Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

So sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo giữa bò lai Sind và bò lai 1 2 Red Angus nuôi tại Đăk Lăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.56 KB, 14 trang )



So sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo giữa bò lai Sind và bò lai 1/2 Red Angus
nuôi tại Đắk Lắk
Văn Tiến Dũng,
1
Đinh Văn Tuyền2, Nguyễn Tấn Vui
Trường Đại học Tây Nguyên;
1
Viện Chăn nuôi
ABSTRACT
An feedlot experiment using 4 lai Sind (crossbred between Red Sindhy x Yellow cattle) and 4 Red Angus
crosbred (Red Angus x lai Sind) calves, all aged approximately 21 months old at the commence, was conducted in
Dak Lak Province to compare growth rate, feed conversion rate, and carcass characteristics between the two breeds
of cattle. All calves were given the same diet formulated from fresh guinea grass, rice straw, cassava powder,
cottonseeds, urea and premix-vitamin (10.45 Mj ME and 127g protein/kg DM) for 90 days. Results show that
averaged liveweigh gain of pure Brahman calves (1.42 kg/head/day) was significantly higher (P<0.01) than that of
lai Sind animals (0.97 kg/ head/day). Carcass and lean meat percentage of Brahman calves (53.33 and 42.85% of
LW, respectively) were also higher than those parametters of lai Sind calves (49.06 and 40.43% LW, respectively).
However, no difference in Feed Conversion Rate was observed between the two groups (P>0.05), yet the value of
both groups was low (3.9 to 4.5 kg DM/kg LW gain). It was concluded that Brahman calves produced higher
performance than lai Sind animals under such feedlot condition as in this experiment and that FCR of both groups
was low or feed effeciency was high as compared with values reported in the literature.
1. Đặt vấn đề
Cơ cấu đàn bò thịt của nước ta hiện nay vẫn chủ yếu là bò địa phương và bò lai Sind.
Trong tổng đàn bò 6,5 triệu con của cả nước, bò địa phương vẫn chiếm tới 74% và bò lai Sind
khoảng 26% (Cục Chăn nuôi, 2006). Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 được Thủ
tướng chính phủ phê duyệt đưa mục tiêu phát triển đàn bò thịt lên 12,5 triệu con, trong đó bò lai
chiếm trên 50% (Bộ NN&PTNT, 2008). Để góp phần thực hiện mục tiêu này, Bộ Nông nghiệp
và PTNT đã có một số chương trình nghiên cứu cải tiến giống bò thịt, trong đó đề tài “Nghiên
cứu nhân thuần và lai tạo giống bò hướng thịt chất lượng cao ở Việt nam” đã được Viện Chăn


nuôi triển khai từ năm 2006. Đề tài đã thực hiện nội dung phối giống giữa bò cái lai Sind với tinh
bò đực các giống Red Angus, Drought Master và Limousine tại Vĩnh Phúc và Đăk Lăk để đánh
giá khả năng sinh trưởng, phát triển trong các điều kiện nuôi dưỡng khác nhau, từ đó làm cơ sở
cho việc triển khai các dự án nhân giống rộng rãi các giống bò này.
Kết quả theo dõi sinh trưởng phát triển của con lai ½ Red Angus nuôi trong điều kiện tập trung,
bán chăn thả tại Đăk Lăk của Đinh Văn Tuyền và cộng sự (2010) cho thấy bò lai Red Angus có
khả năng sinh trưởng nhanh, có thể đạt khối lượng 178,6 kg lúc 12 tháng tuổi và 330 kg lúc 21
tháng tuổi. So với bòn lai Sind nuôi trong cùng điều kiện thì bò lai ½ Red Angus có tốc độ sinh
trưởng cao hơn với khối lượng cơ thể luôn cao hơn từ 10-32,7% (Đinh Văn Tuyền và cộng sự,
2010).
Trong chăn nuôi bò thịt, vỗ béo là một khâu quan trọng để làm tăng năng suất và chất
lượng thịt. Do đó, sau khi kết thúc nội dung đánh giá khả năng sinh trưởng của con lai này,
chúng tôi đã tiến hành đề tài “So sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo giữa bò lai
Sind và lai ½ Red Angus nuôi tại Đăk Lăk" nhằm mục đích đánh giá đầy đủ hơn khả năng sản


xuất của con lai ½ Red Angus đặc biệt là khả năng cho thịt và chất lượng thịt sau khi vỗ béo so
với con lai Sind nuôi cùng điều kiện.
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Thời gian và địa điểm
Nghiên cứu được tiến hành tại trại chăn nuôi của bà Hoàng Thị Sinh tại xã Eađar huyện
Eakar, tỉnh Đăk Lăk trong khoảng thời gian 90 ngày, từ tháng 9 năm 2009 đến tháng 12 năm
2009.
2.2. Gia súc thí nghiệm
Gia súc được sử dụng cho thí nghiệm này là nhóm bò đực lai Sind và bò đực lai ½ Red
Angus (mỗi nhóm 4 con) đã sử dụng trong nghiên cứu của Đinh Văn Tuyền và cộng sự (2010)
nhằm đánh giá khả năng sinh trưởng của bò nuôi theo hình thức tập trung, bán chăn thả trong
giai đoạn từ sau cai sữa (6 tháng tuổi) đến 21 tháng tuổi. Sau khi kết thúc giai đoạn theo dõi sinh
trưởng trên, bò được nuôi thích nghi, sau đó đưa vào thí nghiệm vỗ béo. Tại thời điểm bắt đầu thí
nghiệm, bò lai Sind có khối lượng trung bình 273,8 kg (SD=28,9) và bò lai Red Angus 379 kg

(SD=26,2).
2.3. Thức ăn và khẩu phần vỗ béo
Khẩu phần vỗ béo được xây dựng từ cỏ ghi nê tươi, rơm khô, bột sắn, hạt bông, urea và
premix khoáng. Khẩu phần được phối hợp để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng và
protein của bò tăng trọng xấp xỉ 1 kg/con/ngày theo tiêu chuẩn của Kearl (1982). Thành phần
hóa học và tỷ lệ các loại nguyên liệu dùng trong khẩu phần được trình bày ở Bảng 1 và Bảng 2.
Bảng 1. Thành phần hóa học của các loại thức ăn sử dụng trong thí nghiệm
(% vật chất khô)
Tên mẫu
Chất khô
Chất hữu

Protein
thô
NDF

ADF

Khoáng
Rơm
88,8
87,2
5,6
80,6
39,6
11,5
Cỏ ghi nê
23,5
89,9
10,6

76,1
34,9
9,1
Hạt bông
86,5
94,8
24,6
51,6
34,7
5,2
Bột sắn
87,3
97,7
3,5
7,1
3,5
2,3
Hỗn hợp tinh
1
87,9
89,9
14,4
21,9
16,3
10,1
1
: Bao gồm bột sắn, hạt bông, urea và premix khoáng
Bảng 2. Tỷ lệ các thành phần nguyên liệu trong khẩu phần thí nghiệm
1
Cỏ ghi nê tươi (%)

