nhận đầu tư.


16
1.3.2. Sự cần thiết của việc lựa chọn đối tác FDI
Một dự án đầu tư chỉ có thể được thực hiện khi nó đồng thời đáp ứng được yêu
cầu của các bên. Đối với bên nhận đầu tư là : giải quyết tình trạng thiếu vốn, tận
dụng công nghệ tiến tiến của nước đầu tư, mở rộng thị trường, nâng cao tay
ngh
ề của người lao động thông qua việc nắm bắt các tiến bộ khoa học – kỹ thuật
được áp dụng trong sản xuất, cách thức tổ chức, quản lý các hoạt động kinh
doanh. Mục đích cuối cùng của bên đầu tư là không ngừng nâng cao giá trị về
tài sản và sự giàu có cho các cổ đông.
Do vậy, việc lựa chọn đối tác FDI phải xuất phát từ các yêu cầu khách quan của
hoạt động đầu tư
nước ngoài nói chung và căn cứ vào tình hình, đặc điểm của
từng lĩnh vực hoạt động kinh doanh nói riêng cũng như tính đến mối tương quan
giữa các bên tham gia vào từng dự án đầu tư cụ thể. Mục đích thu hút FDI đối
với các nước đang phát triển cũng như đối với Việt Nam trước hết là về nguồn
vốn, trình độ công nghệ, năng lực quản lý, khả năng chi
ếm lĩnh thị trường
Việc lựa chọn đối tác FDI là điều hết sức quan trọng và cần thiết, đặc biệt phải
thông qua quá trình thương lượng để tìm được đối tác phù hợp cũng như tìm
được cơ cấu lĩnh vực đầu tư sao cho khai thác được tối đa nguồn lực trong nước
và tranh thủ ở mức cao nhất các nguồn lực bên ngoài.

Khi tiến hành lựa chọn đố
i tác FDI phải luôn chú ý đến sự tương thích giữa các
bên đối tác, đây không đơn thuần là chọn bên đối tác đáp ứng cao nhất các yêu
cầu đề ra, mà cần quan tâm đến sự thống nhất giữa các chỉ tiêu, mục đích hoạt
động kinh tế của bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Qua đó có thể xác định những
yêu cầu cụ thể trong việc lựa chọn đối tác FDI.
Sau khi đi vào hoạt động, các d
ự án đầu tư chịu sự chi phối bởi khuôn khổ luật
pháp của nước chủ nhà. Vì vậy, những tác động tiêu cực nếu có của các dự án
đầu tư nước ngoài đối với nước chủ nhà chỉ có thể nảy sinh do những yếu kém
trong lĩnh vực đàm phán cũng như quản lý và hoạch định chính sách của nước
chủ nhà.


17
Theo thống kê cho thấy khoảng 10 –20% số dự án FDI không được thực hiện do
một trong các nguyên nhân sau: bị rút giấy phép trước thời hạn, bán lại dự án,
không thực hiện đúng luật của nước sở tại, gây sức ép với bên đối tác của nước
nhận đầu tư về vốn, mục tiêu đầu tư không phù hợp với lợi ích của nước nhận
đầu tư…. Nguyên nhân của tình hình nói trên có nhiều loạ
i, trong đó có trách
nhiệm của đối tác nước ngoài, cụ thể là:
- Không chấp hành đúng các qui định pháp lý của nước sở tại.
- Mục tiêu đầu tư của một số đối tác nước ngoài có thể đưa đến thiệt hại cho lợi
ích cơ bản và lâu dài của nước sở tại.
- Không đủ năng lực về pháp lý, năng lực về tài chính, năng lực về công nghệ
.
Bởi vậy, để xác định được những đối tác cần thiết trong hàng loạt các nhà kinh
doanh nước ngoài đến khảo sát tại thị trường Việt Nam, qua đó chọn ra được các
đối tác đảm bảo đủ các yêu cầu cần thiết cho việc triển khai có hiệu quả dự án

