Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.41 KB, 40 trang )

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG
THỜI KÌ HÔN NHÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ, Ý NGHĨA
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
 Thời kì hôn nhân
Thời kì hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng. Theo
pháp luật Việt Nam thì thời kì hôn nhân được tính từ ngày đăng ký kết hôn
đến ngày chấm dứt hôn nhân1. Tuy nhiên từ các qui định của Nghị quyết số
35/2000/NQ-QH10 có thể suy ra hai trường hợp đặc biệt mà thời kì hôn nhân
được tính theo cách khác, đó là trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập
trước ngày 3/1/1987 mà không đăng kí kết hôn, trường hợp quan hệ vợ chồng
được xác lập trong khoảng thời gian từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001 mà
đăng kí kết hôn trong khoảng từ ngày 1/1/2001 đến ngày 1/1/2003 (thời kì
hôn nhân được tính từ ngày quan hệ vợ chồng thực tế được xác lập đến ngày
chấm dứt hôn nhân)2.
 Tài sản chung
Tài sản chung là tài sản thuộc sở hữu của nhiều chủ sở hữu. Tuy nhiên
khái niệm tài sản chung được đề cập ở đây chỉ là tài sản thuộc sở hữu chung
hợp nhất của vợ chồng, tức là tài sản thuộc sở hữu của cả vợ và chồng mà với
tài sản đó phần quyền sở hữu của mỗi người không được xác định.
 Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân không được định nghĩa
trong các văn bản pháp luật, có lẽ nhà làm luật cho rằng cụm từ chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân đã đủ để phản ánh khái niệm đó. Theo người
viết có thể tạm định nghĩa: chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là việc
1 Khoản 7 điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
2 TS. Nguyễn Văn Cừ, Thời kì hôn nhân - căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng, Tạp chí
Tòa án nhân
dân tháng 12 - 2006 (số 23), tr. 7 - 13.
- 6 -


chuyển một phần hoặc toàn bộ các tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất
của vợ chồng thành các tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng, hay
sở hữu chung theo phần của vợ chồng.
1.1.2. Đặc điểm của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
Chế định chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chỉ có thể tồn tại khi
pháp luật ghi nhận quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng vì
nếu không ghi nhận quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng thì
vợ chồng sẽ không được bình đẳng trong chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản, mà mục đích của vợ chồng khi chia tài sản chung là để cho vợ hoặc
chồng hoặc cả hai có thể tự do định đoạt với những tài sản được chia.
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chỉ có thể thực hiện được
trong thời kì hôn nhân, việc chia tài sản thuộc sở hữu chung của hai người
1
chưa kết hôn hay chia tài sản của hai người đã li hôn đều không thể coi là chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chỉ có thể thực hiện khi
tồn tại khối tài sản chung vì nếu khối tài sản chung không thể tồn tại thì
không có đối tượng để chia. Tuy nhiên một số trường hợp cũng có thể chia
với khối tài sản chung chưa thuộc sở hữu của vợ chồng trong hiện tại nhưng
sẽ phát sinh trong tương lai3.
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân không làm chấm dứt
hoàn toàn sở hữu chung của vợ chồng vì việc chia tài sản chung này không
chỉ đơn thuần như việc chia tài sản chung thuộc các hình thức sở hữu chung
như qui định của Bộ luật Dân sự 4, khối tài sản chung vẫn có thể còn tồn tại
hoặc vẫn có thể xuất hiện (trong trường hợp không chia hết hoặc sau khi chia
lại được thừa kế chung, tặng cho chung, hay vợ chồng khôi phục chế độ tài
sản chung...)
3 Sẽ làm rõ điều này ở các phần sau.
4 T h e o đ i ề u 2 2 6 Bộ l u ậ t D ân s ự n ă m 2 0 0 5 vi ệ c c h i a t à i s ả n c h u n g l à mộ t t r
o n g s ố c á c

c ă n c ứ l àm chấ m d ứ t s ở h ữ u c h u n g.
- 7 -
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân hoàn toàn không làm ảnh
hưởng tới quan hệ nhân thân của vợ chồng. Sau khi chia tài sản chung, quan
hệ vợ chồng vẫn tồn tại trước pháp luật, do đó vẫn tồn tại mọi quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng như chung thủy yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, tôn
trọng giữ gìn danh dự, nhân phẩm uy tín cho nhau, tôn trọng tự do tín ngưỡng
tôn giáo của nhau … điều này khác hẳn với chế định li thân ở một số nước.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là một giải pháp để loại
bỏ các mâu thuẫn giữa vợ chồng trong quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản. Tài
sản chung của vợ chồng theo qui định pháp luật phải được quản lí theo sự
nhất trí của hai người, định đoạt theo sự thỏa thuận của hai người mà hai
người thì không phải bao giờ cũng có thể nhất trí về cách quản lí của nhau,
bằng lòng về cách định đoạt tài sản của nhau và như thế thì chắc chắn sẽ có
mâu thuẫn phát sinh, mâu thuẫn đó khiến cho việc dịch chuyển tài sản bị
chậm lại, có khi bị ngừng lại gây bất lợi cho kinh tế gia đình. Còn việc định
đoạt tài sản thuộc sở hữu cá nhân thì không cần có sự nhất trí, sự bằng lòng
của nhau, chính vì vậy mà việc chia tài sản chung sẽ là một giải pháp để loại
bỏ các mâu thuẫn trong quản lí, sử dụng và định đoạt tài sản.
Việc chia tài sản chung là một giải pháp cho các cặp vợ chồng có tuổi vì
lí do nào đó mà có mẫu thuẫn sâu sắc về tình cảm, nhưng lại không dám ra
tòa li hôn do sợ điều tiếng của dư luận, sợ mất hòa khí gia đình, sợ con cái lo
buồn, sợ hàng xóm chê cười. Qui định này tạo điều kiện cho họ được có tài
sản riêng để sống độc lập, tránh đối mặt với các mâu thuẫn.
2
Qui định về việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đã đánh dấu
sự chuyển mình theo thời đại của các qui định pháp luật về quyền sở hữu tài
sản của vợ chồng. Việt Nam trong một thời gian dài tồn tại dựa vào nền kinh