17,0
Rơm khô (%)
15,0
Hạt bông
23,0
Bột sắn
43,5


Urea
1,0
Premix khoáng
0,5
Protêin thô (g/100 g DM)
2
127
Năng lượng (Mj ME/kg DM)
2
10,5
1
Tính theo vật chất khô; 2 Giá trị ước tính trước khi phân tích mẫu
Các nguyên liệu thức ăn tinh và bổ sung (hạt bông, bột sắn, urea, premix khoáng) được
trộn với nhau thành hỗn hợp thức ăn tinh. Cách trộn các nguyên liệu trong khẩu phần được tiến
hành theo trình tự sau: các thành phần có hàm lượng thấp trong khẩu phần (urea và khoáng)
được trộn đều với nhau trước, sau đó hỗn hợp này được trộn tiếp với bột sắn rồi cuối cùng trộn
với hạt bông. Hỗn hợp thức ăn này ở dạng khô nên được trộn sẵn theo từng mẻ lớn, mỗi mẻ đủ
để có thể cho ăn trong vòng 1 tuần. Cỏ ghi nê tươi được cắt ngày 2 lần, ngay trước khi cho ăn
còn rơm khô được cho ăn dưới dạng sợi nguyên, không băm chặt.
2.4. Bố trí thí nghiệm vỗ béo
Thí nghiệm được bố trí theo dạng ngẫu nhiên hoàn toàn gồm 2 lô, mỗi lô 4 con. Bò được

nuôi nhốt cá thể và như vậy mỗi lô thí nghiệm sẽ có số n =4. Trước khi bắt đầu thí nghiệm, bò
được tẩy giun sán bằng thuốc Hanmectin của Công ty Hanvet. Sau đó bò được nuôi chuẩn bị 15
ngày để làm quen với khẩu phần thí nghiệm và tiếp đến là 90 ngày nuôi thí nghiệm. Hàng ngày
bò thí nghiệm được cho ăn hai lần vào buổi sáng (bắt đầu lúc 8h) và buổi chiều (lúc 4h) theo
trình tự: 8h cho ăn cỏ tươi, 8h30 cho ăn hỗn hợp thức ăn tinh, 9h30 cho ăn rơm và buổi chiều: 4h
cho ăn cỏ tươi, 4h30 thức ăn tinh, 5h30 cho ăn rơm. Thức ăn thừa của từng loại được thu ngay
sau khi thời gian cho ăn loại thức ăn đó kết thúc, sau đó được cân để xác định khối lượng thừa.
Tổng khối lượng thức ăn cho ăn trong 1 ngày được xác định bằng cách lấy lượng ăn vào của
ngày hôm trước cộng thêm 10%. Khối lượng cơ thể bò tại các thời điểm bắt đầu vỗ béo, sau 1
tháng, sau 2 tháng, và sau 3 tháng (lúc kết thúc thí nghiệm) được xác định bằng cách cân 3 lần
liên tục trong 3 ngày vào buổi sáng trước khi cho ăn. Giá trị trung bình của khối lượng xác định
trong 3 lần được coi là khối lượng chính thức của bò thí nghiệm tại các thời điểm xác định đó.
Tất cả bò thí nghiệm đều được uống nước tự do và chuồng trại được vệ sinh ngày 1 lần. Sơ đồ thí
nghiệm được trình bày ở Bảng 3.
Bảng 3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Chỉ tiêu
Lô I
(Bò lai Sind)
Lô II
(Bò lai 1/2 Red Angus)
Số lượng gia súc (con)
04
04
Thời gian nuôi chuẩn bị (ngày)
15
15
Thời gian nuôi thí nghiệm (ngày)
90
90
Phương thức nuôi dưỡng

Cá thể, cho ăn tự do
Cá thể, cho ăn tự do

2.5. Thí nghiệm xác định tỷ lệ tiêu hóa in vivo của khẩu phần vỗ béo


Thí nghiệm xác định tỷ lệ tiêu hóa in vivo của khẩu phần vỗ béo được tiến hành trong 7
ngày ở giai đoạn cuối của thí nghiệm vỗ béo (23-30/11/2009) theo qui trình hiện đang được Bộ
môn Dinh dưỡng Thức ăn chăn nuôi và Đồng cỏ, Viện Chăn nuôi áp dụng. Trong giai đoạn này,
bò vẫn được cho ăn khẩu phần bình thường và nuôi trên nền chuồng giống như trong giai đoạn
vỗ béo. Tuy nhiên, mẫu thức ăn được lấy hàng ngày và bảo quản lạnh để đến cuối đợt thí nghiệm
trộn đều và lấy mẫu đại diện xác định hàm lượng chất khô, protein, khoáng, NDF và ADF. Tổng
lượng phân thải ra hàng ngày của mỗi cá thể cũng được thu gom, cân và lấy mẫu (10% tổng
lượng phân thu được trong ngày) để bảo quản lạnh. Sau khi kết thúc 7 ngày thu mẫu, các mẫu
phân lấy hàng ngày được trộn đều nhau và sau đó lấy 1 mẫu đại diện để xác định hàm lượng chất
khô và thành phần hóa học tương tự như các mẫu thức ăn cho ăn. Việc thu phân hàng ngày được
tiến hành bởi 4 sinh viên khoa Chăn nuôi thú y trường Đại học Tây Nguyên, trong đó mỗi sinh
viên chịu trách nhiệm theo dõi và thu phân trong 1 ca 6 tiếng.
2.6. Phân tích mẫu
Các nguyên liệu khô gồm bột sắn, hạt bông, urea, premix khoáng và rơm khô được mua 1
lần với khối lượng đảm bảo đủ cho cả đợt thí nghiệm và mẫu của các nguyên liệu này (trừ urea
và premix) được phân tích để xác định các thành phần chất khô, protein thô, khoáng, NDF và
ADF ngay trước khi phối trộn. Sau khi phối trộn, hỗn hợp thức ăn tinh được lấy mẫu 1 lần/tuần
và bảo quản trong thùng kín. Đến khi kết thúc thí nghiệm toàn bộ số mẫu đã lấy được trộn đều và
1 mẫu đại diện được lấy gửi đi phân tích xác định thành phần hóa học. Tương tự mẫu cỏ ghi nê
tươi cũng được lấy 1 lần/tuần và đem sấy ngay để xác định hàm lượng chất khô. Sau đó đến cuối
đợt thí nghiệm các mẫu của mỗi tuần được trộn đều nhau và lấy 1 mẫu đại diện để phân tích xác
định thành phần hóa học. Trừ chỉ tiêu chất khô được xác định tại phòng thí nghiệm của Khoa
chăn nuôi thú y của trường Đại học Tây Nguyên còn lại tất cả các chỉ tiêu phân tích khác đều
được thực hiện tại phòng phân tích thức ăn Viện Chăn nuôi theo các qui trình đã được công