đòi hỏi chúng ta phải nắm chắc về năng lực, sở trường cũng như mục tiêu của
các đối tác. Các đối tác nướ
c ngoài khi đến làm ăn tại Việt Nam sẽ trở thành một
bộ phận trong cộng đồng các thương nhân, mọi hoạt động sinh hoạt, kinh doanh
của họ đều có tác động tích cực và tiêu cực đến môi trường đầu tư và kinh doanh
của Việt Nam trước mắt và lâu dài. Vì thế việc lựa chọn đối tác là một yêu cầu
tất yếu.
1.4 KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC TRONG
LỰA CHỌN
ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.4.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc một thị trường với những tiềm năng khổng lồ về tài nguyên, về sức
mua và nguồn lao động rẻ, từ lâu đã là nơi thu hút các nhà đầu tư là Hoa kiều ở
Hồng Kông, Đài Loan và Ma Cao. Bên cạnh đó chính phủ Trung Quốc luôn có
chính sách quan tâm, khuyến khích đối với gần 30 triệu người Hoa ở khu vực
Đông Nam Á với tài kinh doanh, có v
ốn lớn, lại nắm giữ những vị trí quan trọng


18
trong những lĩnh vực như ngân hàng, các tổ chức thương mại, tài chính trở về
đầu tư xây dựng quê hương. Hoa kiều và người Hoa khi đầu tư vào Trung Quốc
có nhiều thuận lợi về văn hoá, ngôn ngữ, các mối quan hệ sẵn có trong gia đình,
dòng tộc… chính vì lý do này mà Trung Quốc liên tục đưa ra những qui định
nhằm khuyến khích, mời gọi đầu tư của các chủ đầu tư có gốc Trung Quốc. Nă
m
1989, Trung Quốc công bố: “Qui định về việc khuyến khích đồng bào Đài Loan
đầu tư”; năm 1990 công bố “Qui định về việc khuyến khích Hoa kiều và đồng
bào Hồng Kông, Macao đầu tư”
Trong năm 2002, tổng số vốn FDI mà các nước đang phát triển ở Châu Á thu hút

được là khoảng 90 tỷ USD. Trong đó, Trung Quốc chiếm 50 tỷ USD vốn FDI.
các nhà kinh tế cho rằng, Trung Quốc thu hút nhiều FDI là nhằm để tăng năng
suất nhờ tậ
n dụng kinh nghiệm quản lý kết hợp với lợi thế nhân công rẻ và thị
trường nội địa tiềm năng. Kể từ năm 1993, Trung Quốc đã trở thành nước nhận
VĐT lớn nhất trong số các nước đang phát triển.
Có rất nhiều nhân tố dẫn tới sự gia tăng mạnh của FDI vào Trung Quốc :
- Một thị trường lớn, chi phí lao động rẻ.
- Môi trường đầ
u tư được cải thiện đáng kể: Ở phần lớn các tỉnh và thành phố,
các cơ quan chuyên trách đã được thành lập để cung cấp dịch vụ cho các doanh
nghiệp có VĐT nước ngoài, các thủ tục phê chuẩn đã được đơn giản hoá, và các
bộ luật, các sắc lệnh tương ứng đã được tăng cường hơn nữa.
- Cơ sở hạ tầng hợp lý, chính sách ưu tiên và ưu
đãi về thuế cũng như việc cho
phép các đặc khu kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc tự do hóa nền kinh
tế.
Lấy ví dụ về Nhật Bản, nước có số vốn FDI vào Trung Quốc lớn thứ ba, xếp sau
Hồng Kông & Macao, Mỹ. Trung Quốc đã căn cứ vào các mục tiêu sau để đưa
ra tiêu chuẩn lựa chọn Nhật Bản làm đối tác FDI: (1) Nhập khẩu công nghệ của
Nhật Bản; (2) Sử
dụng vốn của Nhật Bản; (3) Đáp ứng nhu cầu của thị trường


19
nội địa; (4) Sử dụng các kênh xuất khẩu của Nhật Bản; (5) Xuất khẩu hàng sang
Nhật Bản; (6) Sử dụng linh kiện của Nhật Bản.
Có thể nói, sự tiếp tục gia tăng của dòng vốn FDI vào Trung Quốc được quyết
định bởi quá trình tự do hóa kinh tế và cải cách cơ cấu ngành. Thêm vào đó là
việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO.

