Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD tại Chi nhánh NH ĐT&PT Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.37 KB, 104 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế hội nhập và phát triển Việt Nam cần nhiều vốn để cất
cánh. Để phát triển, chúng ta cần huy động tất cả các nguồn vốn trong nước,
huy động tối đa các nguồn vốn từ nước ngoài và lo sử dụng các nguồn lực đó
cho có hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều pháp nhân có nhu cầu
về vốn, trong khi đó lại có những pháp nhân khác có sẵn nguồn tài trợ. Muốn
phát triển, ta cần huy động nguồn vốn sẵn có và hướng nó về những ngành
thiếu phương tiện tài chính.
Trong những năm gần đây, theo xu hướng chung của thế giới, các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ngày nay, xu hướng hội nhập, hợp tác
giữa các nước trên thế giới được coi trọng. Trước tình hình đó đặt ra cho Việt
Nam những cơ hội và thách thức mới đòi hỏi phải thiết lập một cơ cấu kinh tế
nhiều tầng, năng động. Từ thực tế cho thấy, mô hình doanh nghiệp ngoài quốc
doanh phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cho phép khai thác
và sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước: vốn, lao động,
tài nguyên, công nghệ,…Trên cơ sở phát huy sức mạnh toàn dân, trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ thu
hút đầu tư, cải thiện môi trường, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và
mức sống cho dân cư, từ đó sẽ tạo động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp không ít
những khó khăn đặc biệt là về vốn. Doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào vốn
tự có của mình mà cần phải huy động thêm nguồn vốn bên ngoaì để mở rộng
sản xuất kinh doanh và tăng năng lực cạnh tranh. Do đó, để giúp các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh có điều kiện phát triển tốt thì một trong những biện
pháp quan trọng là cần phải đáp ứng nhu cầu vốn một cách nhanh chóng, kịp
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


thời. Nhưng thực tế cho thấy việc các doanh nghiệp này huy động được vốn
bên ngoài là khó khăn. Đây là một vấn đề nan giải và được nhiều người quan
tâm, đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải có những biện pháp tiếp cận, hỗ trợ vốn
tín dụng cho các doanh nghiệp này.
Việc nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh của chi nhánh là cơ
sở để rút ra nhận xét về những thành công, hạn chế tồn tại, vướng mắc để từ
đó có những đề suất, giải pháp, kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động cho vay
ngắn hạn tại chi nhánh. Từ thực tiễn trên em xin chọn đề tài: “Mở rộng hoạt
động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD tại Chi nhánh NH ĐT&PT Hà
Nội’’.
Nội dung của đề tài nghiên cứu gồm 3 chương:
Chương 1: Mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD tại
NHTM.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD tại
Chi nhánh NH ĐT&PT HN.
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với
DNNQD tại Chi nhánh NH ĐT&PT Hà Nội.
Phạm vi của đề tài chủ yếu tìm hiểu hoạt động cho vay tại chi nhánh
đối với các DNNQD. Từ thực tế đó em xin nêu ra một số ý kiến đóng góp để
năng cao hiệu quả công tác tín dụng tại ngân hàng. Do còn nhiều hạn chế về
kiến thức, cũng như kinh nghiện thực tế nên chuyên đề này không tránh khỏi
những sai sót. Vì vậy, em rất mong được sự giúp đỡ, quan tâm của các thầy
cô để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1. MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN
HẠN ĐỐI VỚI DNNQD TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Cho vay và các loại hình cho vay của Ngân hàng thương mại.

1.1.1 .Hoạt động cho vay của NHTM
Với các hoạt động nghiệp vụ mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế,
ngân hàng là một trong những trung gian tài chính có vai trò quan trọng bậc
nhất. Theo điều 20, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 đã ghi: “Ngân hàng
là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”, trong đó “Hoạt động ngân hàng
là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường
xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán”.
Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất và
chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu tổng tài sản của NHTM. Theo điều 49, Luật các
tổ chức tín dụng năm 1997 cũng đã quy định:” Tổ chức tín dụng được cấp tín
dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương
phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức
khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”. Như vậy nếu phân loại hoạt
động tín dụng theo hình thức tài trợ tín dụng được chia thành cho vay, bảo
lãnh, chiết khấu thương phiếu, và cho thuê tài chính…
Trong đó, cho vay là nghiệp vụ đặc trưng nhất của tín dụng và cũng là
hoạt động đem lại gần 70% thu nhập của các NHTM ở nước ta hiện nay. Theo
điều 3, Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành
theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN, “Cho vay là một hình thức cấp tín
dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền
để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo nguyên tắc hoàn trả cả
gốc và lãi”.
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM.
1.1.2.1. Vai trò đối với nền kinh tế.
Thứ nhất, ngân hàng là kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh

tế. Một nền kinh tế muốn phát triển nhanh và bền vững đòi hỏi
phải huy động, khai thác có hiệu quả các nguồn lực phát triển,
trong đó vốn là yếu tố mang tính quyết định. Bên cạnh việc sử
dụng nguồn vốn tự có hoặc tự tích lũy thì phần còn lại được
huy động thông qua các kênh trên thị trường vốn. Trong đó,
cho vay qua các NHTM là kênh truyền tải vốn quan trọng, đặc
biệt là ở các nước đang phát triển.
Là trung gian tài chính lớn nhất của nền kinh tế, hoạt động cơ
bản của NHTM là đi vay và cho vay. NHTM có thể tập trung
được một khối lượng vốn lớn từ những nguồn tiết kiệm nhàn
rỗi trong dân cư, khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế để đưa
chúng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của những người cần vốn. Thêm vào đó, với khả
năng chuyên nghiệp, với vai trò người trung gian về thông tin,
NHTM có thể kiểm soát tốt hơn vấn đề thông tin không cân
xứng giữa các bên có vốn và cần vốn để khắc phục một cách
tốt nhất sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Thứ hai, cho vay thông qua NHTM là kênh phân bổ vốn có
hiệu quả trong nền kinh tế.
Vì mục tiêu lợi nhuận, tích chất chuyên nghiệp và kinh doanh
có tổ chức nên ngân hàng tìm được nơi đầu tư an toàn, hiệu quả
và giảm thiểu được rủi ro và tổn thất. Hoạt động tín dụng của
NHTM được thể hiện trên cơ sở những nguyên tắc, điều kiện
và quy trình tín dụng hết sức chặt chẽ. Thêm vào đó, ngân hàng
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
có một bộ máy chuyên môn được đào tạo và có kinh nghiệm
trong việc nghiên cứu các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế
của Nhà nước, những quy định có liên quan đến việc vay vốn,