nhận.
2.7. Chỉ tiêu theo dõi và phương pháp xác định
Các chỉ tiêu theo dõi trong thí nghiệm này bao gồm tăng trọng, lượng thức ăn ăn vào,
hiệu quả sử dụng thức ăn, tỷ lệ tiêu hóa của các chất dinh dưỡng trong khẩu phần, tỷ lệ thịt xẻ và
thịt tinh và chi phí tiền thức ăn cho 1 kg tăng trọng. Chỉ tiêu tăng trọng của bò thí nghiệm được
xác định bằng cách cân khối lượng bò 1 tuần/lần vào buổi sáng trước khi cho ăn bằng cân điện tử
đại gia súc (cân RudWeigh). Lượng thức ăn ăn vào được xác định dựa trên số liệu thức ăn cho ăn
và còn thừa được cân hàng ngày và kết quả phân tích chất khô của các loại thức ăn này. Chất khô
ăn vào = (Thức ăn cho ăn - Thức ăn còn thừa) x % chất khô thức ăn cho ăn. Hiệu quả sử dụng
thức ăn chính là tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng và được tính từ tổng lượng thức ăn ăn vào và tổng
khối lượng tăng lên trong thời gian thí nghiệm. Tỷ lệ tiêu hóa của các chất dinh dưỡng trong
khẩu phần được xác định dựa trên số liệu các chất dinh dưỡng ăn vào và thải ra trong phân theo
công thức: tỷ lệ tiêu hóa = 100 x (lượng ăn vào – lượng thải ra trong phân)/lượng ăn vào. Tỷ lệ
thịt xẻ và thịt tinh được xác định dựa vào kết quả mổ khảo sát và chi phí tiền thức ăn cho 1 kg


tăng trọng được xác định dựa vào giá thức ăn tại thời điểm kết thúc thí nghiệm và hiệu quả sử
dụng thức ăn của bò thí nghiệm.
2.8. Xử lý số liệu
Tất cả các số liệu được xử lý bằng chương trình phần mềm Excel và phần mềm thống kê
MINITAB 14. Sai khác giữa giá trị trung bình của 2 lô thí nghiệm về các chỉ tiêu khả năng ăn
vào, tăng trọng, tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng, tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ thịt tinh vv được xác định
bằng phép so sánh cặp T-test trên phần mềm MINITAB 14.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Khả năng tăng trọng và tiêu tốn thức ăn
Kết quả về thay đổi khối lượng, tăng trọng và tiêu tốn thức ăn của bò trong thời gian thí
nghiệm được trình bày trong Bảng 4 và 5.
Bảng 4. Khối lượng và tăng trọng của bò ở các lô thí nghiệm
1


Chỉ tiêu theo dõi
Lô I
Lô II
SEM
P
P. đầu kỳ (kg)
273,8
a

379,0
b

13,80
0,002
P. 30 ngày (kg)
294,5
a

413,2
b

15,95
0,005
P. 60 ngày (kg)


318,0
a

437,0

b

16,25
0,002
P. 90 ngày (kg)
2

333,4
a

471,8
b

17,70
0,003
ADG tháng thứ nhất
(kg/con/ngày)
0,69
a

1,14
b

0,123
0,042
ADG tháng thứ hai (kg/con/ngày)
0,78
0,79
0,071
0,917

ADG tháng thứ ba (kg/con/ngày)
0,51
a

0,96
b

0,074
0,006
ADG toàn kỳ (kg/con/ngày)
0,663
a

0,965
b

0,062
0,002
Các giá trị trung bình trong cùng một hàng có các chỉ số trên khác nhau thì khác nhau (P<0,05)
Ghi chú: 1(ADG): tăng trọng bình quân/ngày; (P): khối lượng
2: Lô II có 1 con bị ốm nên khối lượng lúc 90 ngày là trung bình của 3 con còn lại

Trong thời gian vỗ béo ở tháng thứ 3 có một con ở lô 2 bị ốm 1 tuần nên lượng thức ăn ăn
vào và thể trọng giảm mạnh dẫn đến tăng trọng âm. Do đó kết quả xác định khối lượng lúc 90
ngày vỗ béo và tăng trọng tháng thứ 3 của lô 2 là giá trị trung bình của 3 cá thể còn lại (khối
lượng trung bình khi kết thúc tháng vỗ béo thứ 2 của 3 cá thể này là 443 kg).
Vì mục đích chính của thí nghiệm là so sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo
giữa bò thuộc 2 giống khác nhau nên tuổi bắt đầu thí nghiệm được xác định là yếu tố quan trọng
cần thiết phải đồng đều. Do đó sự khác nhau về khối lượng trung bình giữa 2 lô thí nghiệm ở thời
điểm bắt đầu thí nghiệm là điều không tránh khỏi do tốc độ sinh trưởng trong giai đoạn từ sơ

sinh đến 21 tháng tuổi của bò thuộc 2 nhóm giống là khác nhau như đã được thể hiện trong báo
cáo của Đinh Văn Tuyền và cộng sự (2010).


Khả năng tăng trọng của bò lai ½ Red Angus trong giai đoạn thí nghiệm vỗ béo cũng cao
hơn hẳn bò lai Sind. Sau 3 tháng thí nghiệm, khối lượng trung bình của bò lai Sind đã tăng từ
273,8 kg lên 333,4 kg (khối lượng tăng tuyệt đối 59,6 kg) trong khi bò lai ½ Red Angus tăng từ
384,2 kg lên 471,8 kg (khối lượng tăng tuyệt đối 87,6 kg - chỉ tính trung bình của 3 cá thể có sức
khỏe bình thường). Tăng trọng trung bình (kg/con/ngày) của bò lai ½ Red Angus (0,965
kg/con/ngày) cao hơn đáng kể (P<0,01) so với giá trị này ở bò lai Sind (0,663 kg/con/ngày). Khả
năng tăng trọng khi vỗ béo khác nhau giữa các nhóm giống khác nhau đã được báo cáo trong
nhiều nghiên cứu trước đây (Vũ Chí Cương và cộng sự, 2008; Nguyễn Quốc Đạt và cộng sự,
2008; Đinh Văn Tuyền và cộng sự, 2008; Phạm Thế Huệ và cộng sự, 2009; Phạm Văn Quyến,
2009) và kết quả của thí nghiệm này một lần nữa khẳng định con lai chuyên thịt có khả năng
tăng trọng cao hơn hẳn con lai Sind khi nuôi trong cùng điều kiện.
Kết quả ở Bảng 4 cũng cho thấy giữa bò lai Sind và lai Red Angus có sự khác nhau về
qui luật tăng trọng khi vỗ béo. Ở bò lai Sind tăng trọng ở tháng thứ nhất và thứ hai cao, sau đó
giảm mạnh ở tháng thứ 3. Còn đối với bò lai ½ Red Angus tăng trọng tháng thứ nhất cao, sau đó
giảm xuống ở tháng thứ 2 và tăng trở lại ở tháng thứ 3. Điều này có thể cho thấy với bò lai Sind
có thể trạng tốt khi đưa vào vỗ béo lúc 21 tháng tuổi chỉ nên dừng lại sau thời gian vỗ béo 2
tháng còn đối với bò lai ½ Red Angus thời gian vỗ béo có thể kéo dài đến 3 tháng mà bò vẫn cho
tăng trọng cao. Diễn biến tăng trọng cao ở tháng thứ nhất, sau đó giảm dần ở tháng thứ 2 và thứ
3 đối với bò lai Sind vỗ béo cũng đã được báo cáo ở nhiều nghiên cứu trước đây (Phạm Thế Huệ
và cộng sự, 2009; Vũ Chí Cương và cộng sự, 2008; Nguyễn Quốc Đạt và cộng sự, 2008). Tuy
nhiên có sự khác nhau về tháng tăng trọng cao nhất giữa kết quả của chúng tôi với số liệu công
bố bởi các tác giả trước. Trong hầu hết các báo cáo trước, tăng trọng của bò vỗ béo ở tháng thứ 2
đã giảm đi so với tăng trọng ở tháng thức nhất còn trong thí nghiệm này của chúng tôi tăng trọng
của bò lai Sind chỉ bắt đầu giảm sau khi vỗ béo 2 tháng.
Kết quả tăng trọng của bò lai Sind trong thí nghiệm của chúng tôi cao hơn hoặc tương
đương với kết quả vỗ béo bò lai Zebu của Lê Viết Ly và cộng sự (1996), Vũ Văn Nội và cộng sự