tế nông nghiệp lạc hậu nên tư duy của con người khó lòng thoát khỏi nguyên
tắc của xã hội trồng lúa nước - đó là ổn định để tồn tại, đoàn kết để tồn tại,
chính vì thế mà người ta thường lạ lẫm với việc rạch ròi về tài sản, nhất lại là
tài sản của vợ chồng, nếu như cặp vợ chồng nào có sự độc lập về tài chính với
- 8 -
nhau hay sự phân định “của anh, của tôi” thì thường bị người ta chê cười.
Sang thời đại của công nghệ thông tin, của internet, của thẻ tín dụng, của toàn
cầu hóa sự độc lập của mỗi cá nhân không thể bị bó buộc trong lối tư duy cũ
đó nữa. Và con người thực sự cần sự độc lập hơn về tài chính để có thể tồn tại
trong xã hội hiện đại. Việc chia tài sản trong chung trong thời kì hôn nhân
như một giải pháp để dung hòa giữa truyền thống xưa và tư duy của ngày nay.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KÌ HÔN
NHÂN THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ
Như đã nói ở trên người Việt Nam tự ngàn xưa đã luôn coi trọng sự ổn
định, với tư duy “an cư thì mới lạc nghiệp”, gia đình với người Việt Nam luôn
được đặt lên hàng đầu, và sự phân chia tài sản trong thời kì hôn nhân trong cố
luật là không thể có.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân trong pháp
luật Việt Nam trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực là
không hề có. Tuy một số luật dưới thời Ngụy quyền, thời Pháp thuộc do ảnh
hưởng của pháp luật phương Tây cũng qui định cho vợ chồng được thỏa
thuận về tài sản trong hôn ước (lập trước khi kết hôn), nhưng hôn ước này thì
lại bất di bất dịch nên việc chia tài sản chung không thể được thực hiện trong
thời kì hôn nhân.
Qui định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân lần đầu tiên xuất
hiện trong pháp luật Việt Nam tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
1.2.1. Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân trong Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 1986
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 chế độ tài sản vợ chồng là
chế độ tài sản pháp định, tài sản chung của vợ chồng “gồm tài sản do vợ hoặc

chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung
hoặc được cho chung”5. Luật không qui định rằng những tài sản mà vợ chồng
5 Xem điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
- 9 -
thỏa thuận là tài sản chung thì cũng thuộc khối tài sản chung nhưng lại qui
định "đối với tài sản mà vợ chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế
riêng hoặc được cho riêng trong thời kì hôn nhân thì người có tài sản đó có
quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”6 và việc
nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng được thực hiện theo
3
qui định của Nghị định số 45-HĐBT ngày 27/2/1991 về tổ chức và hoạt động
của công chứng nhà nước7.
Tài sản chung của vợ chồng chỉ có thể được chia trong thời kì hôn nhân
khi có lí do chính đáng và có yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên. Chỉ có
một cách thức chia duy nhất là quyết định của tòa án. Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 1986 không dự liệu các lí do chính đáng nên việc đánh giá lí do
chính đáng hoàn toàn phụ thuộc vào tòa án (Nghị quyết hướng dẫn Luật Hôn
nhân và Gia đình có nêu một trường hợp được coi là lí do chính đáng đó là vợ
chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên không muốn li hôn mà
chỉ muốn ở riêng8). Nguyên tắc chia giống như chia tài sản trong một vụ li
hôn9. Luật cũng không hề dự liệu về hậu quả pháp lí về tài sản sau khi chia tài
sản chung trong thời kì hôn nhân và các văn bản dưới luật cũng không hướng
dẫn vấn đề này. Vấn đề nhập lại tài sản riêng có được do chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân cũng không được qui định trong luật, mà luật cũng chỉ
qui định về việc nhập hay không nhập các tài sản có trước khi kết hôn, tài sản
được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân10.
Xuất phát từ tình hình năm 1986 đất nước ta đang bước vào thời kì đổi
mới, nên mọi qui định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân chưa được
cụ thể. Hơn nữa với tình hình thời đó thì không có một vụ án nào về chia tài

6 Xem điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
7 Điều 27 Nghị định số 45- HĐBT có qui định: “Công chứng viên chứng nhận tài sản mà vợ hoặc
chồng có
trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc
tài sản đó
được nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng trên cơ sở đơn của người có tài sản đó”
8 Xem Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988.
9 Điều 18 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 qui định: “Khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên yêu
cầu và có
lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật
này” (điều 42
có qui định về nguyên tắc chia tài sản khi li hôn).
10 Xem điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
- 10 -
sản chung trong thời kì hôn nhân nào được đưa ra xét xử sơ thẩm11, trường
hợp chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân mà được tòa án giải quyết (nếu
có) cũng chỉ được coi là trường hợp đặc biệt ngoại lệ.
1.2.2. Chia tài sản chung trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 tài sản chung của vợ chồng
bao gồm: “tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”. Luật
4
Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã bổ sung thêm một căn cứ xác lập tài sản
chung của vợ chồng đó là thỏa thuận của vợ chồng.
Theo luật tài sản chung của vợ chồng cũng chỉ được chia khi có lí do chính
đáng, luật dự liệu cụ thể hai trường hợp được coi là có lí do chính đáng đó là vợ
chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Luật cũng cho