có khả năng thu thập, phân tích thông tin và thẩm định, đánh
giá khách hàng. Ngân hàng còn thực hiện kiểm soát và giám
sát sử dụng vốn của khách hàng với những thủ tục và quy trình
chặt chẽ.
Đối với khách hàng, áp lực phải trả nợ ngân hàng buộc họ phải
năng động, sáng tạo trong điều hành sản xuất kinh doanh, tìm
kiếm cơ hội đầu tư sinh lợi, sử dụng vốn tiết kiệm và khoa học,
luôn quan tâm đến biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Vì thế, khách hàng có thể thu hồi vốn, trả nợ ngân hàng
đúng hạn, giữ chữ “tín” với ngân hàng; và thuận tiện hơn trong
việc vay vốn, thậm chí là có thể thu hút vốn trên thị trường tài
chính.
Thứ ba, nghiệp vụ cho vay của NHTM thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Hoạt động tín dụng điều tiết sự dịch chuyển của vốn đầu tư
theo ngành kinh tế, do ngân hàng luôn vì mục tiêu lợi nhuận tối
đa và bảo đảm an toàn vốn nên sẽ luôn có xu hướng coi trọng
đầu tư vào những ngành có lợi thế, có khả năng sinh lợi cao và
có xu hướng phát triển tốt, đồng thời hạn chế hoặc không đầu
tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp, khó có điều kiện
phát triển. Hoạt động cho vay vận động theo hướng đó làm
việc dịch chuyển vốn diễn ra phù hợp với quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế, góp phần phát huy thế mạnh của
những ngành kinh tế mũi nhọn, tiết kiệm nguồn nhân lực xã
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hội đi đôi với việc thực hiện chính sách phát triển có trọng tâm,
trọng điểm từ đó thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế.
Hoạt động cho vay cũng tác động đáng kể đến cơ cấu kinh tế

theo thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp. Đó là việc
NHTM mở rộng việc cho vay tới các doanh nghiệp ngoài nhà
nước, xóa bỏ sự phân biệt về điều kiện, thủ tục vay vốn, lãi
suất cho vay,… nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng
hơn giữa các thành phần kinh tế.
Thứ tư, hoạt động cho vay của ngân hàng góp phần đẩy nhanh
tốc độ luân chuyển vốn và tạo tiền.
Nhờ sự ra đời của hoạt động tín dụng ngân hàng mà giờ đây,
các nhà sản xuất không cần phải đợi cho hàng hóa của mình
sản xuất ra thực hiện hết vòng chu chuyển của nó mới có thể
tiến hành chu kỳ tái sản xuất tiếp theo, mà gần như họ có thể
làm được việc này vào bất kỳ lúc nào. Xét ở góc độ toàn bộ
nền kinh tế, thì tín dụng ngân hàng đã thực hiện vai trò đẩy
nhanh tốc độ chu chuyển của vốn, nhờ đó quá trình tái sản xuất
ra của cải vật chất cho xã hội vì thế mà tăng lên.
Bằng khả năng tạo tiền, các NHTM đóng vai trò quan trọng
trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng
trung ương bở vì nó trở thành một kênh quan trọng cung ứng
tiền cho lưu thông, hoặc ngược lại, rút bớt tiền khỏi lưu thông.
Thứ năm, hoạt động cho vay còn góp phần mở rộng và phát
triển kinh tế đối ngoại. Do xu hướng toàn cầu hóa, hoạt động
cho vay của NHTM không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc
gia mà đã được mở rộng và trở thành một bộ phận của hệ thống
tài chính thế giới. Các doanh nghiệp được ngân hàng cho vay
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
để sản xuất, chế biến, thu mua, chuyên chở hàng hóa xuất khẩu
ra nước ngoài. Còn nhập khẩu, ngân hàng cho vay vốn để thực
hiện phương án, dự án của mình. Bằng các hoạt động đa dạng

của mình, hoạt động tín dụng đã thể hiện vai trò của mình
trong việc thúc đẩy ngoại thương phát triển.
1.1.2.2. Đối với NHTM.
Thứ nhất, thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm phần lớn thu
nhập của NHTM (khoảng 70%). Do đó, tăng cường mở rộng
hoạt động cho vay là biện pháp để tăng doanh thu hữu hiệu của
NHTM.
Thứ hai, đó cũng là công cụ cạnh tranh giữa các NHTM, nhằm
mở rộng thị phần cho vay, thu hút thêm nhiều khách hàng tiềm
năng trong nền kinh tế.
Thứ ba, góp phần tăng uy tín và quy mô cho NHTM. Việc
không ngừng mở rộng hoạt động cho vay sẽ tăng thêm thu
nhập cho NHTM, tăng nguồn vốn tự có của ngân hàng và là cơ
hội để ngân hàng tăng cường đầu tư mở rộng hoạt động của
mình.
1.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 1999 (sửa đổi năm 2005) đã định nghĩa:
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các doanh nghiệp vốn trong nước
mà nguồn vốn thuộc sở hữu tập thể, tư nhân một người hoặc một nhóm người;
hoặc thuộc sở hữu Nhà nước nhưng chiếm từ 50% vốn điều lệ trở xuống. Bao
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
gồm các hình thức: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp doanh, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã.
1.2.2. Đặc điểm của DNNQD tại Việt Nam