(1999), Vũ Chí Cương và cộng sự (2001, 2008), Phạm Kim Cương và cộng sự (2001), Phạm Thế
Huệ và cộng sự (2009). Tuy nhiên kết quả này thấp hơn so với một số kết quả vỗ béo bò loại thải
(0,865 - 0,921kg/con/ngày) của Victo Clarke và cộng sự (1997) cũng như kết quả vỗ béo bò lai
Sind gần đây của Đinh Văn Tuyền và cộng sự (2008) và Nguyễn Quốc Đạt và cộng sự (2008).
Sự khác nhau về mức tăng trọng này có thể là do sự khác nhau về khẩu phần vỗ béo cũng như
thể trạng của gia súc khi bắt đầu thí nghiệm. Trong các thí nghiệm của các tác giả trước bò trải
qua giai đoạn thiếu thức ăn nên thể trạng trước khi đưa vào vỗ béo gầy hơn so với bò trong thí
nghiệm này. Mặt khác sự khác nhau về điều kiện thời tiết khí hậu giữa các trại thí nghiệm cũng
có thể đã góp phần ảnh hưởng đến khả năng tăng trọng của bò lai Sind vỗ béo.
Khác với tăng trọng của bò lai Sind, mức tăng trọng của bò lai ½ Red Angus trong
nghiên cứu này cao hơn đáng kể so với tăng trọng khi vỗ béo bò lai chuyên thịt (Charolais x Lai
Sind) trong nghiên cứu của Vũ Văn Nội (1994) và Nguyễn Văn Thưởng và cộng sự (1995).
Trong báo cáo của Vũ Văn Nội (1994) bò lai F1 ½ Charolais đạt tăng trọng trung bình 0,62


kg/con/ngày, chỉ tương đương 60% mức tăng trọng của bò lai ½ Red Angus trong thí nghiệm
này. Kết qủa tăng trọng của bò lai ½ Red Angus trong nghiên cứu của chúng tôi cũng xấp xỉ mức
tăng trọng của bò Brahman thuần vỗ béo tại TP. Hồ Chí Minh (1,18 kg/con/ngày) trong nghiên
cứu của Nguyễn Quốc Đạt và cộng sự (2008) cũng như bò thuần Drought Master, bò lai ½
Drought Master, lai ½ Brahman và lai ½ Charolais (0,91-1,15 kg/con/ngày) trong nghiên cứu của
Phạm Văn Quyến (2009). Tuy nhiên so với tăng trọng của bò thuần Drought Master vỗ béo tại
TP. Hồ Chí Minh trong nghiên cứu của Nguyễn Quốc Đạt và cộng sự (2008) và bò thuần
Brahman tại Tuyên Quang của Đinh Văn Tuyền và cộng sự (2008) thì tăng trọng của bò lai ½
Red Angus vẫn thấp hơn đáng kể (0,97 so với 1,55 và 1,42 kg/con/ngày). Mức tăng trọng này
cũng chỉ tương đương 50% mức tăng trọng của bò thuÇn Brahman vỗ béo tại Australia (1,90
kg/con/ngày) bằng khẩu phần có hàm lượng rỉ mật cao trong nghiên cứu của McCrab và cộng sự
(2000) và của bò đực chuyên thịt giống Anh Quốc tại Mỹ trong giai đoạn bò sinh trưởng (1,96
kg/con/ngày) nuôi bằng khẩu phần giàu thức ăn tinh của Sainz và cộng sự (1995).
3.2. Lượng thức ăn ăn vào và tỷ lệ tiêu hóa in vivo của khẩu phần
Số liệu ở Bảng 5 cho thấy tổng khối lượng vật chất khô, chất hữu cơ và protein thô ăn

vào trung bình/ngày của bò lai ½ Red Angus cao hơn đáng kể so với bò lai Sind (P<0,001)
nhưng khi ước tính theo khối lượng cơ thể thì lượng chất khô ăn vào của bò lai Sind (2,6%
KLCT) lại cao hơn đáng kể so với bò lai ½ Red Angus (2,3% KLCT). Tuy nhiên điểm cần lưu ý
trong nghiên cứu này là sự sai khác về lượng chất khô ăn vào giữa hai lô thí nghiệm chỉ xảy ra
với phần thức ăn tinh, còn lượng ăn vào từ thức ăn thô của cả hai nhóm giống là không sai khác
về mặt thống kê (P>0,05). Điều này có thể là do ảnh hưởng của lượng thức ăn thô cho ăn đến khả
năng tiêu hóa và hấp thụ thức ăn tinh ở bò lai Sind lớn hơn so với ở bò lai ½ Red Angus. Trong
thí nghiệm này chúng tôi nhận thấy bò lai Sind luôn bỏ thừa thức ăn tinh so với định mức cho ăn
và ăn hết thức ăn thô và vì vậy tỷ lệ tinh thô trong phần chất khô ăn vào của bò thí nghiệm là
56:44 (tỷ lệ này trong thức ăn cho ăn là 68:32). Trong khi ở bò lai ½ Red Angus tỷ lệ giữa thức
ăn tinh và thức ăn thô trong phần thức ăn thừa được duy trì ở mức tương đương với tỷ lệ này
trong thức ăn cho ăn (tỷ lệ tinh/thô cho ăn 68:32 còn tỷ lệ này trong thức ăn thừa là 63:37). Từ
kết quả này cho thấy khi lên khẩu phần vỗ béo cho bò lai Sind để cho ăn riêng rẽ thức ăn tinh và
thô thì lượng thức ăn tinh không nên vượt quá 56% tổng chất khô của khẩu phần.
Bảng 5. Lượng thức ăn ăn vào và hiệu quả sử dụng thức ăn (Mean ± SD)
Chỉ tiêu
Lô I
Lô II
SEM
P
Chất khô ăn vào (kg/con/ngày)
7,56
a

9,36
b

0,124
<0,001
DMI (thức ăn tinh-kg/con/ngày)

4,42
a

6,00
b

0,097
<0,001
DMI (thức ăn thô-kg/con/ngày)
3,14
3,35
0,096
0,142
Chất khô ăn vào (% khối lượng)
2,49
a