phép vợ chồng được thỏa thuận chia tài sản chung bằng văn bản bên cạnh việc
chia tài sản chung bằng quyết định của tòa án.
Luật đã dự liệu về hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung trong thời kì
hôn nhân, và theo qui định về tài sản chung thì vợ chồng cũng có thể nhập lại tài
sản đã được chia vào khối tài sản chung theo căn cứ xác lập tài sản chung là thỏa
thuận của vợ chồng.
Vấn đề qui định của pháp luật về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân sẽ
được làm rõ hơn ở chương 2.
1.3. MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH TƯƠNG TỰ TRONG PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
Do sự khác nhau về nền văn hóa và các điều kiện kinh tế, chính trị
những hình thức có thể coi là chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân ở một
11 Theo thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hôn nhân và gia đình (thống kê theo báo cáo của các
tòa sơ thẩm
trong cả nước) thì trong thời gian từ năm 1987 đến hết quí 3 năm 2004 chưa hề có vụ án chia tài
sản chung
trong thời kì hôn nhân nào được thụ lí - tài liệu từ Vụ Thống kê tổng hợp - Tòa án nhân dân tối
cao.
- 11 -
số nước có sự khác nhau nhất định với Việt Nam. Sau đây xin được điểm qua
một số hình thức tương tự chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.
1.3.1. Chế định chia tài sản vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo Bộ
luật Dân sự và Thương mại Thái Lan12
Quyền sở hữu của vợ chồng ở Thái Lan được điều chỉnh bằng hai
phương thức: theo hôn ước mà vợ chồng lập ra trước khi cưới và theo qui
định của pháp luật khi vợ chồng không có hôn ước hoặc hôn ước đó không
được công nhận.
Theo qui định của pháp luật Thái Lan kể từ thời điểm kết hôn vợ chồng
sẽ phát sinh quan hệ tài sản chung với những tài sản có nguồn gốc sau:
 Tài sản vợ chồng làm ra trong thời kì hôn nhân.

 Tài sản mà vợ chồng có được trong thời kì hôn nhân thông qua một
di chúc hoặc tặng cho được làm bằng văn bản nếu trong các văn bản
này tuyên bố rõ tài sản đó là tài sản chung.
 Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng
Ngoài ra trong trường hợp tài sản có nguồn gốc hợp pháp khác nhưng không
chứng minh được nó là của riêng một bên vợ, chồng thì tài sản đó dược coi là
tài sản chung13.
Tài sản chung của vợ chồng chỉ có thể chia trong thời kì hôn nhân trong
5
các trường hợp cụ thể sau:
 Một bên vợ hoặc chồng có nghĩa vụ tài sản riêng nhưng không
có hoặc không đủ tài sản riêng để thực hiện, phải thực hiện bằng phần tài sản
của mình trong khối tài sản chung14
 Một bên vợ hoặc chồng có hành vi vi phạm nghĩa vụ quản lí tài
sản chung như: gây mất mát tài sản chung mà không có lí do chính đáng; lâm
vào tình trạng nợ nần hoặc chịu những món nợ vượt quá 1/2 giá trị tài sản
12 Nguyễn Hồng Hải , Vài nét về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Thái Lan, Tạp chí
Luật học số
6 năm 1997, tr. 42 - 45.
13 Xem điều 1474 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.
14 Xem điều 1488 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.
- 12 -
chung; cản trở vợ hoặc chồng mình trong việc quản lí tài sản chung mà không
có lí do chính đáng15.
 Một bên vợ hoặc chồng bị tuyên bố phá sản.16
 Một bên vợ hoặc chồng bị tuyên mất năng lực hành vi và người
kia bị coi là không thích hợp để làm người giám hộ và do đó bố hoặc của
người đó hoặc một người ngoài được chỉ định làm người giám hộ thì người
giám hộ đó sẽ trở thành người đồng quản lí tài sản chung với người kia.
Trong trường hợp này, vợ hoặc chồng của người bị mất năng lực hành vi có

quyền yêu cầu tòa án chia tài sản chung nếu có tình huống quan trọng gây
nguy hại cho họ17
Sau khi chia tài sản chung thì phần tài sản chia cho mỗi bên cợ chồng trở
thành tài sản riêng của họ. Bất cứ tài sản nào mà vợ hoặc chồng có được sau
khi chia sẽ là tài sản riêng của người đó và không được coi là tài sản chung.
Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung trở thành tài sản
riêng chia đều cho mỗi bên. Hoa lợi thu được từ tài sản riêng của người nào
thuộc sở hữu của người đó18.
Chế độ tài sản chung chỉ được tòa án cho phục hồi khi có yêu cầu của
vợ, chồng và khi các lí do chia tài sản chung đã hết.
1.3.2. Một loại hậu hôn ước (postnuptial agreement) ở Hoa Kì19
Ở Hoa Kì chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản ước định, luật
pháp chỉ can thiệp vào việc qui định tài sản của vợ chồng khi họ không lập
hôn ước hay còn gọi là khế ước tiền hôn nhân (prenuptial agreement) và việc
qui định về tài sản của vợ chồng ở mỗi bang lại có sự khác nhau. Tuy nhiên
pháp luật Hoa Kì cũng cho phép các cặp vợ chồng được lập hậu hôn ước
(postnuptial agreement) một loại khế ước được lập sau khi kết hôn nhưng
trước khi li hôn để qui định về quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng.
15 Xem điều 1484 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.
16 Xem điều 1491 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.
17 Xem điều 1598: 1598/17 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.
18 Xem điều 1492 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.
6
19Dr. Ronald B. Standler, Prenuptial and postnuptial contract law in the USA, page 18.
- 13 -
Có ba kiểu hậu hôn ước:
 Hậu hôn ước qui ước về tài sản của vợ chồng khi xảy ra cái chết của
một người, như vậy thì người còn sống sẽ không phải nhận tài sản từ di chúc
hay từ qui định của pháp luật về thừa kế.
 Hậu hôn ước qui ước về những tranh chấp khi li hôn và tránh việc

