Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THUẦN HÓA VÀ NHÂN GIỐNG LỢN RỪNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.96 MB, 10 trang )


VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 31 - Tháng 8 - 2011



91

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THUẦN HÓA VÀ NHÂN GIỐNG LỢN RỪNG VIỆT NAM
Võ Văn Sự, Tăng Xuân Lưu, Trần Trương Nguyên, Nguyễn Bảy Dũng và Trịnh Phú Ngọc
Thuộc đề tài: "Nghiên cứu kỹ thuật nhân, nuôi và phát triển một số loài động vật rừng có giá
trị kinh tế: Lợn rừng” 2007-2010
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lợn rừng, một loài vật hoang dã với quần thể khá lớn và phân bố rộng khắp lãnh thổ Âu – Á
(Euasia) đã từ lâu đã bị loài người khai thác làm thực phẩm, sản xuất các vật dụng và săn bắn
du lịch Việc săn bắn sôi động nhất đã từng xẩy ra ở châu Âu và khiến loài này tuyệt chủng
như ở Anh. Bên cạnh các lợi ích, lợn rừng cũng là mối đe dọa đối với đời sống con người, như
phá hoại mùa màng ở Pháp, Trung quốc và tấn công người ở Berlin
Hiện nay người ta không dừng lại việc săn bắn mà còn thành lập trang trại nuôi loài này. Hơn
thế lợn rừng cũng là mặt hàng được nhiều công ty xuất khẩu.
Thịt lợn rừng với các đặc điểm: ít mỡ, mỡ lại ăn không ngán như mỡ lợn “công nghịêp”, ngọt
và thơm, da dày nhưng dòn đã từ lâu được xem là món “khoái khẩu” của thực khách trên cả
thế giới. Ơ Việt nam, ngoài vị ngon đó, nó còn được xem là món ăn “lấy may” (lấy hên) đầu
năm của ở một vài vùng Miền Trung, nên nó là đối tượng được săn bắn khá bừa bãi và cũng
được cảnh báo có nguy cơ tuyệt chủng.
Ý tưởng khai thác lợn rừng – trong đó có việc chăn nuôi - để phục vụ con người ở nước ta
được đề xuất từ năm 1973. Tuy nhiên mãi đến 2001, một nông dân Bình phước mới bước đầu
thành công trong việc này. Đầu tư thấp, dễ nuôi, lợi nhuận cao, nuôi lợn rừng lai đã tạo nên
một sự kiện lớn trong chăn nuôi thời đó. Hàng ngàn con lợn giống Thái lan đã được nhập,
hàng loạt người đã học theo: thuần hóa lợn rừng Việt nam. Tuy nhiên họ đã gặp rất nhiều khó
khăn, thất bại do ”bản chất khó thuần hóa” của lợn rừng và phương pháp tiến hành chưa hợp
lý.


Trong phạm vi đề tài "Nghiên cứu kỹ thuật nhân, nuôi và phát triển một số loài động vật rừng
có giá trị kinh tế: Lợn rừng”, một nội dung được đề ra là: Xây dựng mô hình thử nghiệm nuôi
thuần hoá lợn rừng Việt nam.
KẾT QUẢ
Khảo sát việc nuôi thuần hóa và nhân giống lợn rừng Việt Nam trong dân
Năm 2005 - tại Bắc Hà (Lào cai): Hai con lợn rừng khoảng 20 kg / con, một con què 1 chân
do đánh bẫy giật bằng dây phanh xe đạp, một con lành do bị đánh bẫy hố sập được nuôi cùng
với 2 con lợn đen bản địa vùng đó trong 2 tháng. Chúng được nuôi trong một chuồng lợn cũ,
rộng 4m2, được ngăn làm hai bởi thành tường cao 1,5 m với tường bao cũng cao 1,5 m. Khi
người vào chuồng bắt, con lợn lành đã nhảy phốc gần như theo phương thẳng đứng qua bức
tường ngăn. 2 lợn rừng được bọc trong bao tải và chuyển trên ô tô bán tải về Hà nội (tháng
9/2005). Dọc đường đi, một con đã chết do bị nhốt vào bao tải “xác rắn” vì dãy dụa và quá
nóng, ngạt thở. Con què chân được nuôi tại Hòa lạc đã chết sau một tháng sau đó do chân què
không điều trị cẩn thận.
Năm 2005, một số công nhân ở Công ty giống vật nuôi (Yên bái) đã nuôi hai lợn con lợn rừng
bắt được từ rừng trong một cũi sắt. Thức ăn là cơm nguội trộn với rau lang. (Hình ảnh 4, Phụ
lục). Lợn đã nuôi được 2 tháng. 2 con lợn đó về Viện chăn nuôi (tháng 11/2005). Tại đây lợn
được cho ăn sắn củ khô nhưng chúng đã không ăn và được 1 tuần thì chết đói.