2,23
b

0,058
0,004
Chất hữu cơ ăn vào (kg/con/ngày)
6,76
a

8,38
b

0,112

<0,001
Protein ăn vào (g/con/ngày)
914
a

1169
b

174
<0,001


NDF ăn vào (kg/con/ngày)
3,40
a

3,91
b

0,069
<0,001
ADF ăn vào (kg/con/ngày)
2,00
a

2,34
b

0,035
<0,001

Tiêu tốn thức ăn (kg CK/kg tăng trọng)
11,6
10,2
0,77
0,225
Hiệu quả sử dụng thức ăn (gTT/MJME)
8,57
9,61
0,647
0,278
* Các giá trị trung bình trong cùng một hàng có các chỉ số trên khác nhau thì khác nhau (P<0,05)

Mặc dù tăng trọng của bò lai ½ Red Angus cao hơn đáng kể so với bò lai Sind nhưng
hiệu quả sử dụng thức ăn lại không có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê giữa 2 lô thí
nghiệm. Tiêu tốn thức ăn cho tăng trọng của cả 2 lô thí nghiệm (11,6 và 10,2 kg DM/kg tăng
trọng) đều ở mức cao hơn khá nhiều so với kết quả của một số thí nghiệm trước (VD: 6,3-7,9 kg
chất khô/kg tăng trọng của Phạm Kim Cương và cộng sự (2001); 3,9-4,5 kg chất khô/kg tăng
trọng của Đinh văn Tuyền và cộng sự (2008); 6,29-8,73 kg chất khô/kg tăng trọng của Nguyễn
Quốc Đạt và cộng sự (2008); 6,2-8,0 kg chất khô/kg tăng trọng của Phạm Văn Quyến (2010)).
Tiêu tốn chất khô/kg tăng trọng của bò lai Sind trong thí nghiệm của chúng tôi cũng cao hơn so
với các giá trị tham khảo đưa ra bởi các Tiêu chuẩn ăn như ARC (1984); NRC (1984); INRA
(1989); AFRC (1993) - dao động trong khoảng 7,1-10,42 kg chất khô/kg tăng trọng.
Tuy nhiên tiêu tốn thức ăn cho tăng trọng trong thí nghiệm của chúng tôi cũng chỉ tương
đương với kết quả của Vũ Chí Cương và cộng sự (2008) khi vỗ béo bò lai Sind bằng khẩu phần
có nguồn xơ là thân cây ngô sau thu bắp và bẹ ngô kết hợp ngô nghiền, khô dầu lạc, rỉ mật, urea
và có hàm lượng CP và ME lần lượt là 16% và 9,6 MJ/kg chất khô (10,84 - 11,38 kg chất khô/kg
tăng trọng). Tương tự, Sainz và cộng sự (1995) khi vỗ béo bò đực chuyên thịt giống Anh Quốc
trong giai đoạn bò sinh trưởng bằng khẩu phần thức ăn thô cao (bò có khối lượng 245 kg khi bắt
đầu và 318 kg khi kết thúc giai đoạn này) có hàm lượng CP và ME tương ứng là 13,3% và 7,8
MJ/kg vật chất khô được xây dựng từ cỏ khô alfalfa (64%), rơm lúa mì (32%), rỉ mật (3%) và

khoáng cũng thu được kết quả là 10,92 kg/kg tăng trọng. Tuy nhiên cần phải lưu ý cũng trong thí
nghiệm này nhóm bò được ăn khẩu phần giàu thức ăn tinh (ME=12,8MJ/kg DM và CP = 14,6%)
bò đạt tăng trọng 1,96 kg/con/ngày và tiêu tốn thức ăn chỉ là 4,3 kg DM/kg tăng trọng. Kết quả
thí nghiệm của Vũ Chí Cương và cộng sự (2000) cũng cho thấy tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng
dao động rất lớn (6,23-15,95) tùy thuộc vào khẩu phần vỗ béo. Như vậy có thể thấy mật độ dinh
dưỡng trong khẩu phần có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng thức ăn khi tính bằng đơn vị
kg chất khô/kg tăng trọng và đây có thể cũng chính là lí do giải thích cho mức tiêu tốn thức ăn
cao (hay hiệu quả sử dụng thức ăn tương đối thấp) trong thí nghiệm của chúng tôi (trong thí
nghiệm này hàm lượng CP của khẩu phần chỉ đạt 12% và ME 10,45 MJ/kg chất khô).
Kết quả xác định tỷ lệ tiêu hóa in vivo của khẩu phần ở 2 nhóm bò thí nghiệm được trình
bày ở Bảng 6 cho thấy tỷ lệ tiêu hóa chất khô, chất hữu cơ của bò lai ½ Red Angus cao hơn đáng
kể (P<0,05) so với bò lai Sind. Tuy nhiên tỷ lệ tiêu hóa protein, NDF và ADF trong khẩu phần
lại tương tự nhau giữa các lô thí nghiệm. Kết quả này chủ yếu là do sự khác nhau trong khẩu
phần ăn vào thực tế giữa hai lô thí nghiệm, trong đó khẩu phần của lô 1 có tỷ lệ thức ăn thô cao
hơn và thức ăn tinh thấp hơn so với khẩu phần của lô 2 (Bảng 5). Kết quả này cũng củng cố thêm


cho nhận định ở trên rằng khả năng tiêu hóa và hấp thu thức ăn tinh của bò lai Sind thấp hơn bò
lai ½ Red Angus, ít nhất là trong điều kiện của thức nghiệm này.
Do tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ của bò lai ½ Red Angus cao hơn so với bò lai Sind nên hàm
lượng chất hữu cơ có thể tiêu hóa và hàm lượng ME của khẩu phần ăn xác định trên bò lai ½ Red
Angus cao hơn đáng kể so với bò lai Sind. Trong thí nghiệm này hàm lượng ME của khẩu phần
ở các lô thí nghiệm trình bày ở Bảng 6 được ước tính theo công thức của AFRC (1993). Kết quả
cho thấy giá trị ME của khẩu phần lô 1 là 10,2 MJ/kg chất khô còn của khẩu phần lô 2 là 10,7
MJ/kg chất khô; tính trung bình cho cả 2 lô thí nghiệm là 10,45 MJ/kg chất khô. Tuy nhiên khi
sử dụng các công thức của INRA thì giá trị ME ước tính của khẩu phần lô 1 là 10,5 MJ và của lô
2 là 11,1 MJ/kg chất khô, cao hơn so với công thức của AFRC (1993).
Bảng 6. Tỷ lệ tiêu hóa in vivo của khẩu phần ở các lô thí nghiệm
Chỉ tiêu theo dõi
Lô I

Lô II
SEM
P
DMD (%)
71,7
a

75,4
b

0,68
0,008
OMD (%)
72,7
a

76,1
b

0,74
0,017
CPD (%)
67,7
70,2
2,35
0,480
NDFD (%)
52,1
51,4
1,97

0,820
ADFD (%)
56,2
57,1
1,82
0,747
DOMD (g/kg DM)
1

649,3
a

681,1
b

6,60
0,014
ME (MJ/kg DM)
2

10,2
a

10,7
b

0,104
0,014
Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng 1 hàng có chỉ số trên khác nhau thì khác nhau
1: Hàm lượng chất hữu cơ có thể tiêu hóa; 2: Tính theo công thức ME = 0,0157 DOMD (AFRC, 1993)