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã đánh giá về sự tồn tại cần
thiết và khách quan của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong cơ cấu nền
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Tiếp theo đó, Luật Công ty và Luật
DNTN tạo ra hành lang pháp lý đầu tiên và hết sức quan trọng cho các
DNNQD phát triển.
• Về số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Số lượng DNNQD tăng lên nhanh chóng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
số doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Nếu như năm 1991 chỉ có 414 doanh
nghiệp, thì sau một năm (1992) tăng lên 5.189 doanh nghiệp, năm 1995 là
15.276 doanh nghiệp, năm 1998 có 39.180 doanh nghiệp và đến năm 1999
tổng số doanh nghiệp khu vực kinh tế ngoài quốc doanh lên đến 45.601.
Cùng với các chính sách đổi mới, Luật Doanh nghiệp (1999) (sửa đổi
năm 2005) là khâu đột phá trong cải cách kinh tế và hành chính, tạo môi
trường và điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các DNNQD phát triển. Do đó,
khu vực kinh tế tư nhân đã có bước phát triển vượt bậc về số lượng doanh
nghiệp.
Bảng 1.1.Số doanh nghiệp đăng ký mới qua các năm
Loại hình
DNNQD
1991 -
1999
2000 2001 2002 2003 2004 2005
DNTN 29.135 6.412 2.229 6.532 7.085 10.246 11.366
Cty TNHH 15.310 7.304 7.179 12.627 15.120 20.145 20.674
Cty cổ phần 524 726 1.243 2.305 3.715 6.470 6.675
Cty hợp danh 2 0 0 1 7 8
Cty TNHH
1 thành viên
0 0 59 88 125 130
Tổng số 44.962 14.444 21.040 21.523 26.009 36.993 38.144

(Nguồn: Trung tâm thông tin DN – Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sau 6 năm thi hành Luật Doanh nghiệp, từ 1/1/2000 đến 31/12/2005 đã
có 158.153 doanh nghiệp đăng ký mới, đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký
hoạt động theo Luật lên 203.115. Số doanh nghiệp đăng ký trung bình mỗi
ngày thời gian này bằng 3,75 lần so với trung bình hàng năm của thời kỳ 1991
– 1999. Số doanh nghiệp mới đăng ký trong 5 năm (2000 – 2005) cao gấp 3
lần so với 9 năm trước, tăng bình quân là 25%, đưa tỷ lệ bình quân số doanh
nghiệp hiện nay trên 1 vạn dân là 25. Do đó, tính đến năm 2004 doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chiếm khoảng 91,55% tổng số doanh nghiệp hiện có.
• Về quy mô của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Mặc dù vậy, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam vẫn
có quy mô tương đối nhỏ, chiếm 96% số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV) theo tiêu chí được xác định trong Nghị định 90/2001/NĐ-CP về hỗ
trợ các DNNVV là: “DNNVV là các đơn vị kinh doanh trong nước có đăng
ký kinh doanh, có số vốn dưới 10 tỷ đồng và số lao động thường xuyên
không quá 300 người”.
Cụ thể, theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê thì đến hết năm
2004, số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vốn dưới 500 triệu chiếm
27,49%, số doanh nghiệp có vốn từ 500 triệu đến 1 tỷ chiếm 19,16% và số
doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đến 5 tỷ chiếm 37,87%, và 15,46% là số doanh
nghiệp có vốn từ 5 tỷ trở lên. Bình quân một DNNQD có khoảng 5,03 tỷ đồng
vốn. Quy mô về vốn của các DNNQD rất nhỏ so với các doanh nghiệp khác,
chỉ bằng khoảng 2,05% so với các doanh nghiệp Nhà nước và bằng 3,83% so
với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, số vốn đầu tư
đăng ký thành lập mới và mở rộng quy mô sản xuất của các DNNQD tăng
nhanh, trong 5 năm từ năm 2001 đến 2005 đạt 293.878 tỷ đồng Việt Nam
(tương đương khoảng 18,4 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài vào

Việt Nam trong cùng kỳ).
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bên cạnh đó, quy mô lao động của các doanh nghiệp cũng nhỏ, số
doanh nghiệp có dưới 10 lao động chiếm tới 52,58%, từ 10 đến dưới 50 lao
động chiếm khoảng 36,72%, còn lại là các doanh nghiệp có từ 50 lao động trở
lên. Tính đến năm 2005, bình quân một DNNQD có khoảng 29 lao động,
trong khi đó một doanh nghiệp nhà nước có khoảng 490 lao động, bình quân
một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 331 lao động.
Như vậy, phần lớn các DNNQD ở Việt Nam là thuộc loại hình doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Bởi lẽ, các DNNQD chỉ mới thực sự tồn tại và hoạt động
trong thời gian chưa dài do đó còn nhiều hạn chế về khả năng tích lũy và huy
động vốn để mở rộng sản xuất và quy mô.
• Về công nghệ:
Trang bị máy móc thiết bị thường cũ kỹ, lạc hậu. Theo số liệu thống kê
thì ở các DNNQD chỉ có khoảng 20% thiết bị hiện đại, 55% thiết bị ở mức
trung bình còn lại là thiết bị lạc hậu. Một phần là do khả năng tài chính của
các DNNQD còn nhiều hạn chế, hơn nữa với nguồn vốn tự có các DNNQD
cũng gặp khó khăn trong việc đáp ứng điều kiện để có thể vay vốn trung và
dài hạn để đầu tư đổi mới công nghệ và các tài sản cố định khác.
• Về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Mặc dù trong những năm gần đây, hoạt động sản xuất kinh doanh của
các DNNQD có bước tiến bộ rõ rệt, nhưng nhìn chung hiệu quả kinh doanh
còn thấp.
Doanh thu thuần của các DNNQDl liên tục tăng trong các năm liên tiếp
và năm 2004 đạt bình quân 7,587 tỷ đồng/1 doanh nghiệp. Nhưng so với
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì đây vẫn
là con số khiêm tốn. Thêm vào đó, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn của các DNNQD
thấp, 1 đồng vốn hoạt động trong 1 năm tạo ra khoảng 2,3% đồng lãi. Mức tỷ