phải theo sự phân xử của tòa án bằng việc qui định rõ về việc chia tài sản, về
quyền nuôi con, về việc cấp dưỡng. Hậu hôn ước loại này được bao gồm với
bản án li hôn của tòa án.
 Hậu hôn ước qui định về quyền lợi về tài sản trong thời kì hôn nhân
bao gồm: qui định về việc giới hạn hay từ bỏ việc cấp dưỡng; đặt khối tài sản
có được trong suốt thời kì hôn nhân trong tình trạng riêng biệt.
Như vậy có thể nói kiểu hậu hôn ước thứ ba cũng là một hình thức chia
tài sản chung trong thời kì hôn nhân, hậu hôn ước này phải được lập thành
văn bản có chữ kí của cả hai vợ chồng, giá trị của hậu hôn ước chỉ được công
nhận khi tài sản riêng của nhau được các bên biết rõ, không có sự hăm dọa,
gian dối hay cưỡng bức trong việc lập hôn ước. Sau khi lập hậu hôn ước, chế
độ tài sản của vợ chồng là chế độ biệt sản.
1.3.3. Qui ước về tài sản trong luật Hôn nhân của Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa ( sửa đổi năm 2001)20
Quyền sở hữu của vợ chồng ở Trung Quốc được điều chỉnh theo phương
thức qui ước của vợ chồng song song với những qui định của pháp luật:
Theo qui định của điều 17 Luật Hôn nhân của Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa (sửa đổi năm 2001) thì:
“Trong thời gian còn duy trì quan hệ hôn nhân những tài sản dưới đây
thuộc về sở hữu chung của hai vợ chồng
1. Lương, tiền thưởng
2. Lợi nhuận từ sản xuất và kinh doanh
3. Lợi nhuận từ quyền sở hữu tài sản trí thức
20 Xem
- 14 -
4. Tài sản có được nhờ thừa kế, hiến tặng nhưng ngoài quy định tại
điều 18 chương 3 của luật này
5. Những tài sản khác mà cần thuộc về sở hữu chung.
Đối với những tài sản thuộc sở hữu chung, hai vợ chồng bình đẳng về
quyền xử lí”.

Tuy nhiên Luật Hôn nhân (sửa đổi năm 2001) có qui định cho vợ chồng
qui ước để những tài sản trên không còn là tài sản chung nữa. Theo điều 19:
“Hai vợ chồng có thể qui ước những tài sản có được trong thời gian
quan hệ hôn nhân còn duy trì và những tài sản trước hôn nhân thuộc về sở
hữu cá nhân, sở hữu chung hoặc sở hữu cá nhân bộ phận, sở hữu chung bộ
phận.
7
Qui ước được ghi lại bằng văn bản. Nếu không có quy ước hoặc quy ước
không rõ ràng, áp dụng thích hợp theo qui định của điều 17 và 18 luật này.
Qui ước về những tài sản có được trong thời gian quan hệ hôn nhân
đang được duy trì và những tài sản trước hôn nhân, có sức ràng buộc đối với
cả hai phía”.
Theo qui định đó thì vợ chồng hoàn toàn có thể thương lượng với nhau
về vấn đề tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. Việc qui ước này phải
được lập thành văn bản, văn bản này có thể được công chứng21. Nếu không có
bản thỏa thuận này hoặc bản thỏa thuận này không rõ ràng thì mới áp dụng
thích hợp theo điều 17 và điều 18 (qui định về tài sản chung và tài sản riêng
của vợ chồng) 22.
21 Điều 11 luật Công chứng của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có qui định về cơ cấu công chứng
việc phân
chia tài sản.
22 Điều 18: Với một trong những tình hình dưới đây, tài sản thuộc về một bên vợ hoặc chồng:
1, tài sản của một bên trước hôn nhân
2, một bên vì thân thể có thương tích có được phí chữa trị, phí trợ cấp cuộc sống của người tàn
tật.
3, những tài sản mà trong di chúc hoặc văn bản hiến tặng xác định là chỉ thuộc về một bên vợ
hoặc
chồng.
4, những nhu yếu phẩm chuyên dùng của một bên
5, những tài sản khác mà cần thuộc về một bên.

- 15 -
Chương 2
QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHIA TÀI SẢN
CHUNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN
2.1. TÀI SẢN CHIA
Tài sản để chia phải là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng.
2.1.1. Tài sản chung theo qui định của pháp luật
Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 qui định
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp
pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng
thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi
kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp
luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở
8
hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ,
chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài
sản chung”.
Theo qui định này thì tài sản chung của vợ chồng bao gồm: các tài sản
do vợ chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân; các tài sản có được do thu nhập
hợp pháp trong thời kì hôn nhân; các tài sản do được thừa kế chung, tặng cho
chung; các tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
- 16 -

 Thu nhập hợp pháp của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân
 Các thu nhập có tính ổn định
Thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kì hôn nhân trước hết phải
kể đến các khoản thu nhập có tính chất ổn định của vợ, chồng như lương, lợi
nhuận do hoạt động kinh doanh mang lại, hoa lợi lợi tức có tính chất ổn định
như tiền do bán cây ăn quả lâu năm, tiền cho thuê nhà…Những thu nhập này
thường là nguồn thu nhập chính, ổn định để đảm bảo cho cuộc sống chung
của gia đình. Theo điều 233 Bộ luật Dân sự thì người lao động, người tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh có quyền sở hữu đối với tài sản tạo ra
đó23, nhưng theo Luật Hôn nhân và Gia đình thì tài sản đó được qui định là
thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Theo điều 235 Bộ luật Dân sự thì “chủ sở
hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức theo thoả
thuận hoặc theo quy định của pháp luật, kể từ thời điểm thu được hoa lợi, lợi
tức đó” như vậy có thể thấy nếu tài sản gốc là tài sản chung thì hoa lợi lợi tức
tất nhiên sẽ thuộc tài sản chung của vợ chồng, nhưng nếu tài sản gốc là tài sản
riêng của một người thì hoa lợi lợi tức phát sinh trong trường hợp này cũng
thuộc khối tài sản chung theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
 Các thu nhập có tính chất bất thường
Một số thu nhập có tính chất bất thường, sự phát sinh ra nó là bất thường
hoặc có thể là bất ngờ với chủ sở hữu. Các thu nhập này có thể là do trúng xổ
số, trúng thưởng, được hưởng các loại khuyến mại bất ngờ, hoặc cũng có thể
là lợi tức bất thường: cổ phiếu đột ngột lên giá... Trong các trường hợp này
chỉ cần quyền sở hữu đối với chủ sở hữu (vợ hoặc chồng hoặc cả hai) được
xác lập thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Ví dụ một người mua xổ số
trước ngày kết hôn, sau khi kết hôn thì có kết quả và trúng số độc đắc, số tiền
thưởng sẽ là tài sản chung của vợ chồng.
23 Đ i ều 233. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có được do lao động, do hoạt động sản xuất,
kinh doanh
hợp pháp
Người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp có quyền sở hữu đối