VÕ VĂN SỰ - Kết quả nghiên cứu thuần hóa và nhân giống lợn rừng Việt Nam

92

Tháng 12/2005 dân săn tại Quỳ Châu (Nghệ an) đã nuôi được một con lợn rừng được đánh
bẩy. Thức ăn cho con lợn này là sắn, măng là những thứ mà lợn vùng đó thường ăn. Lợn
được nuôi trong 30 ngày. Sau đó lợn được chuyển về Hà Nội trong một xe bán tải. Lợn đã
chết dọc đường sau 100 km, có lẽ do bị sốc, do tiếng động của xe cộ dọc đường số 1 và xóc.
Rừng Cúc phương (năm 2007): Một vài kỹ thuật viên cũng bắt được một lợn rừng và nuôi
cùng với một con lợn thuộc loại giống lợn đen vùng cao mà người dân tộc thiểu số hay nuôi.
Hai con lợn được nhốt trong một “khuôn viên” cạnh núi đá. Thức ăn là chuối quả, rau xắt,

cám. Thức ăn được ăn sạch hàng ngày, và người chăn nuôi cứ tưởng lợn rừng cũng ăn. Nhưng
thực tế sau khi quan sát mới phát hiện con lợn rừng chịu đói và cuối cùng là chết
Trang trại heo rừng Bảy Dũng (Bình Phước) thành công thuần hóa lợn đực rừng Việt Nam từ
2001sau nhiều đợt, cho biết: “Lợn thường xuyên đổ bệnh. Tiêm thì không loại kim nào chọc
thủng da chúng, mà cho thuốc uống thì rất khó khăn, vì chúng rất dữ tợn và không bao giờ ăn
uống thứ có mùi lạ”.
Đến 2007, ông mua thêm 5 con từ các lái buôn. Tuy nhiên sau đó chết sạch không hiểu vì sao.
Cũng năm này mua thêm 2 con từ Đồng xoài nặng 45 kg với giá 3,8 triệu, 1 con khác 17 kg
với giá 180.000 đồng/kg. Khi mới về hàng ngày lợn được cho ăn 1 bắp ngô, 2-3 quả chuối
trái và đậu. Theo ông cho ăn nhiều đạm lợn dễ chết. Sau 2-3 tháng làm quen, lợn đã ăn được
cám tổng hợp.
Năm 2008, nuôi một nái thuần được 3 tháng, tuy nhiên sau đó con này đã thoát khỏi chuồng
xây và phi qua tường xây cao 2 m đi thẳng.
Ông Trần Trương Nguyên – Công ty động vật quý hiếm Hòa Khánh (Khánh Hòa) bắt đầu
thuần dưỡng lợn rừng từ năm 2006. Ban đầu ông mua được từ các thợ săn Phú Yên 15 con lợn
nặng từ 5-30 kg được đánh bẫy bằng bẫy đĩa hộp với giá 100 – 150 ngàn đồng/kg. Sau 3 tháng
chỉ còn lại 3 con. Số con chết do tiêu chảy là 5 con, một số con mổ ra phát hiện có giun móc,
giun đầu gai Thức ăn chủ yếu cho loại lợn này là chuối quả.
Trại heo rừng ông Nguyễn Văn Chín (Cần giuộc, Long An): năm 2005 mua từ Đắc Lắc và
Vườn quốc gia Cát tiên được 2 lợn đực và 5 lợn cái nặng 8-12 kg/con với giá 160.000
đồng/kg. Đàn lợn này sau đó chết hết. Năm 2006 mua 11 con và đã biết nuôi nên chỉ chết có 1
con.
Tháng 8 năm 2007, đàn lợn của ông có 6 cái và 4 đực giống. Con lớn nhất khoảng 80 kg. Đã
đẻ được 3 ổ, 14 con. Đã bán đi 10 con 2 tháng tuổi khoảng 5-6 kg. Đẻ ra cho bú, tập ăn cám
công nghiệp. Cai sữa lợn con lúc 40 ngày tuổi. Lợn được nuôi trong các ô chuồng khỏang 2
m2, nền bằng xi măng và lát gạch. Theo ông có thế mới làm vệ sinh được. Thức ăn là cám
viên và lá cây chè khổng lồ (Gigantea). Lợn hung giữ và khó gần. Mỗi khi người lạ xuất hiện
lợn lồng lên dữ tợn. Năm 2007 bán ra 2 đực giống giá 10 triệu đồng/con). Hiện nay đang ở ổ
dịch. Theo kinh nghiệm của ông, nếu bị tiêu chảy phải truyền nước cho lợn (một người ôm
một người truyền).