suất lợi nhuận này còn thấp hơn nhiều so với mức lãi suất tiền vay.
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Với công nghệ lạc hậu, quy mô vốn và lao động nhỏ, các DNNQD sản
xuất ra những sản phẩm thiếu tính cạnh tranh, chưa chiếm lĩnh được thị
trường, sản xuất kinh doanh không mang lại hiệu quả…
1.2.3. Vai trò của DNNQD trong nền kinh tế.
• Đóng góp của các DNNQD vào ngân sách Nhà nước ngày càng
nhiều, từ hơn 6% đầu những năm 2000 tăng lên đến 7,5% năm 2005. Ngoài
ra, các DNNQD đã đóng góp phần tăng nguồn thu như thuế môn bài, thuế
VAT trong nhập khẩu và các loại phí khác. DNNQD phát triển là nhân tố
quan trọng kích thích và làm sống động đời sống kinh tế đất nước, tạo áp lực
cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước đổi mới hoạt động kinh
doanh, góp phần phá bỏ tính độc quyền của một số công ty nhà nước.
• Đóng góp về xuất nhập khẩu và tăng nguồn thu ngân sách, theo Bộ
Thương mại, hiện thời DNNQD trong nước đóng góp khoảng một nửa tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. DNNQD là nguồn lực chủ yếu phát triển
các mặt hàng mới, mở rộng thị trường xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp đã
vươn lên chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về một số mặt hàng quan trọng, ở
các địa phương, DNNQD đóng vai trò chủ yếu về xuất khẩu.
• DNNQD chính là nơi thu hút, tạo việc làm cho xã hội: đã tạo ra
khoảng 2 triệu chỗ làm mới. Sự phát triển của DNNQD không chỉ góp phần
tạo việc làm mà còn có tác dụng đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động
vốn đang mất cân đối và góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và xóa đói
giảm nghèo.
• DNNQD góp phần quan trọng trong việc tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập
kinh tế của Việt Nam sẽ không thực hiện được nếu không có sự tham gia của
DNNQD. Bên cạnh đó, DNNQD phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của các

Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
loại thị trường như: thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường lao động, thị
trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ.
1.2.4. Ưu điểm và nhược điểm của các DNNQD.
1.2.4.1. Ưu điểm.
• DNNQD vừa năng động, vừa nhạy bén, dễ thích ứng với thay đổi
của thị trường.
Đây là ưu thế vượt trội của doanh nghiệp này, với quy mô nhỏ
và vừa, bộ máy quản lý gọn nhẹ. DNNQD dễ dàng tìm kiếm và
đáp ứng các yêu cầu có hạn trong những thị trường chuyên
môn hóa. Mặt khác, DNNQD thường có mối quan hệ trực tiếp
với thị trường và người tiêu dùng nên có phản ứng nhanh nhạy
với sự kiện và sự biến động của thị trường. Với cớ sở vật chất
kỹ thuật không lớn, DNNQD có thể đổi mới linh hoạt hơn, dễ
dàng chuyển đổi sản xuất hoặc thu hẹp quy mô mà không gây
ra hậu quả nặng nề cho xã hội.
DNNQD có khả năng tạo ra một lượng cung hàng hóa và dịch
vụ có thể đáp ứng đầy đủ, kịp thời với giá cả hợp lý cho những
nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Chính nhờ tính linh
hoạt và khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường mà loại hình
doanh nghiệp này có khả năng đổi mới. Do đó, tự nó đã thể
hiện các chức năng kinh tế to lớn đối với xã hội.
• DNNQD có thể tạo lập dễ dàng, đem lợi nhuận với chi phí cố định
thấp.
Để thành lập một DNNQD chỉ cần mốt số vốn ban đầu thấp, mặt bằng sản
xuất nhỏ hẹp, quy mô nhà xưởng không lớn. Với ưu thế nhỏ gọn, năng động,
dễ quản lý, không cần nhiều vốn, các DNNQD linh hoạt trong việc học hỏi,
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B

12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phát triển và tránh những thiệt hại to lớn do môi trường kinh doanh tác động
lên.
• DNNQD có thể phát huy tiềm lực trong nước.
Thành công lớn của DNNQD là nắm bắt được các điều kiện cụ
thể của đất nước về tài nguyên và lao động. Đối với các doanh
nghiệp lớn, việc sử dụng các nguồn lực sẵn có tại địa phương
thường gặp khó khăn do trữ lượng tháp không đảm bảo cho các
doanh nghiệp sản xuất lớn. Ngược lại, các doanh nghiệp quy
mô vừa và nhỏ lại có lợi thế trong việc sử dụng lao động tại
địa phương và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sản xuất sẵn có,
phát huy hết tiềm lực trong nước cho sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, đối với các nước đang trong quá trình công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước, sự phát triển DNNQD là cách thức
tốt nhất để sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu. Với lượng
vốn và trình độ kỹ thuật công nghệ của mình, DNNQD có thể
sản xuất một số mặt hàng thay thế nhập khẩu, phù hợp với sức
mua của dân chúng, góp phần ổn định đời sống dân cư, ổn định
xã hội, tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.4.2. Nhược điểm
Bên cạnh sự phát triển và những đóng góp trên, DNNQD Việt Nam
trong những năm qua còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Đó là:
• Phần lớn quy mô các doanh nghiệp nhỏ, đại đa số (trên 85%) có mức
vốn dưới 1 tỷ đồng. Trừ số doanh nghiệp vừa và lớn có công nghệ sản xuất
khá hiện đại, còn lại hầu hết là công nghệ lạc hậu, sản xuất thủ công, bán cơ
khí và cơ khí không có khả năng cạnh tranh trên thị trường . Dẫn đến tình

