Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Kiểm soát chi phí nâng cao hiệu quả trong doanh nghiệp xây dựng giao thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.75 KB, 100 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta luôn cần kiểm soát chi tiêu để có
tiền dành dụm, sử dụng cho các lĩnh vực khác. Các tổ chức kinh doanh, các
doanh nghiệp xây dựng giao thông được thành lập với mục đích thu được lợi
nhuận và hướng tới mục tiêu cuối cùng là thu lợi để tái đầu tư cho tương lai,
cạnh tranh, tồn tại và phát triển. Mà lợi nhuận thu được nhiều hay ít chịu ảnh
hưởng trực tiếp của những chi phí đã chi ra. Do đó, kiểm soát chi phí là vấn
đề quan trọng và mang tính sống còn đối với doanh nghiệp.
Sau khi được Bộ môn Kinh tế xây dựng giao đề tài đồ án tốt nghiệp:
“Kiểm soát chi phí nâng cao hiệu quả trong doanh nghiệp xây dựng giao
thông” em đã vận dụng những kiến thức đã học và tìm hiểu thực tế ở công ty
dưới sự hướng dẫn của thầy giáo Th.s Nguyễn Quỳnh Sang đã hoàn thành
xong đề tài của mình. Nội dung đồ án của em được thể hiện qua 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề chung về chi phí, kiểm soát chi phí trong
doanh nghiệp XDGT.
Chương 2: Thực trạng chi phí và kiểm soát chi phí của công ty CP
ĐTPT và XDGT 208.
Chương 3: Một số giải pháp kiểm soát chi phí nâng cao hiệu quả
trong công ty CP ĐTPT và XDGT 208.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Th.s Nguyễn Quỳnh Sang đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em trong suốt quá trình thực hiện đồ án.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do thời gian và khả năng có hạn nên chắc
chắn trong đồ án còn nhiều thiếu sót em mong được sự hướng dẫn, chỉ bảo
tận tình của thầy cô và đóng góp ý kiến của các bạn để đồ án được hoàn
chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Vũ Long
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


- Xây dựng giao thông : XDGT
- Đầu tư phát triển : ĐTPT
- Doanh nghiệp : DN
- Nguyên vật liệu : NVL
- Nhân công : NC
- Máy thi công : MTC
- Tài chính : TC
- Sản xuất chung : SXC
- Quản lý doanh nghiệp : QLDN
- Sản xuất kinh doanh : SXKD
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHI PHÍ, KIỂM SOÁT CHI PHÍ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG DOANH NGHIỆP XDGT
1.1.Khái quát doanh nghiệp xây dựng giao thông
1.1.1.Doanh nghiệp xây dựng giao thông
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, quy tụ các
phương tiện tài chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các hoạt động
sản xuất, cung ứng,tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi
ích của người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hóa lợi ích của chủ sở hữu,
đồng thời kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu xã hội.
Doanh nghiệp xây dựng giao thông là một dạng doanh nghiệp mà
chức năng chính của nó là sản xuất sản phẩm xây lắp, xây dựng các công
trình giao thông phục vụ giao lưu kinh tế trong xã hội.
1.1.2.Các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng
giao thông
- Sản xuất:
Theo quan niệm phổ biến trên thế giới thì sản xuất được hiểu là quá
trình tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. ở nước ta, sản xuất được hiểu là quá

trình chuyển hóa các yếu tố đầu vào biến chúng thành sản phẩm ở đầu ra.
Theo nghĩa rộng, sản xuất bao hàm bất kỳ hoạt động nào nhằm thỏa
mãn nhu cầu của con người.
- Kinh doanh:
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nó khác với các tổ chức khác ở
chỗ chúng sản xuất ra hàng hóa, hay cung cấp các loại dịch vụ với mục
đích thu được lợi nhuận nhằm mở rộng hơn hoạt động kinh doanh của
mình.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, có thể coi kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Kinh doanh là một hệ thống sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ để thỏa
mãn các nhu cầu của con người, của xã hội. Bản thân kinh doanh có thể
được coi như một hệ thống tổng thể bao gồm những hệ thống cấp dưới nhỏ
hơn là các ngành kinh doanh, mỗi ngành kinh doanh được tạo thành bởi
nhiều doanh nghiệp có quy mô khác nhau, sản xuất nhiều loại sản phẩm
khác nhau. Mỗi doanh nghiệp lại bao gồm nhiều hệ thống con như sản
xuất, tài chính, maketing…..
- Sản xuất kinh doanh:
Qua các khái niệm về sản xuất và kinh doanh, chúng ta có thể hiểu
hoạt động SXKD của doanh nghiệp là hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận
để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Chính những đặc điểm riêng biệt của sản phẩm XDGT và đặc điểm
của quá trình XDGT đã hình thành nên đặc điểm riêng về hoạt động SXKD
của DNXD. Hoạt động SXKD của DNXD cũng như các doanh nghiệp khác
trong nền kinh tế quốc dân bao gồm rất nhiều hoạt động, nhưng có ba hoạt
động được coi là hoạt động chính của DNXD là hoạt động thị trường, hoạt
động tổ chức sản xuất thi công xây dựng, hoạt động tài chính.

