Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tràn dầu trên biển ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 50 trang )

I.Đặt vấn đề.
Ngày nay, sản phẩm của dầu mỏ đang có mặt trong hầu hết các lĩnh vực đời
sống sinh hoạt hằng ngày của con người cũng như trong công nghiệp. Theo số liệu
thống kê thì có khoảng 65-70% năng lượng được sử dụng từ dầu mỏ, chỉ có khoảng
20-22% từ than, 5-6% từ năng lượng nước, 8-12% từ năng lượng hạt nhân. Do đó
công đoạn khai thác và vận chuyển dầu thô ngày càng tăng theo nhu cầu phát triển
chung của thời đại. Song hành với việc phát hiện ra và khai thác dầu mỏ thì tràn
dầu cũng bắt đầu xuất hiện. Các vụ tràn dầu là một mối đe dọa nguy hại đến môi
trường biển nói chung và hệ sinh thái ven biển nói riêng.
Việt Nam là một quốc gia được mệnh danh là “rừng vàng, biển bạc”, được tự
nhiên ưu đãi cho nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong phú mà trong đó có dầu
mỏ. Không thể phủ nhận những lợi ích to lớn của dầu mỏ đem lại nhưng đi kèm với
đó là thực trạng ô nhiễm biển do tai biến tràn dầu.
Để có cái nhìn tổng quan hơn trong việc giảm thiểu và hạn chế tác động của
tai biến tràn dầu đến môi trường, sau đây nhóm 03 xin trình bày các vấn đề của đề
tài: “Thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tràn dầu trên biển ở Việt Nam”.
II. Nội dung.
1 | P a g e
1. Sơ lược về dầu mỏ.
1.1 Khái niệm
Dầu mỏ hay dầu thô là một chất lỏng sánh đặc màu nâu hoặc ngả lục.
Dầu thô tồn tại trong các lớp đất đá tại một số nơi trong vỏ Trái Đất. Dầu thô là một
hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của
hydrocacbonn thuộc gốc ankan, thành phần rất đa dạng.
1.2Quá trình hình thành dầu mỏ.
1.2.1 Theo thuyết sinh vật học
Dầu thô là sản phẩm của sự nén và nóng lên của các vật liệu hữu cơ
trong các thời kì địa chất. Theo thuyết này nó được tạo thành từ các vật liệu còn sốt
lại sau quá trình phân rã xác các động vật và tảo nhỏ thời tiền sử, trên mặt đất có
khuynh hướng hình thành than. Sau nhiều thập niên, các chất hữu cơ này trộn với
bùn và bị chon sâu dưới các lớp trầm tích, do tác dụng của nhiệt độ và áp suất đã


giúp những chất này biến đổi. Ban đầu hình thành một loại sáp được gọi là
kerogen, sau đó tạo thành những hydrocacbonn khác nhau tồn tại dưới dạng khí và
lỏng.
1.2.2 Thuyết vô cơ
Theo thuyết này dầu mỏ phát sinh từ phản ứng hóa học giữa cacbua kim
loại với nước tại nhiệt độ cao ở sâu trong lòng Trái Đất tạo thành các hydrocacbonn
2 | P a g e
và bị đẩy lên trên, và do tác động của các vi sinh vật sống trong lòng đất đã biến
đổi chúng tạo thành các hydrocacbonn khác nhau.
1.2.3 Thuyết hạt nhân
Lý thuyết thứ ba cho rằng các hydrocacbonn được tạo ra bởi những phản
ứng hạt nhân trong lòng Trái Đất.
1.3 Thành phần hóa học của dầu mỏ
1.3.1Thành phần nhóm hydrocacbon của dầu mỏ
Các hydrocacbon, là hợp chất hữu cơ , chỉ gồm hydro và cacbon là thành phần
chính của dầu mỏ. Các hydrocacbon trong dầu mỏ được chia thành bốn nhóm:
parafin, olefin, naphten và aromat.
- Hydrocacbon parafin (ankan)
Các ankan thấp :metan, atan, propan, butan ở thể khí. Những ankan từ pentan trở
lên trong điều kiện thông thường ở thể lỏng. Các ankan từ C
17
trở lên thường tồn tại
ở thể rắn, nhiệt độ sôi dao động từ 40-70
0
C.
- Hydrocacbon olefin( anken)
Trong dầu mỏ hiếm gặp các hợp chất không no như: acetylene, etylen,
polypropylene, alcohol. Các hydrocacbon này là kết quả của quá trình phá hủy cấu
trúc và chúng là thành phần không mong muốn của nhiên liệu động cơ.
- Hydrocacbon naphten(cycloalkan)