3.3. Khả năng cho thịt của bò vỗ béo
Để xác định khả năng cho thịt và so sánh tỷ lệ thịt của bò lai ½ Red Angus với bò lai
Sind, chúng tôi tiến hành mổ khảo sát toàn bộ sau khi kết thúc giai đoạn vỗ béo. Kết quả Bảng 7
cho thấy trung bình khối lượng thịt xẻ và thịt tinh của bò lai ½ Red Angus cao hơn đáng kể so
với khối lượng này của bò lai Sind sau khi kết thúc (252,2 và 193,2 kg ở bò lai ½ Red Angus so
với 167,4 và 130,5 kg ở bò lai Sind). Tương tự, tỉ lệ thịt xẻ và thịt tinh của bò lai ½ Red Angus
cũng cao hơn đáng kể so với bò lai Sind (P<0,05). Tỷ lệ thịt xẻ của bò lai ½ Red Angus vỗ béo
(55,44%) cao hơn 5,2 đơn vị % so với giá trị tỷ lệ thịt xẻ của bò lai Sind sau vỗ béo (50,24%).
Tương tự, tỷ lệ thịt tinh của bò lai ½ Red Angus (42,45%) cao hơn 3,28 đơn vị % so với tỷ lệ này
của bò lai Sind (39,17%). Kết quả khảo sát cũng cho thấy tỷ lệ không có sự sai khác đáng kể
giữa 2 nhóm giống về tỷ lệ thịt loại 1 và thịt loại 3 (tính trên tổng lượng thịt tinh) và tỷ lệ xương
nhưng tỷ lệ da thấp hơn và tỷ lệ nội tạng cao hơn ở bò lai ½ Red angus so với bò lai Sind. Tuy
nhiên sự khác nhau về tỷ lệ da giữa 2 nhóm giống chỉ có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,1 (Bảng 7).
Sự khác nhau về tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh giữa các nhóm giống khác nhau đã được khẳng định
trong nhiều nghiên cứu trước đây. Đinh Văn Tuyền và cộng sự (2008) khảo sát trên bò Brahman
thuần và lai Sind vỗ béo tại Tuyên Quang cho thấy tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh của bò thuần Brahman


cao hơn đáng kể so với bò lai Sind (53,3 và 42,9 ở bò thuần Brahman so với 49,1 và 40,4% ở bò
lai Sind). Tương tự, kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác tiến hành trên các nhóm giống
thuần và lai khác nhau gồm lai Sind, Brahman và Droụght Master thuần, lai Charolais, Drought
Master, Brahman cũng cho thấy giống có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh của bò
vỗ béo (Nguyễn Văn Thưởng và cộng sự, 1995; Nguyễn Quốc Đạt và cộng sự, 2008; Phạm Thế
Huệ và cộng sự, 2009; Phạm Văn Quyến, 2010). Tất cả các nghiên cứu này đều cho thấy tỷ lệ
thịt xẻ và thịt tinh của bò lai Sind thấp hơn đáng kể so với các nhóm giống khác.
Tỷ lệ thịt xẻ của bò lai Sind trong nghiên cứu này cao hơn so với giá trị 45,8-47,7% của
Vũ Văn Nội và cộng sự (2001); 45,92% của Phạm Thế Huệ và cộng sự (2009); 46,68% của
Phạm văn Quyến (2010) nhưng chỉ tương đương với giá trị 49,1% của Đinh Văn Tuyền và cộng
sự (2008) và thấp hơn giá trị 53,21% khảo sát bởi Nguyễn Quốc Đạt và cộng sự (2008). Tương

tự, tỷ lệ thịt tinh của bò lai Sind trong nghiên cứu này cũng cao hơn giá trị 36,9% trong nghiên
cứu của Vũ Văn Nội và cộng sự (2001); 37,44% của Phạm Văn Quyến (2010) nhưng chỉ tương
đương giá trị khảo sát bởi Đinh Văn Tuyền và cộng sự (2008), Nguyễn Quốc Đạt và cộng sự
(2008) và Phạm Thế Huệ và cộng sự (2009).
Cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ một kết quả khảo sát tỷ lệ thịt của bò lai sinh ra từ cặp lai
giữa Red Angus và lai Sind được công bố tại Việt Nam cũng như trên thế giới. Tuy nhiên khi so
sánh kết quả khảo sát bò thuộc một số công thức lai khác đã tiến hành tại Việt nam cho thấy tỷ lệ
thịt xẻ của bò lai ½ Red Angus trong nghiên cứu này của chúng tôi (55,44%) cao hơn khá nhiều
so với tỷ lệ này của bò lai ½ Brahman và lai ½ Drought master trong nghiên cứu của Phạm Thế
Huệ và cộng sự (2009) và Phạm Văn Quyến (2010) (dao động trong khoảng 48,52 – 50,76%)
nhưng chỉ cao hơn không đáng kể, thậm chí tương đương, so với tỷ lệ thịt xẻ của bò lai ½
Charolais (52-55,2%) trong các nghiên cứu của Nguyễn Văn Thưởng và cộng sự (1995), Phạm
Thế Huệ và cộng sự (2009) và Phạm Văn Quyến (2010). Tuy nhiên tỷ lệ thịt tinh của bò lai Red
Angus trong nghiên cứu này (42,45%) chỉ tương đương với tỷ lệ thịt tinh của bò lai ½ Brahman,
lai ½ Drought Master và lai ½ Charolais (39,95- 44,05%) trong nghiên cứu của Phạm Thế Huệ
và cộng sự (2009) và Phạm Văn Quyến (2010).
Kết quả khảo sát cũng cho thấy bò lai ½ Red Angus có chiều dài thân thịt và diện tích cơ
thăn lớn hơn đáng kể so với bò lai Sind. Với chỉ tiêu dài thân thịt, giá trị chênh lệch giữa 2 nhóm
giống là 15,7 cm còn ở chỉ tiêu diện tích cơ thăn, sự chênh lệch là 20,6 cm
2
. Kết quả này cũng
phù hợp với kết quả xác định chỉ tiêu dài thân chéo giữa 2 nhóm giống trong nghiên cứu của
Đinh Văn Tuyền và cộng sự (2010) trong đó bò lai ½ Red Angus có độ dài thân chéo lớn hơn bò
lai Sind cùng tuổi.
Bảng 7. Một số chỉ tiêu mổ khảo sát của bò nuôi thí nghiệm (Mean ± SD)
Chỉ tiêu
Lô I
Lô II
SEM
P

Khối lượng thịt hơi (kg)
332,5
a

458,0
b

18,0
0,003
Khối lượng thịt xẻ (kg)
167,4
a

252,2
b

10,45
0,001


Tỉ lệ thịt xẻ (% khối lượng hơi)
50,24
a

55,44
b

0,914
0,007
Khối lượng thịt tinh (kg)