- Hoạt động thi trường của DNXD
Trong thời gian gần đây khi nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị trường, khái niệm " thị trường xây dựng" ở
nước ta mới được sử dụng. Thị trường xây dựng là nơi gặp gỡ giữa sự chào
hàng về khả năng và kết quả xây dựng công trình của các DNXD (người
bán) với nhu cầu xây dựng của các chủ đầu tư công trình (người mua)
nhằm đi đến ký kết hợp đồng xây dựng giữa người mua và người bán.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trên thị trường xây dựng, người bán trực tiếp bán hàng cho người
mua, không cần phải thông qua trung gian. Cạnh tranh trong thị trường này
xảy ra phổ biến dưới hình thức đấu thầu. Chính những đặc điểm này đã tạo
ra điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư lựa chọn các DNXD có khả năng tạo
ra cho mình những sản phẩm (công trình xây dựng) thỏa mãn yêu cầu mỹ
thuật và kinh tế. Và do vậy, các DNXD luôn buộc phải tìm mọi cách để
giành được những lợi thế trong cạnh tranh, nghĩa là phải tìm mọi cách để
có thể lọt vào danh sách các DNXD mà chủ đầu tư sẽ lựa chọn. Vì vậy có
thể nói hoạt động tìm kiếm hợp đồng xây dựng là một trong những hoạt
động chủ yếu của DNXD trên thị trường. Nó quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của DNXD, hoạt động này có làm tốt (ký được nhiều hợp đồng)
thì các hoạt động khác (thi công sản xuất xây dựng, bàn giao công trình,
hoạt động tài chính) mới có điều kiện thực hiện. Bên cạnh khả năng giành
được hợp đồng xây dựng thông qua đấu thầu, DNXD còn có khả năng ký
kết các hợp đồng xây dựng nếu được chủ đầu tư lựa chọn để giao thầu trực
tiếp (do uy tín và khả năng của doanh nghiệp).
Nếu như hoạt động tìm kiếm hợp đồng được xem như là hoạt động
đầu tiên trong quan hệ giữa doanh nghiệp và chủ đầu tư thì hoạt động bàn
giao, thanh quyết toán hợp đồng xây dựng và hoạt động bảo hành, bảo trì
công trình với chủ đầu tư được xem là hoạt động cuối cùng trong mối quan
hệ này đối với một hợp đồng hay một công trình cụ thể. Hoạt động bàn

giao và thanh quyết toán hợp đồng xây dựng thuộc loại hoạt động tiêu thụ
sản phẩm và là một trong những hoạt động quan trọng của DNXD. Nó có
quan hệ tích cực hay tiêu cực đến hoạt động tìm kiếm hợp đồng. Nếu doanh
nghiệp thực hiện hoạt động này tốt (đảm bảo chất lượng, đảm bảo đúng tiến
độ và đảm bảo kỹ thuật, mỹ thuật) thì sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp
trên thị trường. Từ đó tạo tiền đề cần thiết cho việc lựa chọn DNXD của
các chủ đầu tư trong đấu thầu hoặc giao thầu trực tiếp.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tóm lại, hoạt động thị trường của các DNXD bao gồm các hoạt động
về tìm kiếm thị trường, bàn giao công trình và thanh quyết toán hợp đồng
xây dựng với chủ đầu tư.
- Hoạt động tổ chức sản xuất thi công xây dựng
Hoạt động tổ chức sản xuất thi công xây dựng là hoạt động chính của
DNXD, là hoạt động trực tiếp tạo nên kết quả của việc thi công xây dựng
công trình. Chất lượng của hoạt động tổ chức thi công xây dựng công trình
chẳng những ảnh hưởng tới việc hoàn thành các hợp đồng đã ký, tới uy tín
của doanh nghiệp trên thị trường mà còn ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động tổ chức sản xuất thi công xây dựng bao gồm: công tác
chuẩn bị công trường (chuẩn bị kho bãi, đường công vụ, tổ chức lao động,
bố trí máy móc, cung ứng vật tư); công tác triển khai hoạt động thi công, tổ
chức phối hợp tốt nhất các yếu tố của sản xuất (tổ chức điều hành tác
nghiệp trên công trường); cân đối năng lực sản xuất đề cùng một lúc có thể
đảm bảo xây dựng nhiều công trình ở nhiều nơi khác nhau, tiết kiệm và
hiệu quả kinh tế.
Ngoài ra, để các quá trình thi công xây dựng công trình được tiến
hành đúng tiến độ và đạt được hiệu quả kinh tế mong muốn, đòi hỏi các
DNXD phải có bộ máy quản lý đủ năng lực điều hành sản xuất. Cho nên,
hiện nay công tác quản lý điều hành sản xuất được coi như là một nhân tố

cực kỳ quan trọng.
- Hoạt động tài chính
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã
làm nẩy sinh nhu cầu về tài chính, và điều quan trọng là nhu cầu này
thường xuyên thay đổi. Do đó hoạt động tài chính được coi là một hoạt
động quan trọng, bao trùm mọi hoạt động của doanh nghiệp và là yếu tố
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không thể thiếu được trong quá trình hoạt động SXKD của DNXD. Nó bao
gồm hoạt động tài chính liên quan đến việc sản xuất thi công xây dựng;
hoạt động tài chính trong quá trình đầu tư, mua sắm máy móc thiết bị, đổi
mới dây chuyền công nghệ…và hoạt động trên lĩnh vực đầu tư tài chính,
liên quan đến các luồng tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, đầu tư tài chính mua
bán cổ phiếu, trái phiếu…
Hoạt động tài chính là hoạt động nhằm giải quyết các mối quan hệ
kinh tế dưới hình thức tiền tệ phát sinh trong quá trình SXKD. Trong cơ
chế thị trường, DNXD có nhiều mối quan hệ tài chính khác nhau như quan
hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường (thị trường tiêu thụ, thị
trường yếu tố đầu vào, thị trường tài chính), quan hệ giữa doanh nghiệp với
ngân hàng, và quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp. Tất cả các mối
quan hệ đó đều phản ánh toàn bộ sự vận động của vốn. Doanh nghiệp phải
có trách nhiệm huy động, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất, để bảo
toàn và phát triển vốn vì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
1.1.3.Đặc điểm của doanh nghiệp xây dựng
1.1.3.1.Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của sản phẩm xây dựng
Trong điều 3 khoản 2 của Luật xây dựng đã được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 26 tháng 11
năm 2003 nêu rõ “ Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi
sức lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công
trình, được liên kết định vị với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần

trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên mặt nước, được xây dựng
theo thiết kế”
Quá trình hình thành công trình xây dựng, được hiểu theo nghĩa rộng
được bắt đầu từ giai đoạn lập tổng thể và chiến lược phát triển kinh tế xã
hội đến giai đoạn vận hành khai thác và sử dụng công trình. Mặt khác, cũng
có thể hiểu quá trình này theo nghĩa hẹp hơn bắt đầu từ giai đoạn lập báo
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cáo đầu tư xây dựng công trình đến kết thúc xây dựng, bàn giao đưa công
trình vào khai thác, sử dụng.
Tuy nhiên, dù hiểu theo cách nào thì sản phẩm xây dựng cũng chính
là các công trình xây dựng đã hoàn chỉnh được đưa vào khai thác, sử dụng.
Sản phẩm xây dựng là sản phẩm liên ngành, có nhiều lực lượng tham gia
như chủ đầu tư, các nhà thầu xây dựng, tư vấn thiết kế, các doanh nghiệp
cung cấp vật tư thiết bị, tài chính, các cơ quan quản lý Nhà nước có liên
quan.
Do vậy, khác với sản phẩm của các ngành khác, sản phẩm xây dựng
có những đặc điểm riêng biệt và chính những đặc điểm đó chi phối rất lớn
đến chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng giao thông
- Sản phẩm xây dựng giao thông có tính đơn chiếc: trong khi sản phẩm
của ngành công nghiệp và các ngành khác được sản xuất hàng loạt trong
các điều kiện ổn định, trong nhà xưởng, về chủng loại, kích thước, mẫu mã,
kỹ thuật và công nghệ được tiêu chuẩn hóa. Sản phẩm xây dựng giao thông
thường được sản xuất theo đơn đặt hàng, đơn chiếc, được sản xuất ra ở
những địa điểm, điều kiện khác nhau, chi phí cũng thường khác nhau đối
với cùng một loại sản phẩm. Khả năng trùng lặp về mọi phương diện: kỹ
thuật, công nghệ, chi phí, môi trường…rất it, ngay cả trong xu hướng công
nghiệp hóa ngành xây dựng thì ảnh hưởng của tính đơn chiếc cũng chưa
được loại trừ.
- Sản phẩm xây dựng giao thông được sản xuất tại nơi sẽ tiêu thụ nó:

Các công trình xây dựng giao thông đều được sản xuất tại một địa điểm mà
nơi đó đồng thời gắn liền với việc tiêu thụ và thực hiện giá trị sử dụng của
sản phẩm. Địa điểm tiêu thụ sản phẩm sẽ do người chủ sở hữu quyết định.
Vì vậy nếu định được nơi tiêu thụ sản phẩm thì đồng thời cũng xác định
được nơi sản xuất sản phẩm.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Sản phẩm của xây dựng giao thông chịu ảnh hưởng của điều kiện địa
lý, tự nhiên, kinh tế – xã hội của nơi tiêu thụ: Sản phẩm xây dựng giao
thông bao giờ cũng gắn liền với một địa điểm, một địa phương nhất định,
vì vậy phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương đó.
Những điều kiện đó bao gồm: địa lí, khí hậu, thời tiết, môi trường, phong
tục tập quán của địa phương đó… Đặc điểm đó chi phối tới việc thực hiện
các hoạt động sản xuất kinh doanh có liên quan như: khảo sát, thiết kế, lựa
chọn phương án thi công, kết cấu công trình, điều kiện mặt bằng thi công

Cùng một loại sản phẩm nhưng chúng cũng khác nhau trên các mặt
kinh tế, kỹ thuật khi thực hiện sản phẩm, khi một trong các điều kiện trên
có sự khác biệt. Cùng với những điều kiện về địa lý, văn hóa xã hội, còn có
hàng loạt các điều kiện khác trong thực tiễn ảnh hưởng đến sản phẩm xây
dựng giao thông như: vấn đề chủ sở hữu công trình, vấn đề đất xây dựng,
vấn đề quy hoạch của địa phương, các vấn đề môi trường, cảnh quan…
- Thời gian sử dụng dài, trình độ kỹ thuật và mỹ thuật cao: khác với
những sản phẩm thông thường, yêu cầu về độ bền vững, thời gian sử dụng
của sản phẩm xây dựng giao thông thường rất lớn, ở nhiều nước phát triển,
thời gian sử dụng một số loại sản phẩm xây dựng giao thông có thể đạt tới
hàng trăm năm hoặc lâu hơn nữa. Do đặc thù của sản phẩm xây dựng giao
thông là khi tạo ra sản phẩm không chỉ nhằm mục đích phục vụ cho nhu
cầu trước mắt mà chủ yếu để phục vụ cho nhu cầu ngày càng gia tăng
trong những năm tương lai, cho nên trước khi tiến hành sản xuất sản phẩm

phải dự đoán được những vấn đề có liên quan đến quá trình khai thác sản
phẩm sau này. Chính vì vậy nên nhu cầu xây dựng thường có xu hướng xây
dựng vĩnh cửu khi điều kiện cho phép. Mặt khác, một sản phẩm xây dựng
giao thông sau khi được hoàn thành và đưa vào sử dụng còn có tác dụng
điểm tô thêm vẻ đẹp của đất nước và cũng là một trong những cơ sở quan
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trọng để đánh giá trình độ phát triển của kinh tế – khoa học – kỹ thuật của
quốc gia đó dưới con mắt của bạn bè năm châu bốn biển. Do đó yêu cầu về
kỹ, mỹ thuật của các công trình giao thông đòi hỏi rất lớn. Cần phải kết hợp
một cách nhuần nhuyễn giữa tính cổ truyền của dân tộc với tính hiện đại,
không những phải đẹp trước mắt mà còn phải phù hợp với cảnh quan xung
quanh ở những năm tương lai.
Do thời gian sử dụng sản phẩm xây dựng giao thông là dài nên
nhiệm vụ sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn, cải tạo và mở rộng là một
nhu cầu tất yếu và đòi hỏi phải dành một khoản chi phí lớn.
- Chi phí sản xuất lớn và khác biệt theo từng công trình: giá trị sản
phẩm XDGT thường lớn hơn rất nhiều so với những sản phẩm hàng hoá
thông thường, chi phí đầu tư xây dựng công trình thường phân bổ trong
một thời kì dài.
- Tính đơn chiếc và chịu ảnh hưởng của nơi xây dựng làm cho chi phí
của từng sản phẩm xây dựng giao thông rất khác nhau: Ngay cùng một sản
phẩm có kết cấu kiến trúc giống nhau thì cũng có sự khác nhau về chi phí
sản xuất.
1.1.3.2.Đặc điểm tổ chức sản xuất xây dựng:
Các đặc điểm của sản phẩm xây dựng nêu trên đã có tác động rất lớn
đến việc tổ chức sản xuất xây dựng, dẫn đến đặc điểm của ngành sản xuất
xây dựng mang những đặc thù khác hẳn những ngành sản xuất khác. Vì
vậy, cần phải nắm rõ đặc điểm này để lưu ý những chi phí nảy sinh trong
quá trình tổ chức sản xuất xây dựng:

- Sản xuất xây dựng giao thông chỉ có tính ổn định tạm thời và có tính
lưu động cao theo vùng, khu vực, diện thi công kéo dài, khối lượng công tác
phân bố không đều. Bởi vậy, trong quá trình xây dựng, con người và công
cụ lao động luôn phải di chuyển theo vị trí xây dựng công trình. Điều này
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dẫn đến các phương án tổ chức thi công phải thay đổi sao cho phù hợp với
thời gian và địa điểm xây dựng. Do đó, gây khó khăn cho việc tổ chức sản
xuất và quản lý sản xuất, cải thiện điều kiện lao động và nghỉ ngơi của
người lao động và làm phát sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển máy móc
thiết bị, nhà xưởng, công trình tạm phục vụ thi công xây dựng
Tính lưu động của sản xuất đòi hỏi việc tổ chức bộ máy quản lý sản xuất
phải gọn nhẹ, năng động, chỉ đạo chặt chẽ kế hoạch tác nghiệp, tận dụng tối
đa các yếu tố đầu vào tại địa phương.
- Sản phẩm xây dựng giao thông có tính đa dạng cá biệt và chi phí lớn
lại được chế tạo theo đơn đặt hàng của chủ đầu tư thông qua đấu thầu cho
từng công trình. Vì vậy gây nên các tác động đến quá trình sản xuất xây
dựng như:
+ Phụ thuộc vào kết quả đấu thầu, dẫn đến các doanh nghiệp xây dựng
bị động trong việc đầu tư, đổi mới công nghệ thi công, máy móc thiết bị.
+ Giá cả sản phẩm xây dựng được định trước khi chế tạo sản phẩm
( khi tham gia đấu thầu) dẫn đến rủi ro cao do biến động của giá cả thị
trường.
- Thời gian xây dựng công trình dài: làm cho vốn đầu tư của chủ đầu
tư và vốn sản xuất của doanh nghiệp xây dựng thường bị ứ đọng tại công
trình. Điều này đòi hỏi việc tổ chức quản lý xây dựng phải tập trung thi
công dứt điểm, rút ngắn thời gian xây dựng, có chế độ thanh toán tạm ứng
vốn và các dự trữ cho sản xuất hợp lý.
- Tổ chức sản xuất xây dựng phải tiến hành ngoài trời, chịu nhiều ảnh
hưởng của các điều kiện khí hậu, đòi hỏi khi lập biện pháp tổ chức thi công

phải chú ý đến:
+ Điều kiện thời tiết của vùng, khu vực xây dựng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Các biện pháp khắc phục ảnh hưởng của thời tiết nhằm giảm tối đa
các tổn thất ngừng nghỉ việc và phải sửa chữa do các yếu tố thời tiết tác
động.
+ Nâng cao tỉ lệ cơ giới hóa trong xây dựng cũng như chế tạo các
thành phẩm hoặc bán thành phẩm trong công xưởng.
Mục đích cuối cùng của tổ chức và quản lý sản xuất xây dựng là
hoàn thành công trình đúng thời hạn, đảm bảo chất lượng và có lợi nhuận
cho doanh nghiệp. Vì vậy, cần lựa chọn phương án tổ chức thi công tối ưu,
tận dụng các nguồn vật tư, nhân lực tại địa phương để giảm giá thành xây
dựng.
1.2.Chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
Sản xuất gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của loài
người. Quá trình sản xuất là sự kết hợp của 3 yếu tố cơ bản: đối tượng lao
động, tư liệu lao động và lao động sống. Lao động là hoạt động một cách
có ý thức của người lao động tác động một cách có mục đích lên đối tượng
lao động và tư liệu lao động, qua quá trình biến đổi sẽ tạo ra sản phẩm, lao
vụ. Đó chính là sự tiêu hao ba yếu tố trên. Trong xã hội tồn tại quan hệ
hàng hóa - tiền tệ, hao phí yếu tố nguồn lực cho sản xuất, kinh doanh được
biểu hiện dưới hình thức giá trị gọi là chi phí sản xuất kinh doanh.
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao
phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp bỏ ra trong một
kỳ kinh doanh nhất định. Chi phí về lao động sống là những chi phí về tiền
lương, thưởng, phụ cấp và các khoản trích theo lương của người lao động.
Chi phí lao động vật hóa là những chi phí về sử dụng các yếu tố tư liệu lao
động, đối tượng lao động dưới các hình thái vật chất, phi vật chất, tài chính