3 | P a g e
Naphten trong các phân đoạn nhẹ của dầu mỏ là dẫn xuất của cyclopentan và
cyclohexan, trong dầu mỏ naphten có cấu trúc từ 1-4 vòng. Chúng là thành phần
quan trọng của nhiên liệu động cơ, đồng thời cũng là nguyên liệu chính để tổng hợp
hydrocacbon thơm: benzene, toulen, xylem.
- Hydrocacbon thơm
Trong thành phần của dầu mỏ các hydrocacbonn thơm với số vòng từ 1-4 chúng
phân bố đồng đều trong các phân đoạn và có tỷ trọng cao nhất. hydrocacbonn thơm
là thành phần mong muốn của xăng, nhưng chúng làm giảm chất lượng của nhiên
liệu vì làm xấu đặc tính cháy của chúng, thường hàm lượng của chúng không quá
20-22%.
1.3.2 Phi hydrocacbon trong dầu mỏ
- Hợp chất lưu huỳnh
Lưu huỳnh thường có mặt trong tất cả các dầu thô và tồn tại dưới dạng hydrosulfua.
Được chia thành 3 nhóm:
+Nhóm I gồm hydrosulfua và mercaptan: có tình axit và do đó có tính ăn mòn cao
nhất.
+Nhóm II gồm các sulfua và disulfua ít bền vững, ở nhiệt độ 130-160
0
C chúng bị
phân hủy trở về nhóm 1.
+Nhóm III gồm các hợp chất vòng bền như thiophen và thiophan
- Nitơ và hợp chất chứa nitơ
4 | P a g e
Hàm lượng N trong dầu dao động 0,003-0,52%k.l. ni tơ trong dầu tồn trong dầu
dưới dạng hợp chất có tính kiềm, trung hòa, axit. Chúng có tác dụng sát trùng, chất
ức chế ăn mòn, chất bôi trơn và chống oxy hóa…Nhưng chúng cũng có tác hại làm
giảm hoạt độ xúc tác trong quá trình chế biến dầu, tạo nhựa, làm sẫm màu sản
phẩm.
- Hợp chất chứa oxy

Trong dầu mỏ chứa rất ít các hợp chất có oxy như: axit naphten, phenol, nhựa
asphant. Axit naphten là chất lỏng đặc ít bay hơi, tỷ trọng 0,96-1 có mùi rất hôi.
Nhựa asphtan là phần không thể thiếu của các loại dầu, chúng là phức của hợp chất
đa vòng, dị vòng và hợp chất cơ kim. Chia thành 3 nhóm:
+Nhựa trung hòa là chất bán lỏng, đôi khi là chất rắn. thành phần có chứa S, O, N,
tồn tại dưới dạng vòng thơm và mạch nhánh
+Asphten là chất rắn đen, giòn, có tỷ trọng lớn hơn 1.ỏ 300
0
C chúng bị phân hủy
tạo thành khí . hàm lượng S, O, N cao hơn trong nhựa, sản phẩm của asphten là
cacben và carboid. Cacben không tan trong bezen nhưng tan 1 phần trong prydin
và H
2
S.carboid không tan trong bất cứ dung môi nào.
+Axit asphten và alhydrid về vẻ ngoài giống nhựa trung hòa. Đây là chất lỏng
quánh hoặc rắn, không hòa tan trong ete, nhưng tan tốt trong benzene, rượu và
clorofom, tỷ trọng lớn hơn 1
2 Tổng quan.về tai biến tràn dầu
5 | P a g e
Tràn dầu là sự giải phóng hydrocarbon dầu mỏ lỏng vào môi trường do các hoạt
động của con người, là một hình thức gây ô nhiễm.Thuật ngữ này thường được
dùng để chỉ dầu được phát tán vào đại dương hoặn vùng nước ven biển. Dầu có thể
là một loạt các chất khác nhau, bao gồm cả dầu thô, các sản phẩm dầu mỏ tinh chế,
dầu nhờn hoặc dầu trộn lẫn trong chất thải
Tràn dầu thường xảy ra trong các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận
chuyển, chế biến, phân phối và tàng trữ dầu khí và các sản phẩm của chúng.
Ví dụ: các hiện tượng rò rỉ, phụt dầu, vỡ đường ống, vỡ bể chứa, tai nạn đâm va
gây thủng tàu, đắm tàu, sự cố tại các dàn khoan dầu khí, cơ sở lọc hoá dầu v.v làm
cho dầu và sản phẩm dầu (mà dưới đây sẽ được gọi tắt là dầu) thoát ra ngoài gây ô
nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến sinh thái và thiệt hại đến các hoạt động kinh