với tài sản do
lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, kể từ thời điểm có được tài sản đó.
- 17 -
 Tài sản được tạo ra trong thời kì hôn nhân
9
Tài sản tạo ra trong thời kì hôn nhân có thể thuộc một trong các trường
hợp sau24:
 Tài sản tạo ra do trộn lẫn, sáp nhập, chế biến (các điều 236, 237,
238 Bộ luật Dân sự)
Trong trường hợp này nếu tất cả các tài sản được đem sáp nhập trộn lẫn
chế biến là tài sản chung thì đương nhiên quyền sở hữu được xác lập theo qui
định của pháp luật theo các điều 236, 237, 238 đối với vật mới là sở hữu
chung của vợ chồng.
Trong trường hợp tất cả tài sản được đem trộn lẫn, sáp nhập, chế biến là
tài sản riêng thì tài sản mới tạo ra cũng thuộc khối tài sản chung của vợ
chồng. Bởi đó là tài sản mới là tài sản được tạo ra trong thời kì hôn nhân.
Trong trường hợp tài sản chung hoặc tài sản riêng của vợ chồng được
đem sáp nhập trộn lẫn chế biến với tài sản của người khác để tạo thành tài sản
mới thì phần quyền sở hữu với tài sản mới thuộc sở hữu chung của vợ chồng
theo qui định của các điều 236, 237, 238.
 Tài sản có được do xác lập quyền sở hữu theo các điều từ 239 đến
244 và điều 247, 246 Bộ luật Dân sự
Trường hợp này bao gồm các tài sản có được do nhặt được vật do người
khác đánh rơi, bỏ quên, nhặt được vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở
hữu, đào được vật bị chôn giấu, tìm thấy vật bị chìm đắm, bắt được gia súc,
gia cầm bị thất lạc, các trường hợp được xác lập quyền sở hữu với vật nuôi
dưới nước, tài sản có được do xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, tài sản có
được do phán quyết của các cơ quan có thẩm quyền.
Có lẽ theo tinh thần của điều luật và mục đích của việc qui định tài sản
chung thì chỉ cần tài sản được xác lập quyền sở hữu vào thời kì hôn nhân thì

đã thuộc tài sản chung, các trường hợp đào được, nhặt được… có thể coi như
là một trường hợp của thu nhập bất thường của vợ chồng. Đối với các trường
24 Cách chia giữa tài sản tạo ra và thu nhập hợp pháp trong thời kì hôn nhân chỉ là tương đối, và
đây chỉ là
cách chia của người viết, trong Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 thì các tài
sản này được
coi là thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng.
- 18 -
hợp này, chỉ cần quyền sở hữu thuộc về một trong hai người trong thời kì hôn
nhân thì đó đương nhiên là tài sản chung.
Ví dụ 1: Một người bắt được một con bò bị lạc, sau khi đã báo cho ủy
ban nhân dân xã nơi cư trú để thông báo rộng rãi cho chủ sở hữu biết mà nhận
lại. Ba tháng sau người đó kết hôn, ba tháng sau nữa là hết thời hạn sáu tháng
không có ai đến nhận bò, con bò là tài sản chung của vợ chồng.25
Ví dụ 2: Một người mua một bức tượng bằng vàng chiếm hữu công khai,
liên tục, nhưng không biết đó là đồ ăn trộm, 9 năm sau người đó kết hôn, một
năm sau khi kết hôn, bức tượng bằng vàng sẽ thuộc sở hữu chung của vợ
chồng chứ không phải là tài sản riêng của một người như trong trường hợp nó
10
không phải là đồ ăn trộm26.
 Tài sản có được theo thỏa thuận dưới dạng các hợp đồng, mua bán,
vay mượn… đối với các chủ sở hữu khác
Với các trường hợp này, dù tiền dùng để mua, tài sản dùng để trao đổi,
tài sản dùng để thế chấp cầm cố... là tài sản riêng hay chung thì những tài sản
mua được, đổi được, vay được....có được thông qua sự thỏa thuận này cũng
thuộc khối tài sản chung. Theo qui định pháp luật thì việc định đoạt tài sản
chung của vợ chồng theo nguyên tắc thỏa thuận, dễ nhận thấy một điều như
sau: một căn nhà thuộc sở hữu riêng của anh chồng, trong trường hợp nó
không phải là có giá trị lớn so với tổng số tài sản của hai vợ chồng, anh chồng
có thể tự do định đoạt, có thể cho, tặng bất cứ ai tùy ý, vì đó là tài sản riêng