Một nông dân ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) để nuôi được một lợn rừng đực đã phải làm cả một
chuồng bằng sắt (Hình ảnh 3, Phụ lục). Người này có thể gọi và sờ mó lợn, nhưng cũng chỉ
giám đứng ngoài chuồng.
Ông Phan Đình Chạng, TP. Quy Nhơn gom lợn rừng mắc bẫy về nuôi. Lợn thường bị hoại tử
một đoạn chân hoặc bị nội thương nặng do bị đánh. Lợn nuôi phản ứng hung dữ hoặc không
thích nghi với môi trường, thức ăn. Sau hơn 30 lần thất bại, và cuối cùng cũng nuôi được 1
con đặt tên là Ut Ịt. Lúc mới mua nặng 7 kg và sau 5 năm đạt 45 kg.


VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 31 - Tháng 8 - 2011



93

Những bài học rút ra qua những trải nghiệm trên là:
Lợn rừng được bắt về thường bị thương ngoại do phản ứng chống trả khi bị săn bắt và vận
chuyển, cũng như mắc bệnh ký sinh. Bệnh viêm phổi phải được điều trị kịp thời.

Trong quá trình thuần hóa bệnh tiêu chảy là mối đe dọa lớn nhất cho sự sống của lợn rừng.
Lợn sẵn sàng nhịn đói chứ không ăn các thức ăn lạ. Cho nên nếu không thể cho các thức ăn
mà nó quen thì cho các loại thức ăn tự nhiên như: sắn, ngô hạt, ngô bắp, chuối chín, mía. Thay
đổi sang thức ăn mới rất từ từ. Ăn quá nhiều đạm đặc biệt từ những thức ăn công nghiệp có
thể gây nguy hiểm.
Khá nhạy cảm với thay đổi môi trường xung quanh và người lạ. Khu chăn nuôi, chuồng trại
cần kiến thiết gần gũi với thiên nhiên, yên tĩnh.
Hung dữ, “liều mạng” nên khi tiếp xúc với lợn rất cẩn thận. Lợn đực rừng hung dữ hơn lợn
cái, nhưng nếu cố “làm thân” thì cũng có thể được.
Và nhìn chung việc thuần hóa rất khó, đòi hỏi sự kiên nhẫn.
Từ những bài học đã được rút ra qua các đợt khảo sát, kinh nghiệm bản thân và dựa vào kiến thức