tế, đặc biệt là các hoạt động có liên quan đến khai thác và sử dụng các dạng tài
nguyên thuỷ sản.
Mặt khác, tràn dầu cũng được xem như sự giải phóng vào môi trường do rò
rỉ tự nhiên từ các cấu trúc địa chất chứa dầu dưới đáy biển do các hoạt động của vỏ
trái đất gây nên như động đất Số lượng dầu tràn ra ngoài tự nhiên khoảng vài trăm
lít trở lên có thể coi là sự cố tràn dầu.
6 | P a g e
Sự cố tràn dầu thường xảy ra ngoài khơi, nên mức độ ảnh hưởng rất lớn,
trong phạm vi rộng lớn, ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, du
lịch, nuôi trồng thủy hải sản, vận tải quốc tế, sức khỏe nhân dân
Một khi đã xảy ra thì khả năng khoanh vùng, xử lý sự cố gặp nhiều khó khăn
do môi trường làm việc đặc biệt khắc nghiệt. Bởi vậy các phương pháp thủ công
như dùng tay hớt vẫn được áp dụng bởi không thể đưa các thiết bị thi công vào vận
hành.
Hiện nay, các nhà khoa học đã tìm ra nhiều phương pháp để xử lý tràn dầu.
Tuy nhiên khả năng khắc phục sự cố vẫn phải trông chờ vào sự tự phục hồi của
thiên nhiên.
2.1 Nguyên nhân tràn dầu.
Nguyên nhân tràn dầu chỉ có thể xuất phát từ các khả năng chính sau:
• Thứ nhất, trên mặt nước biển. Rò rỉ từ các tàu thuyền hoạt động ngoài biển: chiếm
50% nguồn ô nhiễm dầu trên biển. Do tàu chở dầu trong vùng ảnh hưởng bị sự cố
ngoài ý muốn hoặc cố ý súc rửa, xả dầu xuống biển
• Thứ hai, trong lòng nước biển. Do rò rỉ các ống dẫn dầu, các bể chứa dầu trong
lòng nước biển
7 | P a g e
• Thứ ba, dưới đáy biển. Do khoan thăm dò, khoan khai thác, túi dầu bị rách do địa
chấn hoặc do nguyên nhân khác Trong tự nhiên có những túi dầu nằm rất sâu
dưới đáy biển nên việc khoan thăm dò rất khó
Tuy nhiên nếu động đất xảy ra ở ngay khu vực có túi dầu thì khả năng túi
dầu bị vỡ, bị xì là hoàn toàn có thể. Mặt khác, trong lòng đất có rất nhiều vi sinh