130,5
a

193,2
b

8,06
0,002
Tỉ lệ thịt tinh (% khối lượng hơi)
39,17
a

42,45
b

0,678
0,014
Tỷ lệ thịt loại 1 (% thịt tinh)
43,42
46,31
0,887
0,061
Tỷ lệ thịt loại 2 (% thịt tinh)
46,29
a

42,60
b

0,921

0,030
Tỷ lệ thịt loại 3 (% thịt tinh)
10,30
11,09
0,414
0,224
Tỷ lệ xương (% khối lượng hơi)
10,78
11,85
0,399
0,106
Tỷ lệ da (% khối lượng hơi)
12,83
10,19
0,931
0,092
Tỷ lệ nội tạng (% khối lượng hơi)
8,31
a

9,67
b

0,277
0,013
Dài thân thịt (cm)
134,0
a

150,8

b

3,77
0,020
Diện tích cơ thăn (cm
2
)
64,0
a

84,6
b

1,97
<0,001
* Các giá trị trung bình trong cùng một hàng có các chỉ số trên khác nhau thì khác nhau (P<0,05)

Diện tích cơ thăn của bò lai Sind trong nghiên cứu này thấp hơn khá nhiều so với kết quả
xác định của Phạm Văn Quyến (2010) trên bò lai Sind và diện tích cơ thăn của bò lai ½ Red
Angus cũng thấp hơn của các nhóm lai chuyên thịt trong nghiên cứu của tác giả này. Trong
nghiên cứu trên tác giả cho thấy diện tích cơ thăn của bò lai Sind là 80 cm2 còn của bò lai ½
Brahman, ½ Drought Master và ½ Charolais lần lượt là 107,15; 111,05 và 127,67 cm2. Tuy
nhiên theo kết quả nghiên cứu của Moseley và cộng sự (2003) thì bò chuyên thịt Bos Taurus sau
khi vỗ béo 120 ngày và có khối lượng 600 kg cũng chỉ có diện tích cơ thăn (83,68 - 85,46 cm2)
tương đương với diện tích cơ thăn của bò lai ½ Red Angus trong nghiên cứu này của chúng tôi.
Bảng 8. Giá thành sản xuất thịt bò vỗ béo
Chỉ tiêu theo dõi
Lô I
Lô II
Giá nguyên liệu



- Cỏ ghi nê tươi (đ/kg)
500
500
- Rơm khô (đ/kg)
1000
1000
- Bột sắn (đ/kg)
2500
2500
- Hạt bông (đ/kg)
5000
5000
- Urê (đ/kg)
9000
9000
- Premix khoáng-vitamin (đ/kg)
20000
20000
Giá thành thức ăn vỗ béo (đ/kg dạng sử dụng)
1502
1633
Giá thành thức ăn vỗ béo (đ/kg chất khô)
3188
3324
Chi phí tiền thức ăn cho thịt bò vỗ béo (đ/kg thịt hơi)
36.985
33.908
Chi phí tiền thức ăn cho thịt bò vỗ béo (đ/kg thịt tinh)

85.179
73.219

Kết quả phân tích giá thành sản xuất thịt khi vỗ béo bò trình bày ở Bảng 8 cho thấy nếu
chỉ tính riêng phần chi phí mua thức ăn mà không tính các chi phí khác (tiền công lao động, khấu


hao chuồng trại, điện, nước, lãi suất ngân hàng vv…) thì giá thành để sản xuất 1 kg thịt hơi đối
với bò lai Sind là 36.985 đồng và bò lai ½ Red Angus là 33.908 đồng, thấp hơn 3.087 đồng so
với bò lai Sind. Nếu tính giá thức ăn để sản xuất thị tinh thì chi phí đối với bò lai Sind là 85.179
đồng còn bò lai ½ Red Angus là 73.129 đồng/kg. So với giá thu mua thịt bò bìnhthường (không
vỗ béo) của các thương lái hiện nay là khoảng 95.000 đồng/kg thịt tinh thì giá thành thức ăn/kg
thịt tinh trong thí nghiệm này thấp hơn giá bán là 9.821 đồng đối với bò lai Sind và 21.781 đồng
đối với bò lai ½ Red Angus. Với khối lượng thịt tinh tăng lên tối thiểu trong giai đoạn 90 ngày
vỗ béo là 25,9 kg (bò lai Sind) và 40,2 kg (bò lai ½ Red Angus) thì chênh lệch giữa giá thành
thức ăn và giá bán sẽ là 254.450 đ/con cho bò lai Sind và 876.036 đồng/con cho bò lai ½ Red
Angus. Nếu giả định giá thức ăn chiếm 85% tổng chi phí sản xuất đối với thịt bò vỗ béo thì tổng
chi cho sản xuất thịt tinh ở bò lai Sind sẽ là 100.211 đ/kg và ở bò lai ½ Red Angus là 86.140
đ/kg. Khi đó mỗi bò lai Sind vỗ béo sẽ bị lỗ 135.014 đ trong khi vỗ béo bò lai ½ Red Angus vẫn
có lãi 356.349 đ/con/chu kỳ 3 tháng.
Như vậy, với điều kiện chăn nuôi và giá cả thị trường như ước tính trong nghiên cứu này
thì nếu vỗ béo bò lai Sind chỉ có thể có lãi khi các chi phí khác ngoài thức ăn (chi phí công lao
động, khấu hao chuồng trại, điện, nước, lãi suất ngân hàng vv…) không cao hơn mức
84.000/tháng (hoặc 252.000đ/3 tháng). Trong trường hợp bò lai ½ Red Angus thì với mức chi
này việc vỗ béo vẫn sẽ có lãi. Tuy nhiên cần lưu ý là trong cách tính này chúng tôi đặt giả thiết
giá bán bò vỗ béo chỉ bằng với giá bán của các loại bò khác ở thời điểm hiện tại mà chưa tính
đến yếu tố chất lượng thịt bò vỗ béo. Trên thực tế bò sau khi vỗ béo thường có chất lượng thịt
cao tương đương các sản phẩm thịt bò ngoại được nhập bán cho các nhà hàng, khách sạn và siêu
thị lớn với giá cao hơn từ 2-3 lần thịt bình thường sản xuất trong nước. Do đó nếu sản phẩm thịt
bò vỗ béo trong nước được bán với giá tương đương giá thịt ngoại nhập thì chắc chắn vỗ béo bò

lai Red Angus giai đoạn 21-24 tháng tuổi sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao.
4. Kết luận và đề nghị
4.1. Kết luận
Bò lai ½ Red Angus 21 tháng tuổi cho tăng trọng (0,965 kg/con/ngày) cao hơn đáng kể so
với bò lai Sind có tuổi tương đương (0,663 kg/con/ngày) khi vỗ béo bằng khẩu phần của thí
nghiệm này trong thời gian 90 ngày. Tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh của bò lai ½ Red Angus vỗ béo
tương ứng là 55,44% và 42,45% cũng cao hơn đáng kể so với các tỷ lệ này của bò lai Sind
(50,34% và 39,17%).
Bò lai ½ Red Angus kết thúc vỗ béo lúc 24 tháng tuổi có độ dài thân thịt (150,8 cm) và
diện tích cơ thăn (84,6 cm
2
), cao hơn đáng kể so với bò lai Sind có tuổi tương đương (dài thân
thịt 134,0 cm và diện tích cơ thăn 64,0 cm
2
).
Hiệu quả sử dụng thức ăn của bò vỗ béo trong thí nghiệm này là tương đối thấp do mật
độ dinh dưỡng trong khẩu phần không cao. Tuy nhiên với khẩu phần vỗ béo sử dụng trong thí
nghiệm này việc vỗ béo bò có thể cho lợi nhuận, nhất là khi vỗ béo bò lai ½ Red Angus.
4.2. Đề nghị