khoa học, chúng tôi đã áp dụng các phương pháp cảm thấy hữu hiệu nhất từ khâu chọn lợn đến
việc xây chuồng trại và nuôi dưỡng. Hai giai đoạn: nuôi thích nghi và nhân giống được tiến hành
với cách thức khác nhau từ việc kiến thiết chuồng trại đến dinh dưỡng và chăm sóc.
Giai đoạn 1: Nuôi thích nghi
Chọn lợn rừng để nuôi thích nghi
Lợn được chọn về nuôi có nguồn gốc từ vùng núi Bắc bộ đến Nghệ An. Lợn được thợ săn
chuyên nghiệp - được đặt hàng - đánh bẫy hầm sập, bẫy treo, bẫy giật Khi đưa về còn
nguyên tính hung dữ của thú rừng (hung hãn) và còn lành lặn. Nặng khoảng 10-30 kg, không
quá lớn, già vì “bảo thủ” - thích nghi kém, cũng không quá non vì khó nuôi.
Chọn địa điểm, lợn để thuần dưỡng
Trại lợn rừng (TLR) Mỹ Hạnh (Ba Vì - Hà Nội) được chọn làm nơi thích nghi và nhân giống.
Trại nằm gần chân núi Ba Vì trong khuôn viên đất trồng cây ăn quả rộng 0,7 ha và khu
chuồng quây nuôi là 0,2 ha trong có cây bóng mát che phủ tạo bóng râm mát vào mùa hè.
Mùa hè ẩm độ giao động từ 80-95%, mùa xuân có lúc lên đến 100%. Trại đã có kinh nghiệm
nuôi lợn Vân pa (Quảng trị) từ năm 2001. Chủ trại là thạc sỹ chăn nuôi và cũng là thành viên
nhóm thực hiện đề tài.
Chuồng trại nuôi thích nghi
Khu chuồng nuôi thích nghi được đặt trong TLR nói trên cách khu chăn nuôi lợn rừng Thái
lan và Vân pa 100 m, diện tích 50 m
2
. Xung quanh chuồng được bao quanh bởi tường xây
gạch cao 0,4-0,6 m và phía trên tường được gắn lưới B40 cao 1,6-1,8 m. Qua luới sắt và một
vài cửa sổ nhỏ người chăn nuôi có thể quan sát được phía trong. Có cửa ra vào bằng sắt và
chốt an toàn. Mái chuồng được lợp bằng phiproxinang.
Khu chuồng được chia làm 5 ô chuồng và khu vận động chung. Mỗi ô rộng 3-4 m
2
. Diện tích ô
hẹp như thế nhằm dễ dàng bắt lợn lúc cần và cũng như không tạo đà để lợn nhảy ra. Trong mỗi ô
chuồng có máng ăn và máng uống. Tường gạch cao 1,5 m và sau này phía trên tường còn được
gắn thêm lưới sắt B40 cao 1m nhằm chống lợn nhảy. Tất cả ô chuồng đều có cửa sắt.

Nền chuồng bằng xi măng. Nền sân là đất sỏi, cát. Thoát nước tốt và được vệ sinh thường
xuyên. (Xem Hình ảnh 5 và 6, Phụ lục).