và phi tài chính.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.2.Phân loại chi phí
Việc quản lý chi phí sản xuất không chỉ đơn thuần là quản lý số liệu
phản ánh tổng hợp chi phí mà phải dựa trên cả các yếu tố chi phí riêng biệt
để phân tích toàn bộ chi phí sản xuất của từng công trình, hạng mục công
trình hay theo nơi phát sinh chi phí. Dưới các góc độ xem xét khác nhau,
theo những tiêu chí khác nhau thì chi phí sản xuất cũng được phân loại theo
các cách khác nhau để đáp ứng yêu cầu thực tế của quản lý và hạch toán.
1.2.2.1. Theo yếu tố chi phí
Để phục vụ cho việc tập hợp và quản lý chi phí theo nội dung kinh tế
ban đầu thống nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm
phát sinh, chi phí được phân theo yếu tố. Cách phân loại này giúp cho việc
xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra
và phân tích dự toán chi phí. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ
chi phí được chia thành các yếu tố:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm giá trị thực tế của
nguyên vật liệu, vật liệu chính, phụ hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân
chuyển tham gia cấu thành thực thể sản phẩm xây lắp và giúp cho việc thực
hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp (không kể vật liệu cho máy móc thi
công và hoạt động sản xuất chung)
- Chi phí nhiên liệu, động lực: sử dụng vào quá trình sản xuất
- Chi phí nhân công: tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương
phải trả cho công nhân viên chức
- Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ: trích theo tỷ lệ quy định trên tổng
số tiền lương và phụ cấp phải trả cho cán bộ công nhân viên
- Chi phí khấu hao TSCĐ: tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong
kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng trong sản xuất kinh doanh.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: Toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài
dùng cho sản xuất kinh doanh
- Chi phí bằng tiền khác: toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản
ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo cách này, doanh nghiệp xác định được kết cấu tỷ trọng của từng
loại chi phí trong tổng chi phí sản xuất để lập thuyết minh báo cáo tài chính
đồng thời phục vụ cho nhu cầu của công tác quản trị trong doanh nghiệp,
làm cơ sở để lập mức dự toán cho kỳ sau.
1.2.2.2. Theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận
tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục.
Cách phân loại này dựa vào công dụng chung của chi phí và mức phân bổ
chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm
bao gồm các khoản mục chi phí sau.
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm giá trị thực tế của nguyên
liệu, vật liệu chính, phụ hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển tham gia
cấu thành thực thể sản phẩm và giúp cho việc thực hiện và hoàn thành khối
lượng thi công ( không kể vật liệu cho máy móc thi công và hoạt động sản
xuất chung ).
- Chi phí nhân công trực tiếp: gồm toàn bộ tiền lương, tiền công và
các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương trả cho công nhân trực tiếp.
- Chi phí sử dụng máy thi công: bao gồm chi phí cho các máy thi công
nhằm thực hiện khối lượng thi công bằng máy. Máy móc thi công là loại
máy trực tiếp phục vụ xây lắp công trình. Đó là những máy móc chuyển
động bằng động cơ hơi nước, diezen, xăng, điện,...
Chi phí sử dụng máy thi công gồm chi phí thường xuyên và chi phí
tạm thời.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

+ Chi phí thường xuyên cho hoạt động của máy thi công gồm: lương
chính, phụ của công nhân điều khiển, phục vụ máy thi công. Chi phí
nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí
dịch vụ mua ngoài (sửa chữa nhỏ, điện, nước, bảo hiểm xe, máy ) và các
chi phí khác bằng tiền.
+ Chi phí tạm thời: chi phí sửa chữa lớn máy thi công (đại tu, trung
tu...), chi phí công trình tạm thời cho máy thi công (lều, lán, bệ, đường ray
chạy máy....). Chi phí tạm thời của máy có thể phát sinh trước (hạch toán
trên TK 142, 242) sau đó phân bổ dần vào TK 623. Hoặc phát sinh sau
nhưng phải tính trước vào chi phí sử dụng máy thi công trong kỳ (do liên
quan đến việc sử dụng thực tế máy móc thi công trong kỳ). Trường hợp này
phải tiến hành trích trước chi phí (hạch toán trên TK 335)
- Chi phí sản xuất chung: phản ánh chi phí sản xuất của đội, công
trường xây dựng bao gồm: lương nhân viên quản lý đội, công trường, các
khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định (19 %) trên tiền
lương của công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân điều khiển xe, máy thi
công và nhân viên quản lý đội, khấu hao TSCĐ dùng chung cho hoạt động
của đội và những chi phí khác liên quan đến hoạt động của đội. Chi phí sản
xuất gồm các điều khoản chi phí sau:
+ Chi phí nhân viên phân xưởng: bao gồm các chi phí tiền lương, các
khoản chi trả, các khoản trích theo lương của nhân viên phân xưởng đội sản
xuất.
+ Chi phí dụng cụ: bao gồm các chi phí về công cụ, dụng cụ (CCDC)
dùng ở phân xưởng để phục vụ sản xuất và quản lý sản xuất.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ: bao gồm toàn bộ chi phí khấu hao TSCĐ
thuộc các phân xưởng sản xuất quản lý và sử dụng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Chi phí vật liệu: bao gồm chi phí vật liệu dùng cho phân xưởng sản
xuất với mục đích là quản lý sản xuất.

+ Chi phí khác bằng tiền: bao gồm các khoản chi phí trực tiếp bằng
tiền dùng cho việc phục vụ và quản lý sản xuất ở phân xưởng sản xuất.
- Chi phí bán hàng: gồm toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc
tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa dịch vụ trong kỳ. Chi phí bán hàng bao gồm
các chi phí quảng cáo, bảo hành sản phẩm, hoa hồng, chi phí nhân viên bán
hàng và các chi phí khác gắn liền với quá trình bán hàng.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: gồm toàn bộ các khoản chi phí phát
sinh liên quan đến quản trị kinh doanh và quản trị hành chính trong phạm
vi toàn doanh nghiệp mà không tách được cho bất cứ hoạt động hay phân
xưởng, công trường nào. Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm chi phí
nhân viên quản lý, chi phí vật liệu quản lý, chi phí đồ dùng văn phòng,
khấu hao TSCĐ dùng chung toàn doanh nghiệp, các loại thuế, phí có tính
chất chi phí, chi phí khánh thành, hội nghị.
1.2.2.3.Theo biến động chi phí
Ta thấy rằng những chi phí mà tổng của chúng thay đổi cùng với
mức sản lượng thì được gọi là chi phí biến đổi. Còn những chi phí mà tổng
của chúng không thay đổi cùng với mức sản lượng thì được gọi là chi phí
cố định.
- Chi phí cố định
Là những khoản chi phí cố định khi khối lượng công việc hoàn thành
thay đổi. Tuy nhiên, nếu tính trên một đơn vị sản phẩm thì định phí lại biến
đổi. Định phí thường bao gồm: chi phí khấu hao TSCĐ sử dụng chung, tiền
lương nhân viên, cán bộ quản lý…
Từ sự phân tích trên ta thấy chi phí cố định không bị ảnh hưởng bởi
lượng hàng sản xuất ra. Ví dụ như chi phí thuê nhà xưởng của doanh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp xây dựng giao thông, nó cũng có thể thay đổi nhưng là do thoả
thuận với bên cho thuê và chịu ảnh hưởng của giá thuê mặt bằng chứ không
phải bởi lượng hợp đồng đã thực hiện.