trạng kinh doanh không ổn định, không có định hướng lâu dài.
• DNNQD hiện nay rất thiếu vốn sản xuất, phải vay ở thị trường không
chính thức với lãi suất cao và thời gian ngắn, khó tiếp cận các nguồn tín dụng
của các NHTM, nhất là nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước. Nguyên nhân chủ
yếu là do các doanh nghiệp không có tài sản thế chấp; nhiều doanh nghiệp của
tư nhân thiếu thông tin để tiếp cận với các nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước.
• Khó khăn của bản thân các DNNQD trong việc duy trì hiệu quả kinh
doanh trong khoảng thời gian dài và đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị
trường. Nguyên nhân chính của tình trạng này là: DNNQD mới ở tình trạng
thấp; tổ chức quản lý trên thực chất, theo kiểu gia đình; loại hình công ty
TNHH có phát triển nhưng quy mô sản xuất nhỏ, trình độ công nghệ thấp, khả
năng tích tụ vốn và huy động vốn thấp, trình độ và kỹ năng quản lý yếu,
không thu hút được lao động có tay nghề cao được đào tạo cơ bản; nhiều
doanh nghiệp kinh doanh không có chiến lược, mang nặng tính “chụp giật”,
kinh doanh không ổn định; tính lien kết, tinh thần hợp tác trong kinh doanh
giữa các doanh nghiệp còn thấp, nên khó tạo được sức mạnh chung trên cơ sở
phát huy lợi thế so sánh của từng cơ sở.
• Các doanh nghiệp còn gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu, thiếu thị
trường tiêu thụ sản phẩm, năng suất lao động thấp.
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có thể nói, DNNQD Việt Nam phát triển với tốc độ cao, nhưng
không bền vững, còn yếu thế trong bối cảnh mở cửa nền kinh
tế và phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế trong thời gian tới.
1.3. Hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD của NHTM.
1.3.1. Đặc điểm hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD.
Theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN định nghĩa: “Cho vay ngắn
hạn là những khoản cho vay có thời hạn đến 12 tháng”. Do đó các khoản vay
ngắn hạn có những đặc điểm riêng như sau:

- Thời hạn cho vay: như định nghĩa ở trên thì các khoản cho vay
ngắn hạn có thời hạn dưới 1 năm.
- Mục đích: Hầu hết các khoản cho vay này là nhằm hỗ trợ cho việc
tăng dự trữ hàng hóa cho những nguời vay hoạt động theo mùa vụ, hoặc tài
trợ người vay về những nhu cầu vốn ngắn hạn, và phục vụ cho từng dự án.
- Nguồn hoàn trả: Các khoản vay sẽ được hoàn trả khi doanh
nghiệp thu được tiền, cụ thể là khi hàng tồn kho của người vay được bán và
các khoản phải thu của nó đã được thu hồi, hoặc ngay khi doanh nghiệp thu
được doanh thu của dự án.
- Lãi suất của khoản vay: Lãi suất được tính trên số vốn thực vay và
là lãi suất thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng của mình. Và lãi suất cho
vay ngắn hạn đối với các DNNQD thì thấp hơn lãi suất cho vay trung và dài
hạn đối với các doanh nghiệp cùng loại, và thấp hơn lãi suất đối với cho vay
cá nhân cùng kỳ hạn.
Lãi suất cho vay có thể được thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng
tín dụng với một trong hai cách thức dưới đây:
 Lãi suất cho vay cố định: là mức lãi suất cho vay áp dụng trong suốt
thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng
 Lãi suất cho vay thả nổi: là mức lãi suất cho vay thay đổi theo định kỳ
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm.
Đối với các khoản vay bằng VND, lãi suất thả nổi thường
được xác định dựa trên thông báo về lãi suất của chính NHTM
hoặc là lãi suất cho vay của một nhóm các NHTM tại thời điểm
xác định phải thay đổi lãi suất.
Đối với các khoản vay bằng USD, lãi suất cho vay thả nổi
thường được xác định dựa trên thông báo về lãi suất chào cho
vay trên thị trường liên ngân hàng của một NHTM xác định tại

thị trường London hoặc Singapore ( Libor, Sibor).
Tuy nhiên đối với các khoản cho vay ngắn hạn thường được sử
dụng lãi suất cho vay cố định vì cả bên vay và bên đi vay đều
có thể lường trước mức độ thiệt hại về tài chính trong trường
hợp có biến động trên thị trường lãi suất.
- Tài sản đảm bảo:
Các khoản cho vay ngắn hạn này thường được đảm bảo bằng
hàng tồn kho, tài khoản phải thu, hoặc tài sản cố định có giá trị
lớn hơn hoặc tương đương khoản vay.
Tuy nhiên, đối với những khách hàng có khả năng tài chính tốt,
uy tín với ngân hàng, hoặc khoản cho vay ngắn hạn chỉ chiếm
tỷ trọng nhỏ so với vốn chủ của doanh nghiệp thì ngân hàng có
thể cho vay không cần tài sản đảm bảo.
- Mức độ rủi ro:
Từ các đặc điểm trên có thể thấy cho vay ngắn hạn có mức độ
rủi ro tương đối thấp hơn các loại hình cho vay khác. Vì với
thời hạn cho vay ngắn, ít có thể xẩy ra những biến động về tình
hình kinh tế - xã hội có thể ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp mà cả doanh nghiệp và ngân hàng không
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lường trước được. Bên cạnh đó, số vốn vay thường nhỏ so với
vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp hoặc có tài sản đảm bảo nên
ngân hàng đã sẵn có nguồn thu nợ thứ hai, do đó khả năng thu
hồi nợ của ngân hàng tương đối cao.
- Nguyên tắc cho vay:
 Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi.
Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận nguồn
vốn của ngân hàng là nguồn huy động của khách hàng. Khi