VÕ VĂN SỰ - Kết quả nghiên cứu thuần hóa và nhân giống lợn rừng Việt Nam

94

Chuồng được che hơi tối, kín đáo để lợn ít bị strees với các tác động xung quanh. (Vì trong
giai đọan này lợn rất nhạy cảm với tiếng động và dễ lồng lộn.)
Chăm sóc và dinh dưỡng
Lợn mới về được nhốt trong lồng sắt có bề rộng vừa thân đủ để nằm / đứng nhưng không thể
quay khiến nó bị kẹt; và không quá dài để con vật có thể lấy đà húc vào thành lồng tự gây
thương tích một khi bị kích động. Các thành lồng được làm bằng lưới B40, hoặc sắt tròn và
các mắt bé không để cho con vật thò được đầu, chân ra ngoằi. Cả lồng sắt đó được để hẳn
trong ô chuồng (Xem Hình ảnh 1 và 2, Phụ lục).
Đã cử 2 công nhân có kinh nghiệm, kiên nhẫn, có thái độ thân thiện, từ tốn để chăm sóc
chúng, thực hiện đầy đủ các biện pháp đã đưa ra. Họ cũng có trách nhiệm thông báo ngay lại
sự cố để các nhà chuyên môn xử lý.
Ngay khi đưa về lợn đã được điều trị các bệnh: nội ngoại ký sinh trùng, tụ huyết trùng, viêm
phổi, tiêu chảy và rối loạn tiêu hóa.
Hàng ngày người chăn nuôi quan sát tập tính ăn nghỉ, sự lựa chọn thức ăn, thải phân, nước
tiểu và tình trạng phân cũng như nước tiểu thải ra để biết được diễn biến bệnh của lợn.
Thức ăn được dùng: khoai, sắn củ, chuối xanh hoặc chuối chín, măng và ít rau. Chỉ có người
chăn nuôi được sờ tay vào thức ăn.
Khi lợn đã làm quen chúng tôi chuyển dần sang thức ăn của vùng Bavì và dân dã như cơm
nguội + ngô hạt , ngô bắp, ít cám gạo, hạt để lợn làm quen và để lợn ra chơi với nhau ngoài
sân chơi chung. Mùa đông chuồng được che ấm và dùng rơm, rạ hoặc lá chuối để lót ổ cho
chúng để chống rét.
Khẩu phần ăn hàng ngày và việc tiêm phòng và chữa trị trong thời gian đầu khi lợn mới được
đưa từ rừng về ghi trong Bảng 1 và Bảng 2.

Bảng 1. Lựa chọn thức ăn của lợn rừng trong giai đoạn nuôi ban đầu
Số lợn
Tỉ lệ số con tiếp nhận
(%) trong tuần đầu
Tỉ lệ số con tiếp nhận (%)
trong tuần tiếp theo
Chuối xanh 15 100 73,3
Chuối chín 15 100 100
Măng 15 40 0,0
Sắn 15 100 100
Khoai 15 100 53,3
Ngô bắp 15 100 73,3
Ngô hạt 15 100 100
Rau: lang, muống, bèo tây 15 100 80
Mía 15 100 100
Các lo
ại gốc có độ ngọt khác (cỏ voi,
thân ngô cây )
15 100 100
ốc sên, ốc, cua 15 20 0
Thức ăn tập l
àm quen (Cơm, cám các
loại hỗn hợp, đậu tương rang )
15 0,0 20


VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 31 - Tháng 8 - 2011




95

Bảng 2. Bệnh và thuốc thường dùng cho lợn trong giai đoạn đầu thuần hóa
Ngày thứ Bệnh Thuốc thường dùng
1 Vết thương Các loại thuốc thông thường cho lợn: xanh metylen,
cồn iod
7-10 Nội ngoại ký sinh
trùng (giun sán )
Các loại thuốc trị ký sinh trùng thông thường cho lợn
12-15 Tiêu chảy Cloramfenicol, kanamycine
Cách thức: Cho vào nước uống hàng ngày hoặc tiêm
Sau ngày
25
Tụ huyết trùng, lở
mồm long móng, tai
xanh
Sau khi lợn khỏi đi ỉa, mạnh khỏe, ăn uống bình
thường, bắt đầu tiêm các loại vac xin phòng bệnh. Mỗi
lần tiêm cách nhau 5-7 ngày.
Bất kỳ Bệnh viêm phổi Tùy thể viêm mà có thể dùng các loại thuốc đặc trị
viêm phổi cho phù hợp. Liệu trình điều trị thường từ 3-
5 ngày tùy theo nặng nhẹ.
Các loại thuốc thường dùng: Kanamycine,
Oxytetracyclin, Dexametazon, B1, hạ sốt
Tình hình nhiễm bệnh và kết quả điều trị
Trong quá trình thuần dưỡng ban đầu thường thấy xuất hiện các bệnh như trong Bảng 3.
Bảng 3. Các loại bệnh và kết quả điều trị ở đàn lợn mới bắt từ rừng về và nuôi đến 90 ngày tại
TLR Mỹ Hạnh (Ba vì)
Tên bệnh Tổng số con
thuần hóa