1.4.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Năm 1962, bắ
t đầu kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, chính phủ Hàn Quốc nhận thức
rõ tầm quan trọng của tư bản nước ngoài nên đã đưa ra nhiều biện pháp cụ thể
nhằm thu hút các luồng vốn này. Từ năm 1962 - 1966, về nguyên tắc, chính phủ
cho phép tư bản nước ngoài vào trong nước tự do miễn là đáp ứng được mục
tiêu của kế hoạch 5 năm. Mọi nguồn tư b
ản nước ngoài vào Hàn Quốc đều được
Nhà nước bảo vệ và ủng hộ. Sự tham gia của các doanh nghiệp trong nước dưới
dạng liên doanh là không bắt buộc. Việc thu hút công nghệ nước ngoài cũng
được khuyến khích. Tuy vậy trong giai đoạn này tư bản nước ngoài vào Hàn
Quốc còn ít do mức độ rủi ro cao.
Năm 1965, Hàn Quốc thực hiện bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Nhật
sau 20 năm gián đoạn. Đầu tư c
ủa Nhật vào Hàn Quốc bắt đầu tăng lên một cách
mạnh mẽ. Năm 1967, chính phủ tiến hành sửa đổi luật khuyến khích đầu tư.
Năm 1970, thiết lập khu xuất khẩu tự do (FEZ) đầu tiên ở Masan. Nhờ những nỗ
lực trên, tư bản nước ngoài vào Hàn Quốc đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, lo
ngại những tác động ngược của tư bản nước ngoài đối với nề
n kinh tế, chính phủ
đã đưa ra một số qui định nhằm hạn chế bớt ảnh hưởng của các doanh nghiệp
nước ngoài. Chính phủ khuyến khích thành lập các doanh nghiệp liên doanh hơn
là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và không chấp nhận các dự án có đặc
trưng sau:
(1) Những dự án gây hỗn loạn cung, cầu trong nước về nguyên liệu thô và sản
phẩm trung gian.


20
(2) Những dự án có các sản phẩm đang cạnh tranh với các công ty trong nước

trên thị trường nước ngoài.
(3) Những dự án tìm kiếm sự ủng hộ tài chính của các công ty trong nước.
(4) Những dự án tìm kiếm lợi nhuận chỉ dựa vào việc sử dụng đất.
Nói chung mức tham gia của tư bản nước ngoài thường không quá 50% trừ các
trường hợp sau:
(1) Dự án xuất khẩu, hoàn toàn không c
ạnh tranh với các công ty trong nước
trên thị trường nước ngoài.
(2) Các dự án cần nhiều công nghệ, tiến hành sản xuất hoặc thu hút sản xuất
để xuất khẩu hoặc tạo ra sản phẩm thay thế nhập khẩu.
(3) Các dự án góp phần hợp lý hoá cơ cấu công nghiệp trong nước.
(4) Các dự án từ một nước đầu tư còn ít nhưng được trông đợi sẽ tăng lên
trong tương lai.
(5) Những dự án của người Hàn Quốc sống ở nước ngoài.
(6) Những dự án thuộc khu xuất khẩu tự do.
Có thể nói các qui định này là quá khắt khe so với nhiều nước trong khu vực và
do vậy đã giới hạn đáng kể sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào Hàn
Quốc trong những năm này.
Năm 1980, chính phủ sửa lại Luật đầu tư theo hướng mở rộng hơ
n đối với tư
bản nước ngoài: cho phép tư bản nước ngoài được tham gia vào nhiều lĩnh vực
hơn và tỷ lệ vốn tham gia lớn hơn, cho phép xí nghiệp 100% vốn nước ngoài
hoạt động ở nhiều lĩnh vực trước đây chưa được phép. Các biện pháp này được
đưa ra nhằm giảm bớt tình trạng thâm hụt của cán cân thanh toán và điều quan
trọng là nhằm nâng cao hơn nữa khả năng c
ạnh tranh của các công ty trong
nước, nâng cao hiệu quả và năng suất của các công ty đang được bảo hộ, thúc
đẩy sự phát triển của công nghệ và các ngành công nghiệp tinh xảo.