khách hàng có nhu cầu rút vốn, ngân hàng phải có nghĩa vụ
đáp ứng. Nếu các khoản vay không được hoàn trả đúng hạn, thì
sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Bên cạnh đó, ngân hàng hoạt động vì mục tiêu tối đa hóa giá trị
tài sản của chủ, hoạt động chính của ngân hàng có thể nói là
“đi vay để cho vay”. Vì vậy, chỉ khi thu được lãi từ các khoản
tín dụng, ngân hàng mới có thể bù đắp được chí phí cho các
nguồn huy động, cũng như những chi phí hoạt động khác. Đây
là điều kiện giúp cho ngân hàng kinh doanh có hiệu quả để có
thể tồn tại và phát triển.
 Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích
Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích
đã được thỏa thuận với ngân hàng và không được trái với các
quy định của Pháp luật. Việc giám sát các doanh nghiệp sử
dụng vốn đúng mục đích không chỉ thúc đẩy các đơn vị hoàn
thành nhiệm vụ sản xuất của mình mà còn hạn chế những rủi ro
cho ngân hàng.
Đây không chỉ là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt
động của ngân hàng. Hiệu quả của nó là đẩy nhanh nhịp độ
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phát triển của nền kinh tế, góp phần tạo ra nhiều khối lượng
sản phẩm, dịch vụ hơn cho xã hội…
 Ngân hàng tài trợ cho dựa trên phương án có hiệu quả
Trước khi cấp vốn cho khách hàng, ngân hàng đều yêu cầu
khách hàng trình bày phương án sử dụng vốn vay. Vì chỉ có
những phương án hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì người
vay mới có khả năng thu hồi vốn đầu tư và lãi để trả cho ngân
hàng.

Với những trường hợp ngân hàng nhận thấy dự án có rủi ro có
thể ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng có tài sản đảm bảo cho
khoản vay. Đây sẽ là một phương tiện để thu hồi nợ, đảm bảo
an toàn cho hoạt động của ngân hàng.
1.3.2. Vai trò của hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD của
NHTM.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại nói chung, hoạt động cho
vay ngắn hạn đối với DNNQD nói riêng đều thể hiện những vai trò quan
trọng không chỉ với ngân hàng mà với cả nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên,
hoạt động cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại với khu vực kinh tế tư
nhân đã và đang ngày càng thể hiện rõ tầm quan trọng riêng có đối với các
DNNQD cũng như với bản thân các ngân hàng.
1.3.2.1. Đối với DNNQD.
Thứ nhất, góp phần cung ứng nguồn vốn với chi phí rẻ cho các DNNQD.
Luôn phải tận dụng các nguồn lực với chi phí rẻ nhất là điều kiện tiên
quyết để các doanh nghiệp gia tăng lợi nhuận của mình. Đặc biệt với các
DNNQD khi mà quy mô vốn còn hạn chế thì việc tìm kiếm nguồn vốn trong
ngắn hạn với chi phí thấp và thời gian ngắn lại càng đóng vai trò quan trọng.
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Để có thể huy động vốn thông qua hoạt động phát hành cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán, các doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện về tổ
chức niêm yết theo quy định của Ủy ban chứng khoán nhà nước. Với các
DNNQD có quy mô vừa và nhỏ thì khó có thể đáp ứng được điều này. Mặc
dù với mức rủi ro cho doanh nghiệp thấp vì rủi ro của doanh nghiệp sẽ được
chia đều cho những cổ đông nhưng việc phát hành cổ phiếu ra thị trường đồng
nghĩa với việc sản sẻ quyền sở hữu doanh nghiệp. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến
khả năng quản lý và điều hành của doanh nghiệp. Thêm vào đó, cổ tức cho
các cổ đông sẽ được lấy từ lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp nên sẽ ảnh

hưởng đến phần lợi nhuận giữ lại để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Nên mặc dù đây là nguồn vốn có chi phí tương đối rẻ
nhưng không phù hợp với việc sử dụng trong thời gian ngắn và khả năng huy
động nhanh để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Ngoài việc tăng nguồn vốn bằng việc phát hành cổ phiếu mới, các doanh
nghiệp có thể thu hút vốn từ việc phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, với uy tín
và quy mô vốn của các doanh nghiệp thì khó có thể tạo nên sự hấp dẫn cho
trái phiếu trên thị trường, do đó lãi suất của trái phiếu phải cao hơn so với lãi
suất tiền gửi tiết kiệm của các ngân hàng thương mại. Chi phí trả lãi cho trái
phiếu phát hành sẽ tạo nên một áp lực trả nợ lớn cho các doanh nghiệp. Cũng
như với phát hành cổ phiếu, việc tăng vốn nợ bằng phát hành trái phiếu không
phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể áp dụng được và không thể huy động
trong ngắn hạn.
Ngược lại, vay ngắn hạn ngân hàng có thể giúp các doanh nghiệp chủ
động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình mà vẫn giữ được quyền sở
hữu doanh nghiệp. Có thể vay vốn từ ngân hàng với khối lượng linh hoạt và
thời gian nhanh chóng chính là ưu thế hơn hẳn so với hai cách gia tăng nguồn
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vốn nợ trên. Ngoài ra, chi phí trả lãi vay ngân hàng sẽ được tính vào chi phí
hoạt động của doanh nghiệp và tạo nên một khoản tiết kiệm nhờ thuế, làm
tăng lợi nhuận sau thuế cho doanh nghiệp. Mặc dù, tỷ lệ nợ quá cao sẽ làm
ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp, tăng rủi ro và giảm giá
cổ phiếu. Tuy nhiên đây là nguồn có chi phí tương đối rẻ so với các nguồn
còn lại. Việc chấp nhận rủi ro trong ngắn hạn để đạt được sự phát triển trong
tương lai là một quyết định mà các doanh nghiệp nên cân nhắc.
Thứ hai, cho vay ngắn hạn của NHTM là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho
các DNNQD để thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các DNNQD.