- Chi phí biến đổi
Là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với khối lượng công
việc hoàn thành, thường bao gồm: chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân
công, chi phí bao bì…Biến phí trên một đơn vị sản phẩm luôn là một mức
ổn định
Theo nguyên tắc chung, các chi phí biến đổi sẽ dễ kiểm soát hơn so
với chi phí cố định vì định phí thường là những chi phí đã trả trước, nay
được khấu hao lại hay những chi phí đã được thoả thuận trong các hợp
đồng đã ký. Còn các khoản biến phí có thể giảm xuống nếu doanh nghiệp
cố gắng kiểm soát chúng.
1.2.3.Nội dung của chi phí sản xuất
* Theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì các chi phí sản xuất được
coi là hợp lý, hợp lệ của các doanh nghiệp như sau:
- Chi phí khấu hao TSCĐ sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng sử dụng vào sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tiền lương, tiền công, phụ cấp và tiền ăn giữa ca.
- Chi phí nghiên cứu khoa học công nghệ, sáng kiến cải tiến, y tế, đào
tạo lao động theo chế độ quy định.
- Chi phí mua ngoài như điện, nước, điện thoại, sửa chữa TSCĐ, tiền
thuê TSCĐ, kiểm toán, dịch vụ pháp lý, thiết kế xác lập và bảo vệ nhãn
hiệu hàng hóa, bảo hiểm tài sản, chi trả tiền sử dụng tài liệu kỹ thuật, bằng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sáng chế, giấy phép công nghệ không thuộc tài sản cố định, các dịch vụ kỹ
thuật và dịch vụ mua ngoài khác.
- Các khoản chi cho lao động nữ theo quy định của pháp luật, chi bảo
hộ lao động hoặc trang phục, chi bảo vệ cơ sở kinh doanh, chi công tác phí,
trích nộp quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế thuộc trách nhiệm của cơ sở
sản xuất kinh doanh sử dụng lao động, kinh phí công đoàn, chi phí hỗ trợ

cho hoạt động của đảng đoàn thể tại cơ sở kinh doanh, khoản trích nộp
hoàn thành nguồn chi phí quản lý cấp trên.
- Trích các khoản dự phòng theo chế độ quy định.
- Trợ cấp thôi việc cho người lao động.
- Chi phí về tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ.
- Chi phí quảng cáo tiếp thị, khuyến mại liên quan trực tiếp đến hoạt
động sản xuất kinh doanh.
- Các khoản thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất đai phải nộp.
- Chi phí quản lý kinh doanh.
* Theo các khoản mục chi phí để tính giá thành sản phẩm thì chi phí
sản xuất gồm hai khoản mục chi phí sau:
- Khoản mục chi phí trực tiếp:
+ Chi phí vật liệu trực tiếp là toàn bộ số tiền chi mua vật liệu để xây
dựng công trình, bao gồm cả vật liệu chính, vật liệu phụ và vật sử dụng
luân chuyển. Đối với chi phí sản xuất theo kế hoạch thì đây là toàn bộ
khoản tiền dự trù cho mua nguyên vật liệu để xây dựng công trình, còn đối
với chi phí sản xuất thực tế thì phải được theo dõi ghi chép trên sổ sách kế
toán và cuối kỳ sản xuất hoặc hoàn thành công trình thì tập hợp các chi phí
phát sinh.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong tổng chi phí sản phẩm xây lắp thì chi phí nguyên vật liệu
chính chiếm một tỷ trọng lớn. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là chi phí
của những loại nguyên vật liệu cấu thành thực thể của sản phẩm, có giá trị
lớn và có thể xác định một cách tách biệt rõ ràng cụ thể cho từng sản phẩm.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm chi phí về nguyên vật liệu chính,
vật liệu phụ, các cấu kiện hoặc bộ phận rời, vật liệu luân chuyển tham gia
cấu thành nên thực thể sản phẩm xây lắp. Chi phí nguyên vật liệu được tính
theo giá thực tế khi xuất dùng, còn có cả chi phí thu mua, vận chuyển từ
nơi mua về nơi nhập kho hoặc xuất thẳng đến chân công trình.

Trong xây dựng cơ bản cũng như các ngành khác, vật liệu sử dụng
cho công trình, hạng mục công trình đó dựa trên chứng từ gốc theo giá thực
tế của vật liệu và số lượng thực tế vật liệu đã sử dụng. Cuối kỳ hạch toán
hoặc khi công trình đã hoàn thành, tiến hành kiểm kê số vật liệu còn lại tại
công trình để giảm trừ chi phí vật liệu đã tính cho từng hạng mục công
trình, công trình. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối
tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức kế toán riêng được thì áp dụng
phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ cho các đối tượng có liên quan.
+ Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản chi về tiền lương công
nhân sản xuất theo đơn giá tiền lương. Các tập hợp và theo dõi chi phí này
cũng tương tự như mục chi phí vật liệu, đó là chi phí dự tính hay chi phí
thực tế.
+ Chi phí máy thi công là những khoản chi liên quan đến sử dụng máy
thi công để sản xuất. Máy thi công bao gồm cả máy tự có của doanh nghiệp
và máy thi công thuê ngoài. Chi phí này cũng được dự tính trước hoặc được
tập hợp từ các chi phí phát sinh thực tế được cập nhật và theo dõi trên sổ
sách kế toán
+ Chi phí khác là khoản chi phí có tính chất trực tiếp trong quá trình
sản xuất sản phẩm nhưng trong khi lập kế hoạch chi phí không định mức
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trước khối lượng cụ thể nên cho phép tính bằng tỉ lệ % của tổng các khoản
chi phí vật liệu, chi phí nhân công, chi phí máy thi công. Còn trong thực tế
sản xuất sẽ theo dõi ghi chép các khối lượng công tác phát sinh và số tiền
đã chi để thực hiện những khối lượng phát sinh đó.
- Khoản mục chi phí chung:
+ Chi phí quản lý hành chính là những khoản chi phí nhằm đảm bảo
cho hoạt động của bộ máy quản lý và chỉ đạo thi công. Chi phí quản lý
hành chính của doanh nghiệp xây dựng gồm các chi phí sau: tiền lương và
phụ cấp lương của cán bộ công nhân viên trong bộ máy quản lý doanh