vật yếm khí, một số loài có khả năng tiết ra acid làm bào mòn các lớp trầm tích
nằm phía trong hoặc ngoài túi dầu,khí. Giới khai thác dầu khí đã biết lợi dụng khả
năng này của tập đoàn vi sinh vật yếm khí trên nhằm góp phần làm thông thương
tốt hơn các mạch dầu, khí. Tuy nhiên, vi sinh vật này cũng có thể tàn phá lớp trầm
tích bên ngoài dầu mỏ, đến một lúc nào đó thì làm dầu “xì” ra
• Các tàu thuyền không đảm bảo chất lượng lưu hành trên biển là nguyên nhân chính
dẫn tới rò rỉ dầu từ các tàu thuyền (tàu của ngư dân và các tàu chở dầu),đắm tàu do
va vào đá ngầm.
Các cơ sở hạ tầng phục vụ khai thác và lưu trữ dầu khí không đảm bảo tiêu
chuẩn nên dẫn đến tràn dầu, thậm chí ở các cực của trái đất các nhà sản xuất còn
thải nước lẫn dầu và các chất hóa học nguy hiểm ra biển.
Ngoài ra còn có các nguyên nhân chủ quan do hành động thiếu ý thức của
con người đã trực tiếp hoặc gián tiếp khiến dầu tràn ra biển.
2.2 Các quá trình biến đổi dầu trong nước biển.
8 | P a g e
Khi bị đổ ra môi trường, vệt dầu sẽ trải qua hàng loạt biến đổi vật lý và hóa
học (Quá trình phong hóa dầu), kết quả làm cho thành phần ban đầu của vệt dầu
thay đổi mạnh mẽ. Quá trình phong hóa dầu là một chuỗi quá trình biến đổi hóa
học và vật lý liên quan đến các hiện tượng bên trong của dầu và các điều kiện, môi
trường.
2.2.1. Biến đổi thành phần hóa học (sự phong hóa dầu).
Sự phân hủy dầu trong biển:
Vai trò quan trọng trong quá trình phá hủy các váng dầu thuộc về sự bay hơi.
Các hydro cacbua với mạch dài các nguyên tử cacbon trong phân tử dưới C
15
(nhiệt
độ sôi tới 250
o
C ) bốc hơi từ mặt nước trong 10 ngày, các hydro cacbua trong dải từ
C

15
– C
25
(250 – 400
o
C) bị giữ lại lâu hơn nhiều, còn nhóm nặng hơn C
15
thực tế
không bốc hơi. Nói chung, riêng sự bay hơi có thể loại trừ tới 50% các hydro
cacbua của dầu thô, tới 10% dầu nặng và tới 75% dầu nhiên liệu nhẹ
(Mikhailov,1985).
Kiểu biến đổi Thời gian
(ngày)
Phần trăm dầu ban đầu
(%)
Bay hơi
Hòa tan
Quang hóa
Phản ứng sinh hóa
Phân tán và trầm
lắng
1-10
1-10
10-100
50-500
25
5
5
30
15

20
9 | P a g e
Đóng cặn 100-100
>100
Tổng 100
Bảng 1: Diễn tiến thành phần hóa của dầu (theoButler và NNK năm 1976)
Chừng 24% số dầu đó sẽ bay hơi hay tan biến sau 2 ngày, 42% sau 5 ngày,
45% sau 8 ngày. Bách phân tiêu tán này đạt đến tối đa là 48% qua 14 ngày. Sau đó
thời tiết không còn ảnh hưởng bao nhiêu và số dầu còn lại sẽ nằm vật vờ trôi nổi
trên mặt biển. Phải qua rất nhiều thời gian để dầu loang tự nó phân hóa qua những
phản ứng thoái hóa sinh học (Biological Degradation), oxide hóa quang năng
(photo oxidation) mà từ từ tan biến. Khi dầu thoát ra, vì nhẹ nên nổi và nước gió
làm dầu trôi đi trên mặt biển.
2.2.1.1 Sự bay hơi (evaporation).
Mức độ bay hơi phụ thuộc vào thành phần các hydrocacbonn nhẹ có trong
dầu. Thông thường dầu mất khoảng 50% thể tích trong vài ngày.
− Dãy hydrocacbonn có dây C nhỏ hơn 15 phần tử, có nhiệt độ sôi nhỏ hơn 250
o
C
bay hơi trong 10 ngày.
− Dãy hydrocacbonn là nhóm C
15
– C
25
: nhiệt độ sôi 250-400
o
C, bay hơi hạn chế và
còn lưu lại trong vết dầu một phần.
− Dãy hydrocacbonn có dây C lớn hơn 25 phần tử, nhiệt độ sôi lớn hơn 400
o