Như chúng ta đã biết, quy mô vốn nhỏ là rào cản lớn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Với lượng vốn tự có,
doanh nghiệp chỉ có thể đủ để tự trang bị các tài sản cố định như: nhà xưởng,
máy móc thiết bị. Nhưng để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh
nghiệp không thể thiếu vốn lưu động. Nguồn vốn từ vay ngắn hạn ngân hàng
đã bổ sung kịp thời cho sự thiếu hụt đó, giúp cho công việc kinh doanh diễn
ra bình thường, liên tục và có hiệu quả.
Trong quá trình từ khi sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa, vốn của doanh
nghiệp có thể bị găm giữ lại trong một số khâu như khi doanh nghiệp ứng
trước tiền cho người cung cấp, bán chịu cho người bán lẻ, hàng tồn kho… Sự
chậm trễ đó sẽ làm giảm tốc độ luân chuyển vốn, giảm vòng quay của vốn và
ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó để có thể bắt đầu một chu
kỳ sản xuất kinh doanh mới, hoạt động cho vay ngắn hạn của ngân hàng
thương mại đã cung ứng lượng vốn cần thiết cho doanh nghiệp.
Còn đối với các DNNQD hoạt động kinh doanh có thời vụ, nhu cầu vốn
lưu động sẽ tăng cao khi cần chuẩn bị sản xuất phục vụ mùa vụ đó như nhu
cầu mua nguyên vật liệu mới, nhập kho bán thành phẩm,… Khi đó các doanh
nghiệp sẽ tìm kiếm nguồn tài trợ từ phía ngân hàng để có thể tiến hành hoạt
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
động sản xuất. Lượng vốn lưu động từ nguồn vốn vay ngắn hạn ngân hàng sẽ
giúp các doanh nghiệp có nắm bắt kịp thời nhu cầu của xã hội, nâng cao lợi
nhuận cho doanh nghiệp, từ đó góp phần tăng lợi nhuận tích lũy để mở rộng
quy mô sản xuất kinh doanh và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp.
Như vậy, nhờ có thể vay vốn ngắn hạn của các NHTM mà các DNNQD
có được vốn lưu động cần thiết để không những nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh mà còn có cơ hội để tái sản xuất mở rộng. Các doanh nghiệp cũng
có thêm cơ hội nâng cao chất lượng của các nguyên vật liệu đầu vào, sản xuất
đồng thời nhiều hàng hóa để từ đó có thể cung ứng ra những sản phẩm với

chất lượng cao và đa dạng về mẫu mã chủng loại, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu
của xã hội.
Thứ ba, cho vay ngắn hạn giúp các DNNQD sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Vai trò này bắt nguồn từ chức năng giám sát của NHTM với tư cách là
người cho vay đối với các DNNQD. Các NHTM chỉ cho vay sau khi đã sàng
lọc cẩn thận khách hàng của mình từ khâu thẩm định hồ sơ của doanh nghiêp
và ngân hàng phải thấy rõ được hiệu quả món vay, năng lực tài chính lành
mạnh và có năng lực quản trị, có khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng.
Ngân hàng cũng kiểm soát chặt chẽ khách hàng trong quá trình sử dụng món
vay vào đúng mục đích, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất cho
vay của ngân hàng thì mới bảo đảm có lãi sau khi hoàn trả nợ cho ngân hàng.
Ngân hàng còn đóng vai trò tư vấn giúp các doanh nghiệp xác định phương
hướng sản xuất kinh doanh phù hợp, hiệu quả, những mặt yếu kém và biện
pháp khắc phục để hạn chế tối đa rủi ro có thể xẩy ra.
Mặt khác, áp lực phải trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng sẽ tạo nên động
lực để các doanh nghiệp phải sử dụng món vay có hiệu quả nhất để cao năng
suất và làm gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Áp lực phải trả nợ cũng làm
các doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng hơn trước khi đưa ra các quyết định
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mới, giảm thiểu các phương án có tính rủi ro cao. Duy trì hoạt động sản xuất
kinh doanh tốt, trả nợ đúng hạn còn là mục tiêu của các doanh nghiệp để có
thể tạo lập mối quan hệ lâu dài với ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh là động lực để phát triển nền
kinh tế. Các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ bị phá sản, chỉ có các doanh
nghiệp kinh doanh có lãi mới có khả năng đứng vững trên thị trường. Do đó
các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh với nhau để có thể tồn tại, phát triển và
khẳng định vị thế của mình. Các DNNQD để có thể hoạt động hiệu quả, tăng
cao giá trị tài sản của chủ chỉ khi các doanh nghiệp phát huy tối đa tính năng

động, sáng tạo của mình. Đặc biệt khi các doanh nghiệp này cạnh tranh với
các doanh nghiệp có vốn đầu tư lớn, trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy, các
DNNQD phải chủ động hơn trong việc nắm bắt những cơ hội, tìm kiếm
những hướng đi mới phù hợp với nguồn lực hiện có của doanh nghiệp. Khi
đó, nguồn vốn vay ngắn hạn từ ngân hàng thương mại cùng với sự tư vấn của
nó có thể giúp doanh nghiệp chớp lấy cơ hội và dành hiệu quả cao.
1.3.2.1. Đối với ngân hàng thương mại
Thứ nhất, cho vay ngắn hạn góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng.
Cho vay là hoạt động chủ yếu của các NHTM ở Việt Nam hiện nay. Đây
cũng là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng, và là phần bù
đắp chi phí bỏ ra để huy động nguồn vốn và các chi phí hoạt động khác của
ngân hàng. Do đó, mở rộng cho vay ngắn hạn sẽ làm tăng thu nhập từ lãi, từ
đó làm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Các NHTM nước ta phần lớn có quan hệ truyền thống với các doanh
nghiệp nhà nước. Đây là đặc điểm xuất phát từ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung
trước đây. Các DNNN đang ngày càng bị thu hẹp do hoạt động không có hiệu
quả, tính năng động và nhạy bén thấp. Do đó, hoạt động cho vay của ngân
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng đối với khu vực này cũng bị thu hẹp dần, và làm giảm thu nhập từ lãi
của ngân hàng.
Ngoài ra, các ngân hàng hiện nay đang phải đối mặt với sự cạnh tranh
gay gắt trên thị trường trên mọi lĩnh vực. Do khan hiếm về nguồn vốn, các
ngân hàng không ngừng đẩy mạnh hoạt động huy động nguồn tiền nhàn rỗi
trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Sự cạnh tranh mạnh mẽ đó buộc các
ngân hàng phải chấp nhận cuộc chạy đua lãi suất. Như vậy, chi phí hoạt động
sẽ tăng lên và làm ảnh hưởng đến lợi nhuận thu được của ngân hàng.
Từ cả hai lý do trên, để có thể duy trì và làm tăng thu nhập của mình, các
ngân hàng phải thực hiện việc mở rộng hoạt động cho vay đối với những