của anh ta, nhưng khi bán đi thì lại không thể tự do cho ai đó chính số tiền
bán nhà vì số tiền đó lúc này đã là tài sản chung của vợ chồng. Thậm chí do
luật chỉ qui định là tài sản tạo ra trong thời kì hôn nhân nên “trong trường hợp
vợ hoặc chồng giao kết hợp đồng mua tài sản và đã trả tiền trước khi kết hôn,
nhưng quyền sở hữu đối với tài sản chỉ được chuyển cho người mua sau khi
kết hôn thì tài sản mua được cũng là tài sản chung”27. Ví dụ một người mua
một căn nhà trước khi cưới, đã trả tiền đầy đủ, chỉ chưa làm giấy chứng nhận
25 Xem điều 242 Bộ Luật dân sự năm 2005: Xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc.
26 Điều 247 Bộ Luật dân sự năm 2005: Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
27 Khoa Luật trường Đại học Cần Thơ, Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình, tập 2, tr.15
- 19 -
quyền sở hữu nhà, sau khi kết hôn căn nhà mới chính thức thuộc quyền sở
hữu của người đó, khi đó căn nhà là tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy ta nhận thấy bất cứ tài sản nào hợp pháp tạo ra trong thời kì
hôn nhân cũng thuộc khối tài sản chung, bất kể nguồn gốc, cách thức để tạo
ra nó.
 Các tài sản do được thừa kế chung, tặng cho chung
 Thừa kế chung
Theo căn cứ xác lập quyền sở hữu do được thừa kế và các qui định về
thừa kế thì nếu người có di sản thừa kế chỉ rõ trong di chúc là để lại tài sản
thừa kế cho cả hai vợ chồng thừa kế chung thì đó mới được coi là tài sản
thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Nếu là thừa kế theo di chúc mà người thừa
kế theo di chúc chỉ là một người hoặc thừa kế theo pháp luật mà chỉ có một
người được hưởng thừa kế thì đương nhiên tài sản thừa kế là tài sản riêng của
vợ hoặc chồng. Nếu di chúc chỉ rõ là cho cả hai vợ chồng được thừa kế tài sản
nhưng lại chỉ rõ phần quyền của mỗi người thì tài sản đó thuộc sở hữu chung
theo phần của hai người theo qui định của Bộ luật Dân sự (không phải là sở
hữu chung hợp nhất của vợ chồng). Nếu hai người được thừa kế theo pháp
luật (trường hợp cha mẹ được thừa kế tài sản của con, hoặc trường hợp con đẻ
kết hôn với con nuôi, con nuôi kết hôn với con nuôi được thừa kế tài sản của

cha mẹ...) thì tùy từng trường hợp có thể coi đây tài sản riêng của mỗi người,
hoặc tài sản thuộc sở hữu chung theo phần dân sự của hai người, chứ không
11
thể coi là thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.
 Tặng cho chung
Cũng như trường hợp thừa kế, nếu như người có tài sản tặng cho thể
hiện rõ là tặng cho chung vợ chồng mà không hề phân biệt phần quyền của
mỗi người đối với tài sản tặng cho thì tài sản đó mới được coi là sở hữu chung
hợp nhất của vợ chồng.
 Các tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung
Do tôn trọng ý chí của vợ chồng, xuất phát từ thực tế cuộc sống là cần
phải có tài sản chung để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, xuất phát từ sự gắn
bó tình cảm vợ chồng, từ quan niệm không phân biệt “của anh của tôi” vợ
- 20 -
chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung và
Luật Hôn nhân và Gia đình cũng qui định nó là tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản chung do thỏa thuận này có thể là tài sản riêng có được trước khi kết
hôn, cũng có thể là tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng, cũng có thể là
tài sản riêng do chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Với những tài sản là
là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn hoặc những tài
sản là tài sản riêng do chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân thì việc thỏa
thuận này phải được lập thành văn bản, có chữ kí của cả vợ và chồng, một số
trường hợp pháp luật qui định thì văn bản đó phải được công chứng chứng
thực. Việc thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung nhằm trốn tránh các
nghĩa vụ về tài sản thì sẽ bị vô hiệu.28
 Một số trường hợp đặc biệt
 Quyền sử dụng đất có được trong thời kì hôn nhân
Theo khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2002, “Quyền sử
dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa

kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận”. Thực ra theo luật
thì qui định về quyền sử dụng đất không có gì đặc biệt hơn so với qui định về
các tài sản khác. Cũng có thể nói là việc qui định riêng về quyền sử dụng đất
này không cần thiết nếu như quyền sử dụng đất tự bản thân nó không có
những điểm đặc thù và tầm quan trọng nhất định. Quyền sử dụng đất là một
loại quyền dân sự đặc thù, là loại quyền phụ thuộc, chịu sự chi phối bởi quyền
độc lập là quyền sở hữu toàn dân của đất đai, vợ chồng chỉ có quyền được
quyền tài sản này khi được nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất.29 Việc qui
định riêng về quyền sử dụng đất có lẽ chỉ để làm rõ về chế độ pháp lí của loại
tài sản này trong quan hệ vợ chồng.
28Xem điều 9 và điều 13 Nghị định 70/2001/NĐ - CP ngày 3/10/2001.
29Nguyễn Hồng Hải, Xác định tài sản của vợ chồng một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Trường
Đại học Luật
Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ luật học, năm 2002, tr. 40.
- 21 -
 Tài sản có được do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
12
Các trường hợp tài sản có được là tài sản do được bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong các trường hợp tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của vợ hoặc chồng hoặc cả
hai bị xâm phạm có phải là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng không?
Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì tài sản riêng của vợ
chồng bao gồm những tài sản tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài
sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản
được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định về chia tài sản chung trong thời
kì hôn nhân; đồ dùng, tư trang cá nhân30. Như vậy theo qui định này thì tài
sản có được do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải là tài
sản riêng. Chính vì thế mà chỉ còn cách xác định nó là tài sản chung của vợ
chồng. Tuy nhiên về mặt thực tế nếu tài sản bị xâm phạm thì khoản tiền bồi
thường có thể được coi là tài sản chung (điều này cũng hợp lí bởi ngay cả khi