Tỉ lệ con
mắc bệnh
(%)
Số ngày và phương thức điều
trị
Tỉ lệ chết
(%)
Vết thương
ngoại
15 100 5-7 ngày, bằng xanh metylen và
kháng sinh ngoài da
0,0
Tiêu chảy
15 100 3-15 ngày. Cho uống lá, quả
chát, kháng sinh thông thường
73,3

Viêm phổi 15 20 3-5 ngày 13,3
Bảng 2 cho thấy tất cả các lợn được đánh bắt từ rừng về đều bị xây xát. Điều trị vết thương
khỏi trong 5-7 ngày đầu, chứng tỏ sức đề kháng của lợn rừng là rất tốt.
100% lợn đưa từ rừng về đều mắc bệnh tiêu chảy thường là từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 14 do
nuôi dưỡng không hợp lý. Và tỉ lệ chết rất cao (73,3%).
Bệnh viêm phổi chiếm 20,0 % do lợn được vận chuyển trong ô tô có máy lạnh, thậm chí có đá
(nước đá) để lợn nằm yên hoặc lợn dễ chịu. Bệnh được điều trị kịp thời nên tỉ lệ chết thấp
(13,3%). Tuy nhiên có đến 6 con bị chết do đã bị bệnh quá nặng (Xem Bảng 4).
Đối với những con bị chết trong quá trình thuần dưỡng chúng tôi tiến hành mổ khám bệnh
tích, còn những con khác thì lấy tiêu bản, mẫu xét nghiệm chuẩn đoán và thu được kết quả
trong Bảng 4.

Vế VN S - Kt qu nghiờn cu thun húa v nhõn ging ln rng Vit Nam


96

Bng 4. Kt qu m khỏm bnh tớch 12 con b cht trong thi k nuụi ban u ti TLR M
Hnh v TLR Hũa Khỏnh.
Tờn bnh S con mc T l (%) C s xột nghim
Nhim giun trũn 12 100 PVTY Nha trang v TTNC bũ
v ng c Ba Vỡ
Nhim giun u gai 4 33,33 PVTY Nha trang
Viờm phi 6 50,0 PVTY Nha trang v TTNC bũ
v ng c Ba Vỡ
Viờm rut 4 33,33
Suy kit sc khe do tiờu
chy
8 66,67
Ký sinh trựng ng mỏu 12 100,0 PVTY Nha trang v TTNC bũ
v ng c Ba Vỡ
Bng trờn cho ta thy 100 % s ln b nhim giun trũn ng rut, thm chớ cú mt loi giun
trũn u gai (Gnathostoma) ó lm thng rut ln chui ra xoang bng. õy l loi giun
thng cú ln vựng cao.
S ln cht ch yu do suy kit sc khe t tiờu chy cng nh cỏc bnh ghộp khỏc
Qua quỏ trỡnh ly mỏu xột nghim v theo dừi cỏc triu chng trờn n ln chỳng tụi thy
100% s ln a t rng v b phỏt bnh ký sinh trựng ng mỏu vi triu chng c trng
l: Ln b tiờu chy phõn nht cú mu nõu en, nhiu g mt, mt trng, niờm mc mt, niờm
mc õm h trng nht, mỏu loóng, mỏu mu en khú ụng, khi ly mỏu pht kớnh soi tiờu bn
trờn kớnh hin vi ó tỡm thy ký sinh trựng ng mỏu, khi iu tr bng thuc c hiu thỡ cho
kt qu cao.
Kt qu nuụi thớch nghi
Kt qu thun dng cho thy ln d b cht do tiờu chy, viờm phi v nu sng qua 90 ngy coi
nh l ó qua cn hon nn (Xem Bng 3). Lợn đực dễ thuần hóa hơn lợn cái, chúng cũng rất