khách hàng tiềm năng. Số lượng lớn của DNNQD thực sự sẽ là một thị trường
đầy tiềm năng cho ngân hàng.
Thứ hai, cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD là hoạt động làm giảm rủi
ro cho NHTM.
Phần lớn nguồn vốn của ngân hàng có được là từ huy động tiền gửi tiết
kiệm trong dân cư. Nguồn vốn này chủ yếu có kỳ hạn ngắn dưới 12 tháng.
Ngân hàng phải đáp ứng khả năng chi trả ngay khi khách hàng có nhu cầu rút
tiền. Vì thế sẽ tạo nên rủi ro thanh khoản cao nếu ngân hàng sử dụng nguồn
ngắn hạn này để đầu tư dài hạn. Sự phù hợp về kỳ hạn giữa nguồn huy động
và nguồn sử dụng không chỉ làm tăng thu nhập mà còn là biện pháp giảm tối
đa rủi ro cho hoạt động của ngân hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động sử dụng
nguồn vốn của NHTM.
Chính vì vậy, mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNNQD không
chỉ mang lại lợi ích cho chính các NHTM mà còn có còn có tác dụng to lớn
thúc đẩy sự phát triển của các DNNQD nói riêng, và của cả nền kinh tế quốc
dân nói chung.
1.3.3. Các loại hình cho vay ngắn hạn đối với DNNQD của NHTM.
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.3.3.1. Phân loại theo mục đích sử dụng vốn vay.
1.3.3.1.1. Cho vay mua hàng dự trữ.
Các khoản cho vay này chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho
việc mua hàng dự trữ như nguyên liệu thô hoặc hàng hóa
(thành phẩm).
Các khoản cho vay này thường tận dụng “chu kỳ tiền mặt”
thông thường trong một hãng kinh doanh. Do vậy, kỳ hạn của
khoản vay bắt đầu được tính từ khi doanh nghiệp cần vốn để
đáp ứng yêu cầu mua hàng, kết thúc (có thể trong vòng từ 60
đến 90 ngày) khi doanh nghiệp thu được tiền bán hàng và nhập

vào tài khoản để trả nợ cho ngân hàng.
1.3.3.1.2. Cho vay vốn lưu động
Các khoản cho vay vốn lưu động thường được dùng để đáp
ứng sản xuất và nhu cầu tín dụng trong các thời kỳ quan trọng
của chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như mua hàng dự trữ
hoặc mua nguyên vật liệu…
Các khoản cho vay vốn lưu động có thời hạn từ vài ngày đến 1
năm, và thường được đảm bảo bằng các khoản phải thu hoặc
được thế chấp bằng hàng tồn kho và doanh nghiệp sẽ chịu lãi
suất (thường là) thả nổi trên lượng tiền vay thực tế họ sử dụng.
1.3.3.1.3. Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng
Các khoản cho vay này nhằm hỗ trợ các công trình xây dựng
nhà ở, các toà nhà văn phòng, trung tâm thương mại và các
công trình khác. Các khoản cho vay này này cung cấp vốn cho
bên thi công để thuê nhân công, thuê thiết bị xây dựng, mua vật
liệu xây dựng và giải phóng mặt bằng. Do đó, dù thời gian xây
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dựng công trình kéo dài nhưng các khoản cho vay lại chỉ mang
tính tạm thời.
Khi giai đoạn xây dựng kết thúc, bên thi công thường vay thế
chấp dài hạn từ các tổ chức tài chính khác để lấy tiền thanh
toán cho các khoản vay xây dựng ngắn hạn. Trong thực tế, chỉ
khi công ty xây dựng chắc chắn có được cam kết cho vay thế
chấp để tiếp tục tài trợ dài hạn cho dự án sau khi kết thúc giai
đoạn xây dựng thì ngân hàng mới thực hiện các khoản cho vay
xây dựng ngắn hạn.
1.3.3.1.4. Cho vay kinh doanh chứng khoán
Những khoản cho vay ngắn hạn này được sử dụng để hỗ trợ

cho các doanh nghiệp mua chứng khoán mới và duy trì danh
mục đầu tư chứng khoán hiện có cho tới khi các chứng khoán
này được bán hoặc đến hạn thanh toán. Các khoản cho vay này
có chất lượng cao do thường được đảm bảo bằng chứng khoán
chính phủ mà doanh nghiệp nắm giữ. Thêm vào đó, nhiều
khoản vay có kỳ hạn ngắn - chỉ là vay qua đêm hoặc vài ngày,
nhờ đó ngân hàng có thể nhanh chóng thu hồi vốn hoặc cho
vay các khoản mới với lãi suất cao hơn nếu thị trường tín dụng
trở nên căng thẳng.
Ngân hàng còn cho các doanh nghiệp vay để hỗ trợ cho hoạt
động bảo lãnh phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty và các
giấy nợ của chính phủ. Việc bảo lãnh phát hành chứng khoán
diễn ra khi ngân hàng giúp đỡ khách hàng trong việc mua lại
các công ty khác, phát hành chứng khoán lần đầu, phát hành
thêm cổ phiếu mới để tăng quy mô vốn kinh doanh hiện có,
Khæng ThÞ Hµ Linh Líp: Ng©n hµng 45B
25

×