bán tài sản để mua tài sản mới thì tài sản mới cũng thuộc tài sản chung); nếu
khoản tiền bồi thường là để bù đắp cho thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm
sút do bị thiệt hại về sức khỏe thì đó rõ ràng là tài sản chung giống như thu
nhập hợp pháp vậy; nếu như trong trường hợp khoản tiền bồi thường là để lo
cho chi phí thuốc thang… thì đó cũng có thể coi là tài sản chung bởi thực tế
thì khối tài sản chung phải ứng trước để lo chi trả cho thuốc thang và bởi vì
cũng có thể coi đây là nhu cầu thiết yếu của gia đình; tuy nhiên trường hợp
khoản tiền bồi thường là để bù đắp cho nhân phẩm, danh dự bị xâm phạm thì
sao? Theo đúng qui định của luật thì nó là tài sản chung, nhưng lí giải nó như
thế nào? Có lẽ chỉ còn cách lí giải duy nhất là khi vợ chồng gắn bó với nhau
thì coi nhau như một, mọi sự tổn hại về tinh thần của người này cũng là tổn
hại về tinh thần, danh dự của người kia, nên tài sản bồi thường là tài sản
chung.
 Tài sản trí tuệ
Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì tất cả các tài sản, thu
nhập hợp pháp được tạo ra trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung của vợ
30 Xem khoản 1 điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
- 22 -
chồng. Tuy nhiên với tài sản trí tuệ thì lại khác mặc dù nó cũng là một loại tài
sản dưới dạng quyền tài sản. Tài sản trí tuệ là một loại tài sản vô hình, người
ta chỉ có thể thể hiện quyền sở hữu với nó thông qua các quyền tài sản. Quyền
sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công
nghiệp, quyền sở hữu đối với giống cây trồng31 trong đó có các quyền tài sản.
Các chủ sở hữu đối với ba loại quyền trên đã được chỉ rõ trong Luật Sở hữu
trí tuệ. Cụ thể: chủ sở hữu quyền tác giả chỉ bao gồm tác giả (người trực tiếp
sáng tạo ra tác phẩm), đồng tác giả, tổ chức cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả
hoặc kí kết hợp đồng với tác giả, người thừa kế; người được tác giả trao
quyền theo hợp đồng, Nhà nước32; chủ sở hữu quyền liên quan chỉ có thể là
những cá nhân, tổ chức đã được qui định cụ thể trong điều 44 Luật Sở hữu trí
tuệ; chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp đã được qui định rõ trong điều

13
121 Luật Sở hữu trí tuệ... Như vậy, theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật
chuyên ngành là Luật Sở hữu trí tuệ thì vợ hoặc chồng của chủ sở hữu đối với
các quyền sở hữu trí tuệ không mặc nhiên là chủ sở hữu của các tài sản trí
tuệ, chính vì thế mà họ hoàn toàn không thể tham gia cùng với vợ (chồng)
mình định đoạt, sử dụng tài sản trí tuệ đó, người sử dụng tài sản trí tuệ cũng
không phải xin phép cả hai vợ chồng khi sử dụng tài sản trí tuệ theo qui định
của luật. Chỉ có nhuận bút, thù lao, và các quyền lợi vật chất khác là thuộc sở
hữu chung của vợ chồng vì đây là thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời
kì hôn nhân.
2.1.2. Nguyên tắc của việc qui định tài sản chung
Theo nguyên tắc của luật dân sự thì quyền sở hữu chung được xác lập
trên cơ sở thỏa thuận của các chủ sở hữu hoặc qui định của pháp luật hoặc
theo tập quán.
Theo những phân tích ở phần trên (2.1.1) ta thấy tài sản chung của vợ
chồng được xác định theo các nguyên tắc sau:
31 Xem khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
32 Xem điều 13 và các điều từ 37 đến 42 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
- 23 -
Các căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng hoàn toàn tuân theo qui
định của pháp luật33. Tuy nhiên tài sản chung của vợ chồng cũng được xác
định theo hai phương thức đối với những tài sản có nguồn gốc khác nhau.
Theo phương thức bắt buộc đối với những tài sản là tài sản tạo ra trong thời kì
hôn nhân, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác; theo phương thức tôn trọng ý chí của người có tài sản:
đối với những tài sản mà chủ sở hữu đã chỉ rõ là cho vợ chồng thừa kế chung
hoặc đã chỉ rõ là tặng cho chung hai vợ chồng thì đó là tài sản chung của vợ
chồng, tôn trọng ý chỉ của vợ, chồng nên những tài sản nào vợ chồng thỏa
thuận là tài sản chung nó cũng thuộc khối tài sản chung.
Theo qui định của pháp luật thì có vẻ như những tài sản nào có được

trong thời kì hôn nhân mà phải đền bù thì đều coi là tài sản chung. Có lẽ là
do tính cộng đồng của hôn nhân nên mọi thứ của hai vợ chồng lúc đó đều là
của nhau. Chính vì vậy mọi thứ vợ chồng bỏ ra trong thời kì hôn nhân đều
được coi là của chung, và thứ có được nhờ nó cũng phải được coi là của
chung. Vậy nên lương, tiền thưởng, lợi nhuận do sản xuất kinh doanh và các
thu nhập hợp pháp khác trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung.
Những tài sản nào mà không đủ chứng cứ chứng minh là tài sản riêng
thì là tài sản chung. Nguyên tắc này được ghi nhận trong khoản 3 điều 27
Luật Hôn nhân và Gia đình 2000. Theo các qui định của luật thì ta thấy khối
tài sản chung bao giờ cũng có xu hướng thu hút các khối tài sản khác. Chính
vì thế mà tất cả những tài sản nào không đủ chứng cứ là tài sản riêng thì đều
được coi là tài sản chung của vợ chồng.
Tất cả những điều trên là “do tính cộng đồng của hôn nhân và mục đích
của quan hệ vợ chồng được xác lập, khi dự liệu chế độ tài sản giữa vợ chồng,
14
Luật Hôn nhân và Gia đình đã thực hiện cách thức điều chỉnh đặc biệt để qui
định về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng; những đặc điểm riêng biệt
33 Xem thêm về “Nội dung các loại chế độ tài sản của vợ chòng trong pháp luật” - TS. Nguyễn
Văn Cừ , Chế
độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, phần IV chương I,
NXB Tư
pháp,2008.
- 24 -
của sở hữu chung hợp nhất giữa vợ chồng, tài sản chung của vợ chồng không
nhất thiết phải do hai vợ chồng tạo ra một cách trực tiếp, chỉ cần vợ, chồng
tạo ra được trong thời kì hôn nhân; không xác định được tỉ lệ (kỉ phần) từ
trước của vợ, chồng đối với tài sản chung; đặc biệt, vợ, chồng bình đẳng khi
thực hiện quyền sở hữu, không phụ thuộc vào công sức đóng góp của mỗi bên
vợ, chồng trong quá trình tạo lập tài sản chung...”34
2.2. NGƯỜI YÊU CẦU CHIA