nhanh chóng tiếp xúc và phối giống với các loai lợn mà nó gặp, không phân biệt giống.
Bng 5. Kt qu nuụi sng n 90 ngy
S ln thun húa S sng n 90 ngy T l (%)
15 11 73,33
Khi mi v ln thng gy i trong thi gian u, sau khi cha ht cỏc bnh mi tng trng
tr li. Kt qu theo dừi c ti TLR M Hnh c nờu trong Bng 5.
Bng 6. Kh nng tng trng t lỳc nhp chung n 180 ngy nuụi
Thỏng
0 1 2 3 4 5 6
S con
15 15 15 15 15 12 12
X Sx (kg)
15,71,6 14,51,5 13,91,1

14,21,3 14,41,2

14,41,2

14,81,3
Thp nht
7,5 6,8 5,6 5,6

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 31 - Tháng 8 - 2011



97

Cao nhất
28,0 27,3 25,5 25,6 26,9 27,7 29,2

Thời gian của giai đoạn 1
Giao động từ 4 tháng tới 6 tháng
Giai đoạn 2: Nuôi nhân giống
Kiến thiết chuồng trại
Ô nuôi lợn rừng đã được thích nghi trong giai đoạn đầu được đặt chung trong khuôn viên nuôi
lợn Thái Lan và Vân Pa. Ô này gồm chuồng và sân chơi. Chuồng rộng 1,5 m, dài 2,0 m. Xung
quanh được bao bằng tường gạch cao 0,5 và phần trên được quây bằng lưới B40 cao 1,5 m.
Cửa ra vào cao 0,5 m có chắn song để tách mẹ và con khi cần. Sân chơi có kích thước 3 x 5
m, cũng được bao quanh bằng tường và lưới cao 2 m. Ngoài sân có vòi uống nước hoặc máng
uống được đặt mép ngoài tiếp giáp với phần thoát nước. Máng ăn được che mái. Nền và sân
được đổ xi măng tùy theo điều kiện. Mái các loại là phiproxi măng.
Chăm sóc, nuôi dưỡng
Lợn cái không đẻ được nhốt chung với nhau. Trước lúc đẻ 1 tuần lợn được đưa vào 1 chuồng
riêng tránh lợn khác ăn thịt lợn con mới đẻ.
Lợn sơ sinh 3 ngày được cắt nanh và cho uống kháng thể Ecoli hoặc phòng bệnh tiêu chảy.
Sau 21 ngày lợn được tiêm vắc xin bệnh phó thương hàn, suyễn và dịch tả.
Lợn đực và cái hậu bị được nuôi riêng. Người chăn nuôi túc trực quan sát kỹ để phát hiện
động dục vì không thể hiện rõ như lợn khác. Các biểu hiện động dục mà lợn rừng Việt nam
thường thể hiện là: ăn ít đi, đi lại nhiều, hay đến gần lợn khác và đưa hướng phần mông cho
đối tượng, âm hộ sưng và màu hồng nhạt. Lợn cái được tiếp xúc với lợn đực chiều ngày thứ 2
và sáng ngày thứ 3 động dục. Khi tiếp xúc với lợn đực, nếu lợn cái đứng yên (mê ì) là lúc cho
phối thích hợp.
Công tác thú y: Chuồng trại được tẩy trùng ít nhất là 1 tháng một lần bằng Iodin. Lối ra vào
được rải vôi bột. Lợn được tiêm phòng các loại vắc xin như giai đoạn đầu.
Lợn con thường mắc bệnh ỉa phân trắng sau 10-21 ngày sau đẻ và cũng được chữa bệnh này
như lợn nhà. Lợn được 8-12 kg về mùa đông thường hay mắc bệnh viêm phế quản – phổi và
được điều trị bằng các loại thuốc thông thường như ampixilin + kanamycin kết hợp thuốc tiêu
viêm (như Dexametazon hoặc Suanovin) và trợ lực. Nếu bệnh nặng lợn có thể được điều trị
bằng Cefacilin kết hợp với Kanamycin và thuốc kháng viêm khác.
Kết quả nuôi nhân giống