Tiếp tục thử nghiệm trên các đối tượng bò có độ tuổi khác và với các khẩu phần vỗ béo
khác nhau.
Tài liệu tham khảo
1. AFRC (1993). Energy and Protein Requirements for Ruminants. University Press, Cambridge, UK
2. ARC (1984). The Nutrient Requirements for Ruminant Livestock. Suppl 1. Commonwealth Agricultural
Bureau, Slough, UK.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2008). Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020. Nhà xuất
bản nông nghiệp, Hà nội 2008.
4. Cục Chăn nuôi (2006). Báo cáo tổng kết chăn nuôi giai đoạn 2001-2005 và định hướng phát triển chăn

nuôi thời kỳ 2005-2015.
5. Đinh Văn Tuyền, NguyÔn Thµnh Nam, Ph¹m Hïng C-êng

vµ NguyÔn ThiÖn Tr-êng Giang (2008). So sánh
khả năng tăng trọng và cho thịt của bò Brahman và Lai Sind vỗ béo tại Tuyên Quang. Tạp chí Khoa học Công
nghệ Chăn nuôi 14: 31 – 38.
6. Đinh Văn Tuyền, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Tấn Vui, Hoàng Công Nhiên (2010). Khả năng sinh trưởng bò
lai ½ Red Angus và bò lai Sind nuôi tập trung, bán chăn thả tại Đăk Lăk. Tạp chí Khoa học Công nghệ
Chăn nuôi (đang in ấn).
7. INRA (1989). Ruminant Nutrition recommended allowance and Feed Tables, INRA, Paris, France.
8. Kearl, L. C. (1982). Nutrient Requirements of Ruminants in Developing Countries. International Feedtuffs Institute.
Utah Agricultural Experiment Station. Utah State University, Logan, USA.
9. Lê Viết Ly, Vũ Văn Nội, Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Nguyễn Quốc Đạt. (1996). Nuôi bò lai hướng
thịt bằng thức ăn bổ sung từ nguồn phụ phẩm nông nghiệp tại miền Trung. Kết quả nghiên cứu khoa học
kỹ thuật chăn nuôi 1994-1995. Nhà xuất bản Nông nghiệp 1996, tr: 135-140.
10. McCrabb, G.J., Noi, V.V., O'Neill, C.J. & Hunter, R.A (2000). The effect of quality of the forage component of
high molasses diets for beef production. Asian-Australasian Journal of Animal Science 13 (Suppl. B): pp 120
11. Moseley, W. M., Meeuwse, D. M., Boucher, J. F., Dame, K. J. and Lauderdal, J. W. (2003). A dose-
response study of melengestrol acetate on feedlot performance and carcass characteristics of beef steers.
Journal of Animal Science 81:2699–2703
12. Nguyễn Quốc Đạt, Nguyễn Thanh Bình, Đinh Văn Tuyền (2008). Khả năng tăng trọng và cho thịt của bò
lai Sind, Brahman và Drought Master nuôi vỗ béo tại TP. Hồ Chí Minh. Tạp chí Khoa học Công nghệ
Chăn nuôi 15: 32 – 39.
13. Nguyễn Văn Thưởng, Lê Việt Ly, Vũ Văn Nội, Nguyễn Quốc Đạt, Nguyễn Văn Niêm, Hồ Khắc Oánh,
Phạm Kim Cương, Văn Phú Bộ và CTV (1995). Kết quả nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật nhằm tăng
nhanh năng suất thịt của đàn bò Việt Nam. Nuôi bò thịt và những kết quả nghiên cứu bước đầu ở Việt
Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp (1995) trang 45-53
14. NRC (1984). The nutrient requirements of beef cattle, Washington DC, USA.
15. Phạm Thế Huệ, Đinh Văn Chỉnh và Đặng Vũ Bình (2009). Khả năng tăng trọng và cho thịt của bò lai Sind,
F1 (Brahman x Lai Sind) và F1 (Charolais x Lai Sind) nuôi vỗ béo tại Đăk Lăk. Tạp chí Khoa học và Phát

triển 7: 291 – 298.
16. Phạm Văn Quyến (2010). Nghiên cứu khả năng sản xuất của bò Droughtmaster thuần nhập nội và bò lai
F1 giữa bò Droughtmaster với bò Lai Sind tại miền Đông Nam Bộ. Luận án tiến sĩ chuyên ngành chăn
nuôi động vật. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam.


17. Sainz, R. D., De la Torre, F. & Oltjen, J. W (1995). Compensatory Growth and Carcass Quality in
Growth-Restricted and Refed Beef Steers. Journal of Animal Science 73. pp : 2971- 2979.
18. Victor J. Clarke, Lê Bá Lịch, Đỗ Kim Tuyên (1997). Kết quả chuyển giao kỹ thuật vỗ béo bò bằng khẩu
phần cao năng lượng dựa trên nền bột sắn với 3% urea. Tr: 41-48. Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y. Phần
chăn nuôi gia súc. Hà nội, 1997.
19. Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Nguyễn Thành Trung và Phạm Thế Huệ (2008). Ảnh hưởng của việc
thay thế các mức protein thoát qua (by-pass protein) trong khẩu phần đến khả năng tăng trọng và hiệu quả
kinh tế của bò lai Brahman vỗ béo tại Đắc Lắc. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi 13: 20-26
20. Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Vũ Văn Nội, Đinh Văn Tuyền, Nguyễn Thành Trung và Mc Crabb. G.
(2000). Nghiên cứu sử dụng hàm lượng rỉ mật cao để vỗ béo bò. Báo cáo khoa học Viện chăn nuôi năm
1999.
21. Vũ Văn Nội (1994). Nghiên cứu khả năng sản xuất thịt của đàn bò lai Sind, bò lai kinh tế hướng thịt trên
nền bò lai Sind ở một số tỉnh miền Trung. Luận án PTS khoa học nông nghiệp. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Hà nội, 1994.
22. Vũ Văn Nội, Phạm Kim Cương và Đinh Văn Tuyền (1999). Sử dụng phế phụ phẩm và nguồn thức ăn sẵn
có tại địa phương để vỗ béo bò. Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y, Huế 28-30/6/1999. Tr: 25-29.
23. Vũ Văn Nội, Nguyễn Văn Vinh, Phạm Kim Cương và Đinh Văn Tuyền (2001). Nghiên cứu sử dụng các
nguồn thức ăn sẵn có để vỗ béo bò nâng cao khả năng sản xuất thịt và hiệu quả kinh tế. Các báo cáo khoa
học đề tai KHCN 0805 giai đoạn 1996-2000, Hà Nội, 2001. Tr: 152-161.

×