Theo qui định của Bộ luật Dân sự thì tài sản chung được chia theo yêu
cầu của chủ sở hữu chung hoặc theo yêu cầu của người có quyền yêu cầu một
trong các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ với mình mà người đó không
có tài sản riêng35. Việc yêu cầu được chia tài sản chung của chủ sở chung
không cần có lí do chính đáng.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là một
trường hợp của chia tài sản thuộc sở hữu chung. Theo qui định của Luật Hôn
nhân và Gia đình thì tài sản chung chỉ được chia khi có lí do chính đáng và
theo thỏa thuận của vợ chồng (khi vợ chồng không thỏa thuận được thì mới
yêu cầu tòa án chia).
Theo đó người yêu cầu chia tài sản chung là vợ hoặc chồng hoặc cả hai
khi có lí do chính đáng.
Trường hợp người thứ ba yêu cầu chia không được qui định trong Luật
Hôn nhân và Gia đình, tuy nhiên theo qui định về việc áp dụng Bộ luật Dân
sự trong trường hợp Luật Hôn nhân và Gia đình không có qui định36 thì có
thêm một người có quyền yêu cầu là người mà vợ hoặc chồng có nghĩa vụ
riêng với họ. Hơn nữa một trong các lí do được coi là chính đáng để chia tài
sản chung là chia để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng nên có thể hiểu quyền
yêu cầu của người thứ ba vẫn tồn tại trong khi người thứ ba chỉ thực hiện
34 TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế .`u273 .ộ tài sản vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình
Việt Nam, NXB Tư
pháp 2008, tr. 232.
35 Xem điều 224 Bộ luật Dân sự năm 2005.
36 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
- 25 -
quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ với một người, còn vợ chồng họ tự nguyện
chia tài sản chung để thanh toán. Tuy nhiên theo người viết, thường thì tài sản
chung này được chia do vợ chồng tự nguyện chỉ nhằm để trốn tránh hay trì
15
hoãn việc thực hiện nghĩa vụ với người kia, còn nếu bình thường khi vợ

chồng không hề có mâu thuẫn gì thì chắc họ sẽ tự nguyện dùng khối tài sản
chung để thanh toán chứ không chia tài sản chung. Theo người viết thì cơ chế
để thực hiện quyền yêu cầu của người thứ ba như sau: người thứ ba có quyền
yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ với mình, thậm chí được kê
biên tài sản riêng của người đó; nếu tài sản riêng không đủ thì người này có
thể yêu cầu vợ chồng bằng cách nào đó để có tài sản thực hiện nghĩa vụ đối
với mình; nếu không được thì người này có quyền yêu cầu vợ chồng thỏa
thuận chia tài sản chung để người kia có tài sản thanh toán cho mình, thậm chí
được tham gia vào việc chia tài sản chung đó; nếu cả ba người không thể thỏa
thuận được thì người thứ ba này có quyền yêu cầu tòa án chia tài sản chung
của vợ chồng họ để một người có tài sản thực hiện nghĩa vụ với mình37.
2.3. ĐIỀU KIỆN CHIA
Theo qui định của Luật Hôn nhân và Gia đình thì điều kiện để có thể
chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là phải có lí do chính đáng, hiện tại
luật đã dự liệu hai trường hợp cụ thể được coi là có lí do chính đáng đó là
trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng và trường hợp vợ chồng thực
hiện nghĩa vụ dân sự riêng, ngoài ra luật vẫn để dự trù các trường hợp có lí do
chính đáng khác.
2.3.1. Đầu tư kinh doanh riêng
Đầu tư kinh doanh riêng là khái niệm tương đối rộng và tương đối khó
xác định, theo người viết thì hoạt động đầu tư kinh doanh riêng là hoạt động
nhằm sinh lợi, do một người (vợ hoặc chồng) bỏ vốn ra để thực hiện một
37 Có ý kiến cho rằng trong trường hợp này quyền khởi kiện của người thứ ba không được thừa
nhận. ThS.
Nguyễn Hồng Hải, Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo
pháp Luật Hôn
nhân và Gia đình hiện hành, Tạp chí Luật học số 5 năm 2003, tr. 26-29
- 26 -
trong các công đoạn của quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung cấp dịch vụ trên thị trường38.

Việc đầu tư kinh doanh được coi là một lí do chính đáng bởi để thực
hiện hoạt động đầu tư kinh doanh thì chắc chắn cần phải có một khối tài sản
thuộc sở hữu của người đầu tư để giao dịch. Việc tài sản đem đầu tư là tài sản
thuộc sở hữu chung sẽ gây nhiều phức tạp cho việc thực hiện giao dịch, bởi
việc định đoạt tài sản đó cần có sự thỏa thuận của các đồng sở hữu chủ, nếu
như người kia không quan tâm đến việc kinh doanh hoặc thậm chí phản đối
việc kinh doanh đó thì việc thỏa thuận sẽ rất mất thời gian, thậm chí rắc rối và
khó thực hiện trong khi hoạt động kinh doanh thì cần phải nhanh chóng để
“chớp thời cơ”. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh
nhằm phát triển kinh tế gia đình và đất nước, Luật Hôn nhân và Gia đình qui
định rằng đây là một lí do chính đáng để vợ chồng có thể chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân. Hơn nữa, nhiều hoạt động kinh doanh cũng được coi
16

×