nghiệp. Bảo hiểm xã hội, chi phí y tế, chi phí tàu xe nghỉ phép năm của
người lao động, chi phí điện nước nơi làm việc và sinh hoạt, chi phí tiếp
khách và phục vụ hội nghị sơ kết tổng kết, chi phí đi công tác, chi phí văn
phòng phẩm cho bộ máy quản lý, chi bưu phí: điện thoại, internet, tem bưu
chính. Chi phí nghiệp vụ, chi công tác an toàn, bảo hộ lao động cho người
lao động, chi sửa chữa thường xuyên dụng cụ quản lý và dụng cụ sinh hoạt.
+ Chi phí phục vụ công nhân là những khoản chi phí phục vụ công
nhân trực tiếp thi công đảm bảo mức sinh hoạt của công nhân theo chế độ
hiện hành. Chi phí này gồm: Tiền lương và các khoản phụ cấp của công
nhân trực tiếp thi công được hưởng trong những ngày, giờ nghỉ việc theo
chế độ. Bảo hiểm xã hội của công nhân trực tiếp sản xuất. Tiền thuốc men
chữa bệnh và chi phí đưa người ốm đi viện. Tiền tàu xe nghỉ phép năm và
tiền nghỉ việc riêng được thanh toán. Tiền điện nước phục vụ sinh hoạt. Chi
phí sửa chữa thường xuyên các dụng cụ sinh hoạt.
+ Chi phí phục vụ thi công là những khoản chi cần thiết để phục vụ
quá trình thi công: Sửa chữa thường xuyên các dụng cụ thi công. Chi phí về
an toàn, bảo hộ lao động cho công nhân trực tiếp sản xuất. Chi xây dựng
công trình tạm loại nhỏ như để che mưa nắng cho người, máy móc, thiết bị
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thi công, hàng rào…Chi về điều động công nhân, chi dọn dẹp bàn giao
công trình.
+ Chi phí khác là những khoản chi phí có tính chất phục vụ chung toàn
doanh nghiệp. Khoản chi phí này gồm: chi phí bảo vệ công trường, chi phí
về tuyển dụng lao động và thôi việc, chi phí về bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn
hạn và luyện tập quân sự hàng năm.
1.2.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh
Sự ảnh hưởng của doanh thu và lợi nhuận :
Suy cho cùng doanh nghiệp nào cũng hướng tới mục tiêu lợi nhuận.
Mà chúng ta biết rằng lợi nhuận được xác định bởi công thức đơn giản sau:

Lợi nhuận= Doanh thu - chi phí
Như vậy để thu được nhiều lợi nhuận chúng ta chỉ có hai cách:
+ Một là tăng doanh thu, điều này đồng nghĩa với việc tăng giá bán khi
mà số lượng hàng hoá sản xuất ra không đổi. Nhưng thường thì chúng ta
nhận được kết quả lại khi mà trên thị trường đầy những đối thủ cạnh tranh,
hàng hoá thay thế và hàng hoá bổ sung. Như vậy giải pháp này rất thiếu
tính khả thi.
+ Cách thứ hai là giảm chi phí bằng hoạt động kiểm soát của doanh
nghiệp. Đó là những khoản chi mà doanh nghiệp có thể chủ động giảm, sử
dụng có hiệu quả. Và khi mà doanh nghiệp tính giá bán hàng bằng cách
cộng giá thành với lợi nhuận mong muốn thì việc giảm chi phí sẽ làm giảm
giá thành, đó là lợi thế cạnh tranh rất lớn trong nền kinh tế thị trường gắn
với xu thế hội nhập hiện nay.
- Sự ảnh hưởng của năng suất lao động: nếu năng suất lao động của
doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được lao động sống, hay
tiết kiệm được phí tiền lương. Đồng thời, tăng năng suất lao động sẽ có
điều kiện tăng thu nhập cho cán bộ, công nhân viên. Tuy nhiên, chi phí về
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lương sẽ phải có tốc độ tăng chậm hơn tốc độ tăng năng suất lao động như
vậy mới hợp lí và tiết kiệm được chi phí.
- Sự ảnh hưởng của việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật: việc
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của
sản xuất kinh doanh. Việc áp dụng những kỹ thuật tiên tiến và xây dựng cơ
sở vật chất một cách đúng đắn sẽ làm tăng năng suất lao động và làm tăng
doanh thu cho doanh nghiệp.
- Sự ảnh hưởng của trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp:
+ Nhân tố này có vai trò trong toàn bộ quá trình kinh doanh và ảnh
hưởng trực tiếp đến chi phí của doanh nghiệp. Nếu kết hợp các yếu tố của
quá trình sản xuất kinh doanh một cách hợp lý doanh nghiệp sẽ tiết kiệm

được các khoản chi phí không cần thiết, nói cách khác doanh nghiệp sẽ sử
dụng có hiệu quả vật tư, lao động và tiền vốn mà doanh nghiệp bỏ ra.
+ Ngoài các nhân tố trên còn có các nhân tố khác cũng có ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả sử dụng chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp xây dựng giao thông như: sự phát triển của xã hội, sự cạnh tranh
trong môi trường kinh doanh….
1.3. Kiểm soát chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
1.3.1.Khái niệm kiểm soát chi phí
Kiểm soát chi phí là một chức năng quản lý có ý thức và rất quan
trọng trong quá trình quản lý của doanh nghiệp. Đó là sự tác động quan
trọng của chủ thể quản lý nhằm nhận biết, hiểu biết các nội dung chi phí
nhằm sử dụng hiệu quả nhất các khoản chi phí mà DN đã bỏ ra. Để làm tốt
chức năng này các nhà quản lý cần trả lời các câu hỏi : DN đã có những
khoản mục chi phí nào? Tiêu chuẩn, định mức chi phí là bao nhiêu? Chi phí
nào chưa hợp lý? Nguyên nhân vì sao? Biện pháp giải quyết?
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Để tiến hành kiểm soát chi phí các nhà quản lý DN cần phải đưa ra
các tiêu chuẩn, nội dung và mục tiêu kiểm soát chi phí, dựa trên nguyên tắc
thống nhất. Từ đó xây dựng hệ thống kiểm soát chi phí trong DN với
những hình thức kiểm soát thích hợp, cùng chi phí kiểm soát, phương tiện
công cụ được sử dụng cho hoạt động kiểm soát này cuối cùng đi tới các
giải pháp điều chỉnh.
1.3.2. Sự cần thiết của kiểm soát chi phí trong Doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh. Khác với các tổ chức
không vì lợi nhuận như cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, tôn giáo,...
Doanh nghiệp được thành lập với mục đích thu được lợi nhuận. Doanh
nghiệp XDGT sản xuất ra sản phẩm và đem bán cho khách hàng.
Dù cung cấp những sản phẩm hay dịch vụ khác nhau, song hoạt động
chủ yếu của các doanh nghiệp là chuyển hoá các dạng khác nhau của nguồn