C hầu
như không bay hơi.
10 | P a g e
Dầu nặng số hiệu 6 chỉ mất khoảng 10%. Xăng tinh luyện như diesel nhãn
số 2 có thể mất đến 75%; còn xăng (gasoline) hay kerosen bay hơi hầu hết.
Sự bay hơi làm phát tán hydrocacbon vào không khí – gây ô nhiễm không
khí. Trải qua quá trình bay hơi, các phần tử có độc tính (như hợp chất thơm và
aliphantic) bị di chuyển khỏi vệt dầu làm cho dầu bớt nguy hiểm hơn đối với sinh
vật. Ở đây, cần quan tâm hướng gió để xác định các đối tượng cần bảo vệ để chống
lại ô nhiễm hydrocacbonn không khí.
Một phần dầu sau khi bay hơi có thể sẽ trở lại môi trường nước, nhưng làm
lượng giảm do bị phân hủy một phần các phản ứng quang hóa.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự bay hơi như thành phần dầu, nhiệt độ không
khí, tôc độ gió.
2.2.1.2. Quang hóa – oxy hóa (photochemical oxidation).
Phản ứng xảy ra dưới tác dụng của oxy tự do và bức xạ mặt trời. Phản ứng
xảy ra phụ thuộc vào thành phần của dầu và độ đậm đặc của dầu (quyết định khả
năng hấp thụ bức xạ mặt trời và oxi tự do).
Nhóm aromatic và cycloalkan có xu hướng phản ứng nhanh hơn nhóm dây
thẳng. Những kim loại trong dầu cung có vai trò nhất định trong trong phản ứng
này: V đóng vai trò thúc đẩy oxi hóa, ngược lại chất giàu S làm giảm quá trình oxi
hóa. Sản phẩm của các quá trình này là các acid, alcol, eter peroxit và phức hợp
11 | P a g e
cacbonyl của hai nhóm trên, những sản phẩm này hòa tan nhanh chóng, do vậy dễ
được pha loãng tự nhiên. Bên cạnh đó quá trình oxi hóa tạo ra trong các váng dầu
những phần tử nặng hơn (nhựa) có thể tổn tại trong môi trường rất lâu.
2.2.1.3 Thoái hóa do sinh vật (biodegradation)
Đây là quá trình thoái hóa dầu do sinh vật hấp phụ. Các sinh vật ưa dầu như
các vi khuẩn, rêu rong, men sẽ hấp thụ một phần hydrocacbonn, phản ứng xảy ra ở
nơi tiếp xúc nước – dầu.

− Alkan nhẹ, nhóm dây thẳng trong khoảng C
10
– C
25
, được tiêu thụ nhanh chóng và
rộng rãi nhất, sau đó đến alkan nặng.
− Aromatic bị tấn công trước, aromatic đa nhân được tiêu thụ chậm nhất.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thoái hóa do sinh vật là T
o
, oxy và các
chất dinh dưỡng, chủ yếu là hỗn hợp của N và P. Khi dầu bị hút vào các tầng trầm
tích, phản ứng này xảy ra chậm nhất do thiếu oxy và các chất dinh dưỡng.
2.2.1.4 . Hòa tan (dissolution).
Xảy ra ở phần bên dưới của vệt dầu, trên thành phần hydricacbon nhẹ hòa
tan mạnh trong nước biển, tuy nhiên, trong mẫu nước biển, hàm lượng của chúng
thấp do tác dụng bay hơi.
2.2.1.5. Nhũ tương hóa (emulsification)
Đây là kiểu phát tán quan trọng của dầu. Sóng biển và sự xáo trộn mặt
nước đóng vai trò tích cực trong việc hình thành các nhũ tương. Các giọt nhũ tương
12 | P a g e
thường tồn tại trong nước biển lâu và được vận chuyển rất xa. Các giọt nhũ tương
có kích thước thay đổi từ 5µm đến vài mm, có thể phân bố đến độ sâu 30m và thể
lan tỏa đến 250 km (Forester – 1971
Hydrocacbonn/bè dầu
thô
Chỉ số cacbon
Khả năng hòa tan
(mg/l)
Parafin thông
thường

Aromatic
Kerozen
Gas oil
C
5
C
6
C
7
C
8
C
12
C
30
C
6
(benzen)
C
7
(toluen)
C
8
(xylen)
C
9
(alkylbenze
n)
C
14

(antracen)
C
18
40
10
3
1
0.01
0.02
1800
500
175
50
0.075
0.02
0.2 – 0.001
13 | P a g e
Lube oil
Bitumen
(chrysen)
C
10
– C
17
C
16
– C
25
C=23