21
VĐT nước ngoài vào Hàn Quốc chủ yếu là từ các nước Nhật Bản, Mỹ và các
nước Tây Âu. Về cơ cấu, lĩnh vực công nghiệp chiếm gần 2/ 3 tổng số FDI, lĩnh
vực dịch vụ chiếm gần 1/ 3 (chủ yếu là du lịch) còn lại là các ngành khác.
Hàn Quốc là một trong những quốc gia yêu cầu mức độ tham gia sở hữu vốn của
nước chủ nhà khá nghiêm ngặt. Các công ty nước ngoài thuộc di
ện sở hữu 100%
chiếm tỷ lệ không lớn (14,6%), đa số các công ty có VĐT nước ngoài là thuộc
diện đồng sở hữu hoặc sở hữu thiểu số chiếm tỷ lệ (73%). Cho tới đầu những
năm 80, chính sách của chính phủ Hàn Quốc là tương đối khắt khe, đặc biệt là
rất ít cho phép các dự án cạnh tranh với các công ty trong nước. Chính sách này
đã tạo ra một sự bảo hộ cần thiế
t cho các công ty trong nước trong những giai
đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Tuy nhiên, chính sách này cũng bộc lộ
những hạn chế của nó. Bởi vậy, trong những năm gần đây, nhất là sau cuộc
khủng hoảng tài chính và tiền tệ trong khu vực, chính sách thu FDI của Hàn
Quốc đã có những thay đổi căn bản theo hướng tự do hoá đối với hoạt động
FDI. Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành Luật xúc tiến đầu tư nước ngoài m
ới
(11/1998), chuyển từ quan điểm điều tiết và kiểm soát sang thúc đẩy và hỗ trợ
FDI. Cụ thể:
- Trong 1.148 ngành nghề của nền kinh tế, chỉ đóng cửa 13 ngành và hạn chế
18 ngành đối với FDI.
- Dành cho các nhà đầu tư nước ngoài qui chế đãi ngộ quốc gia (NT) trong việc
thành lập và hoạt động kinh doanh.
- Đơn giản hoá thủ tục đầu tư, thay thế chế độ
cấp phép bằng chế độ thông báo
và đăng ký đầu tư. Thực hiện cơ chế một cửa bằng việc thành lập các Trung tâm
dịch vụ đầu tư Hàn Quốc.
- Thành lập các khu đầu tư nước ngoài với qui chế ưu đãi riêng.

Ngoài ra, Hàn Quốc còn thực hiện chính sách tự do hoá thị trường chứng khoán.
Bãi bỏ hoàn toàn các hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động