lực kinh tế thành các dạng khác có giá trị hơn để đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng. Vấn đề tiêu hao các nguồn lực kinh tế ban đầu của các
doanh nghiệp trong kế toán đó được xem là chi phí. Như vậy, chi phí là
khoản tiêu hao của các nguồn lực đã sử dụng cho một mục đích, biểu hiện
bằng tiền.
Đối với nhà quản lý thì các chi phí là mối quan tâm hàng đầu, bởi vì
lợi nhuận thu được nhiều hay ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của những chi phí
đã chi ra. Do đó, kiểm soát chi phí là vấn đề quan trọng và mang tính sống
còn đối với doanh nghiệp.
1.3.3. Vai trò của kiểm soát chi phí
Trong sản xuất kinh doanh, kiểm soát chi phí là kiểm chứng xem các
khoản chi có được thực hiện theo đúng kế hoạch hay không, và phải tìm ra
những nguyên nhân sai sót để điều chỉnh.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kiểm soát chi phí là nhu cầu cơ bản nhằm hoàn thiện các quyết định
trong quản lý trong lĩnh vực tài chính của doanh nghiệp xây dựng giao
thông. Thẩm định tính đúng sai, hiệu quả của các khoản chi phí. Đồng thời
kiểm soát được những yếu tố ảnh hưởng đến tính hợp lý và khi kiểm soát
chi phí được mở rộng đối tượng tham gia trong toàn doanh nghiệp sẽ tăng
khả năng hợp tác hiệu quả giữa các ban ngành,các bộ phận, các cá nhân mở
rộng dân chủ, khuyến khích uỷ quyền, một xu hướng trong nền kinh tế thị
trường. Đó phải là hoạt động liên tục với những sự đổi mới không ngừng.
1.3.4. Nội dung các bước kiểm soát chi phí
- Trước hết, Doanh nghiệp phải lập định mức chi phí, cụ thể là định
mức cho các khoản chi phí theo những tiêu chuẩn gắn với từng trường hợp
cụ thể trên cơ sở phân tích hoạt động của Doanh nghiệp. Như vậy, Doanh
nghiệp phải nghiên cứu các dữ liệu trước đây, đưa ra một sự so sánh chuẩn
cũng như căn cứ vào diễn biến giá ca trên thị trường và chiến lược phát
triển của công ty.

- Bước kế tiếp là thu thập thông tin về chi phí thực tế. Công việc này
không chỉ là trách nhiệm của phòng kế toán, mà các phòng, ban khác cũng
phải tham gia để giúp Doanh nghiệp chủ động hơn trong việc xử lý thông
tin chi phí. Các chi phí phải được phân bổ thành từng loại cụ thể. Chủ
Doanh nghiệp phải thường xuyên đánh giá, phân tích các báo cáo chi phí
cũng như có cách ứng xử thích hợp với nhân viên trong việc kiếm soát chi
phí, đưa ra các chế độ thưởng, phạt hợp lý.
1.3.5. Nguyên tắc kiểm soát chi phí
- Luôn giám sát chi phí thuộc khả năng kiểm soát.
Thực chất của nguyên tắc này là sự kết hợp của hai nguyên lý: kiểm
soát có trọng điểm và nguyên lý độ đa dạng thích hợp. Sở dĩ như vậy là vì
trong doanh nghiệp các khoản mục chi phí rất đa dạng, phức tạp mà không
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phải chi phí nào chúng ta cũng có thể thay đổi theo mong muốn vì có
những khoản chi phí cố định theo các hợp đồng. Vì vậy doanh nghiệp nên
tập trung vào những khoản chi mang tính biến động lớn mà bằng sự tích
cực của mình doanh nghiệp có thể đưa ra những giải pháp nhằm sử dụng
hiệu quả tiết kiệm. Cũng theo nguyên tắc này các nhà quản lý doanh nghiệp
cần phải xác định rõ tầm kiểm soát của mình để có thể xây dựng kế hoạch
làm việc phù hợp với chức năng, quyền hạn các bộ phận cá nhân làm sao
đảm bảo tính hệ thống và phát huy sự sáng tạo của mọi người. Có như vậy
trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn, quyền lợi của mình thì từng cá nhân
sẽ thực hiện hiệu quả.
- Cần khai thác hiệu quả tối

đa những chi phí mà doanh nghiệp không
thể thay

đổi.

Thông thường những chi phí mà được xác định qua các hợp đồng
lao động, thuê mặt bằng, khấu hao... là cố định trong từng thời kỳ và
doanh nghiệp không thể thay đổi. Nhưng với mục tiêu là sử dụng hiệu quả
các khoản chi phí, doanh nghiệp cần đưa ra các giải pháp tối đa hoá hiệu
quả, mà suy cho cùng là làm tăng năng suất lao động. Ví dụ như cần thắt
chặt kỷ luật hoặc thưởng phạt hợp lý để người lao động làm việc xứng
đáng với tiền công mà doanh nghiệp trả cho họ. Hoặc cần phải cho máy
móc chạy đúng công suất để khấu hao được hiệu quả...có như vậy những
chi phí cố định đó sẽ phát huy hiệu quả cho dù doanh nghiệp hoạt động ở
bất kỳ lĩnh vực nào và hình thức nào.
- Lập báo cáo liên tục cho các khoản chi phí của doanh nghiệp.
Các nhà quản trị cần phải có thông tin kịp thời, chính xác và sát
thực, đó là điều kiện quan trọng cho họ có những quyết định đúng đắn.
Thông tin là đầu vào của quyết định vì thế để có thông tin họ cần được báo
cáo đầy đủ, kịp thời qua các
Báo cáo tài chính, mà trong đó báo cáo chi phí là bộ phận quan
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×