Sinh sản, sinh trưởng
Số con / ổ: Lứa 1 là 4,0 con /ổ, lứa 2 là 5.0 con và lứa 3 trở đi là 5,5 – 6,5 con/ ổ Mỗi năm đẻ
2 lứa. Tuổi cai sữa: 60-70 ngày.
Khối lượng cơ thể: 5-6 tháng đạt khối lượng từ 6-8kg/con.
Tỉ lệ nuôi sống 75%.
Số lượng
Số lượng đạt được qua các mô hình

VÕ VĂN SỰ - Kết quả nghiên cứu thuần hóa và nhân giống lợn rừng Việt Nam

98

Tổng đàn lợn rừng thuần đến 31/12/2010 ở hai cơ sở là 81 con trong đó cái và đực sinh sản là
20 con, hậu bị 30 con, lợn bé là 31 con
TLR Hòa Khánh Hòa đã bán được 25-30 con/ năm, TLR Mỹ Hạnh hàng năm xuất được 20-25
con giống ra thị trường.
Số lượng lợn được sinh ra qua các mô hình như sau (tính từ 1/6/2007 đến 31/12/2010)
Lợn còn lại
Trại
Số lợn
gốc
Sô đẻ
ra
Thải+
chết
Đã
bán
Bé Hậu bị
Đực, cái Cơ
bản

TLR Mỹ Hạnh (Hà Nội) 15 109 32 43 11 10 8
CT động vật qúy hiếm Hòa
Khánh (Khánh Hòa)
15 117 42 38 20 20 12
Tổng cộng 30 206 74 81 31 30 20

KẾT LUẬN
Các khó khăn trong thuần hóa lợn rừng Việt Nam trong dân khá đa dạng, tuy nhiên nổi trội
nhất là bệnh của lợn: các loại ký sinh đã mắc trong rừng, vết thương ngoại do săn bắt, vận
chuyển, rối loạn tiêu hóa do thay đổi thức ăn và lợn không chịu ăn, viêm phổi, các bệnh khác
như tụ huyết trùng
Chọn con giống, hệ thống nuôi nhốt, chế độ dinh dưỡng, bảo vệ sức khỏe được áp dụng trong
giai đoạn thuần hóa tương đối phù hợp và có thể đảm bảo được 10% số con sống.
Hệ thống nhân giống là phù hợp và đã xây dựng được một đàn lợn Việt Nam thuần.


VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 31 - Tháng 8 - 2011



99

PHỤ LỤC



Hình ảnh 1: Thuần hóa lợn rừng ở TLR Hà
Khánh (Khánh hòa)
Hình ảnh 2: Dẫu bị cụt chân nó vẫn được nuôi
(TLR Hà Khánh, Khánh hòa)



Hình ảnh 3: Ông Hải (Trung tâm, Hương
Sơn, Hà Tĩnh) thuần dưỡng thành công một
lợn đực rừng bẫy được
Hình ảnh 4: Một số công nhân ở Trung tâm
giống vật nuôi Yên bái đã thuần dưỡng thành
công 2 lợn con lợn rừng


Hình 5: Khu thuần hóa lợn rừng ở
TLR Mỹ Hạnh, Ba Vì
Hình 6: Bốn bên phải có tường và lưới cao để
lợn khỏi thoát ra ngoài (TLR Mỹ Hạnh, Ba Vì)


VÕ VĂN SỰ - Kết quả nghiên cứu thuần hóa và nhân giống lợn rừng Việt Nam

100



Hình 7: Cần làm quen với lợn rừng mới về
(TLR Mỹ Hạnh, Ba Vì)
Hình 8: Một ổ lợn rừng được đẻ tại
TLR Mỹ Hạnh (Ba Vì)


Hình 9: Một ổ lợn rừng khác tại
TLR Mỹ Hạnh, Ba Vì.

Hình 10: Đàn lợn rừng hậu bị tại
TLR Mỹ Hạnh, Ba Vì.

`

×