22
sáp nhập và mua lại (M&A) các công ty trong nước, áp dụng chế độ giao dịch
ngoại hối tự do kể từ 1/4/1999. Từng bước thực hiện mở cửa đối với thị trường
đất đai và bất động sản.
Có thể nói, sự đổi mới trong quan điểm đối với FDI của chính phủ Hàn Quốc và
các chính sách mới là nhân tố quan trọng trong việc nâng cao tính hấp dẫn của
môi trường đầu t
ư ở nước này và đã góp phần quan trọng vào việc khôi phục
nhanh chóng nền kinh tế sau khủng hoảng.
1.4.3. Kinh nghiệm của Thái Lan
Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế cùng với đổi mới kỹ thuật công nghệ
và đổi mới cơ cấu kinh tế, Thái Lan đã tập trung khai thác mọi nguồn vốn cả
trong nước lẫn nước ngoài, cả của người Thái, người Hoa cũng như của nhữ
ng
người thuộc quốc tịch khác, cả bằng hình thức vay vốn, nhận các nguồn viện trợ
và đầu tư trực tiếp.
Về hình thức đầu tư, để tạo điều kiện cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
Chính phủ Thái Lan đã áp dụng một số biện pháp sau:
- Bán dần các doanh nghiệp Nhà nước cho tư nhân. Đây là yếu tố góp phần đa
dạng hóa các lo
ại hình đầu tư FDI trên đất nước Thái Lan.
- Khuyến khích thành lập các liên doanh với các công ty của Mỹ, Nhật, công ty
của các nước Châu Á và các công ty của một số nước khác.
- Đầu tư vào thị trường chứng khoán thu hút được một khối lượng vốn nước
ngoài lớn nhất.
- Kể từ năm 1980, hình thức sở hữu 100% vốn nước ngoài cũng được Chính

phủ Thái Lan chấp nhận.
- Trong lĩ
nh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, Chính phủ Thái Lan cũng áp dụng
hình thức BOT.
Tuy có nhiều ưu đãi nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, lôi kéo các luồng


23
VĐT quốc tế, song Chính phủ Thái Lan cũng áp dụng một số hạn chế trong việc
lựa chọn các nhà đầu tư như: Chính phủ Thái Lan chủ trương chỉ cho phép các
công ty nước ngoài đầu tư vào những ngành mà Thái Lan không đủ sức. Tuy
không công bố công khai “vùng cấm” đầu tư, nhưng trên thực tế các công ty
nước ngoài không thể len chân vào một số ngành kinh tế quan trọng. Đặc biệt là
ngành tài chính.
Do việc rút vốn và chạy vốn “một cách tàn b
ạo và đột ngột” của các nhà ĐTNN
ra khỏi Thái Lan vào cuối năm 1997 và trong năm 1998, hoạt động của nhiều
công ty ĐTNN và những dự án có VĐT nước ngoài gặp khó khăn nghiêm trọng.
Phản ứng nhằm bảo toàn VĐT, bảo toàn tài sản cùng hoảng loạn có tính chất
tâm lý đã làm giảm sút nghiêm trọng lượng vốn FDI vào Thái Lan.
Nhằm giảm bớt khó khăn cho các công ty và giữ nguyên những định hướng có
tính chất chiến lược, chính sách đầ
u tư của Thái Lan đã có những điều chỉnh
quan trọng. Là một trong năm nước sáng lập ra tổ chức ASEAN. Khi ra nhập
ASEAN, mục đích của Thái Lan là tìm kiếm lợi ích về an ninh và quân sự hơn
là hợp tác kinh tế. Hơn nữa, đối với các nước ASEAN, do điều kiện tự nhiên,
những tiềm năng ban đầu để phát triển kinh tế, truyền thống văn hóa tương đối
đồng đều, trình
độ kỹ thuật công nghệ thấp, cơ cấu hàng hóa mà nền kinh tế tạo
ra tương đối giống nhau, tất cả những yếu tố đó cho thấy khả năng bổ sung nhau

trong phát triển kinh tế của Thái Lan với nhiều nước trong khu vực là rất hạn
chế. Vì thế, vào những năm 70, 80, trong nhãn quan của các nhà cầm quyền Thái
Lan, trong hợp tác đầu tư với bên ngoài (đặc biệt quan hệ kinh tế với Mỹ
, Nhật
Bản, EU) rõ ràng có lợi hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Ở đó Thái Lan
có thể nhận được kỹ thuật, công nghệ mới, có thể tiêu thụ được các hàng nông
sản và hàng công nghiệp chế biến với những ưu đãi thuế quan, qua đó có điều
kiện thuận lợi cho việc từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Hơn nữa, Mỹ
, Nhật Bản và Tây Âu là các thị trường tiêu thụ lớn các mặt hàng
thủy sản, cao su, dầu dừa, quặng đồng, quặng sắt … của Thái Lan, đồng thời là


24
thị trường cung cấp kỹ thuật, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp có hàm
lượng kỹ thuật cao cho Thái Lan.
Bước sang thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới và khu vực thay đổi
nhiều và đã có tác động không nhỏ đến sự chuyển hướng của nền kinh tế Thái
Lan, trong đó có quan hệ với các nước ASEAN. Thái Lan đã chở thành một
nước công nghiệp. Bản thân sự phát triển bên trong nền kinh tế Thái Lan những
n
ăm 1990 khác nhiều so với thập kỷ 60, 70. Do đó, việc khai thác hết năng lực
sản xuất của nền kinh tế và không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh là một
đòi hỏi bức xúc đối với việc gìn giữ những thị trường truyền thống, mở mang thị
trường mới nhằm tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng của Thái Lan.
Để tạo điều kiện thuậ
n lợi cho tự do hóa thương mại, tự do hóa đầu tư trong khu
vực, ngay từ những ngày đầu thực hiện việc triển khai AFTA, Thái Lan đã liên
tục thực hiện hợp tác với các nước trong khu vực. Do có sự thuận lợi về điều
kiện địa lý, Thái Lan đã tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực trong

các lĩnh vực như: vận tải đường bộ, hải quan, giáo dục đại h
ọc, thương mại,
thông tin và công nghệ thông tin, KCN,… Gần đây kế hoạch xây dựng KCN tại
tỉnh Rayong của Thái Lan đã thu hút khoảng 20 công ty của Xingapore vào hoạt
động. Các công ty này đã tạo thêm 22.000 chỗ làm việc.
Qua đây ta cũng có thể thấy quan điểm của Thái Lan trong lựa chọn đối tác FDI
có sự thay đổi qua các giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên có một số nét chính sau:
- Ưu tiên, khuyến khích ĐTNN vào các lĩnh vực kỹ thuật cao.
- Triển khai các dự án
đầu tư trong lĩnh vực giao thông, năng lượng, nâng đỡ
các nhà hàng ăn uống, du lịch, mở rộng công suất dệt may.
- Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực trước kia bị
cấm chẳng hạn như lĩnh vực tài chính.
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực mà Thái Lan còn yếu.
- Tận dụng khả năng tài chính và công nghệ cao của các nước phát triển.


25
- Hợp tác với các nước trong khu vực để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
của Thái Lan.

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VIỆC LỰA CHỌN ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
2.1.1. Những đặc điểm chủ yếu về
tình hình FDI ở Việt Nam trong thời gian
qua

2.1.1.1. Về tình hình cấp giấy phép FDI
 Về qui mô và nhịp độ thu hút vốn
Theo Bộ KH - ĐT, tính đến ngày 20 tháng 12 năm 2002, Việt Nam có 3.669 dự
án có vốn FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký là 39,1 tỷ USD, trong
đó đã thực hiện được khoảng 20,7 tỷ USD. Trong số này, hình thức liên doanh
chiếm 1.089 dự án, với khoảng 19,69 tỷ USD vốn đăng ký và trên 10 tỷ USD
vốn thực hiện; hình thức 100% vốn ĐTNN chiếm 2.417 dự án, với hơn 14,2 tỷ
USD vốn đăng ký và hơn 6,7 tỷ
USD vốn thực hiện; hình thức HĐHTKD có
157 dự án, với hơn 3,8 tỷ USD vốn đăng ký và hơn 3,7 tỷ USD vốn thực hiện;
hình thức BOT có 6 dự án, với gần 1,333 tỷ USD vốn đăng ký và khoảng 216,9
triệu USD vốn thực hiện. (Xem bảng 2 – trang 31)
- Trong 3 năm đầu 1988 - 1990: Số dự án và số vốn đầu tư chưa nhiều (thời
gian này có thể coi là thời gian khởi động).
- Th
ời kỳ 1991 - 1995: Nhịp độ tăng trưởng nhanh, bình quân năm sau cao hơn

×