– C
37
>C
37
3 x 10
-4
– 1 x 10
-8
1 x 10
-7
– 1 x 10
-14
< 1 x 10
-14
Bảng 2: Khả năng hòa tan của các hydrocacbonn và dầu thô trong nước
Các nhũ tương dầu – nước tạo thành đám bọt màu nâu gọi là “bọt chocolat”
rất khó phá hủy. Một phần nhũ tương sẽ bị hòa tan dần, một phần bị vi sinh vật hấp
phụ, phần còn lại có thể bám vào các trầm tích.
Lắng đọng (sedimentation): Các thành phần cặn có tỷ trọng > 1 sẽ ở trạng
thái tar/gum lơ lửng ở phần giữa và đáy của bồn nước. Ở đáy của bồn nước,
tar/gum sẽ được các trầm tích vô cơ hấp phụ gây trầm tích lắng, hoặc tự chúng trầm
lắng trực tiếp, một phần tar/gum có thể sẽ còn lưu giữ trong môi trường một thời
gian khá dài.
Half life: Là thời gian cần thiết để thu hồi 50% lượng dầu bị đổ.
2.2.2 Quá trình biến đổi vật lý
Sự lan truyền:
Đây là quá trình xảy ra mạnh mẽ và dễ quan sát khi dầu đổ ra trong môi
trường, do quá trình lan truyền, vệt dầu ban đầu sẽ nhanh chóng bị trãi mỏng và
dàn rộng ra trên mặt nước. Quá trình lan truyền xảy ra dưới tác dụng của 2 lực, đó
14 | P a g e

là trọng lực và lực căng bề mặt. Về lý thuyết sự lan truyền sẽ dừng lại khi các lực
căng này đạt tới sự cân bằng. Quá trình lan truyền có thể chia thành 3 giai đoạn tóm
lược như sau:
 Giai đoạn 1 – giai đoạn trọng lực (gravity assisted spreading)
Trọng lực đóng vai trò quan trọng trong việc làm di chuyển các vệt dầu. do
vậy khối lượng dầu sẽ quyết định tốc độ lan truyền. Do thành phần dầu ban đầu sẽ
bị thay đổi khi phơi bày trên bề mặt và trọng lực của dầu cũng biến đổi theo thời
gian nên sự cân bằng trọng lực cũng sẽ thay đổi. Nhìn chung, nếu khối lượng dầu
lớn, giai đoạn trọng lực sẽ chiếm thời gian quan trọng, nghĩa là dầu sẽ lan truyền
nhanh; ngược lại đổ dầu từ từ thì giai đoạn này có vai trò yếu hơn.
 Giai đoạn 2 – giai đoạn của lực căng bề mặt (surface tension)
Trong giai đoạn này, vệt dầu lan truyền dưới tác dụng của lực lan truyền (F)
để hướng đến sực cân bằng lực căng bề mặt của đới tiếp xúc dầu – nước theo công
thức:
F (ergs/cm
2
) = γ
ω
– γ
0
– γ
0/ω
Trong đó: γ
ω
- lực căng bề mặt của nước (tính theo dynes/cm)
γ
0
- lực căng bề mặt của dầu
γ
0/ω

- lực căng mặt tiếp xúc dầu – nước
Thí dụ: dầu thô của Kuweit: F = +11 ergs/cm
2
Sự lan truyền dừng lại khi lực căng bờ mặt ở trạng thái cân bằng. Đối với
dầu tràn nhỏ hay đổ dần thì giai đoạn này sẽ đến sớm hơn (có thể sau vài giờ) và
chiếm phần quan trọng hơn.
 Giai đoạn 3 – Phá vỡ cá vệt dầu (drifting)
Vệt dầu bị phá thành các băng, dải kéo dài song song với hướng gió.
Có hai nhóm yếu tố ảnh hưởng đến sự truyền dầu:
15 | P a g e
Các yếu tố trong: liên quan đến thành phần của dầu, dầu có độ nhớt ít di
chuyển hơn, lan truyền chậm. Dầu có pour point cao sẽ khó di chuyển , khi T
o
không khí < T
o
của pour point thì dầu khó lan truyền.
Các yếu tố môi trường: T
o
không khí, gió, các dòng chảy và dòng thủy triều
sẽ ảnh hưởng đến tốc độ lan truyền và hướng lan truyền .
Bán kính lan truyền trong điều kiện lý tưởng:
πR
2
max
=A = 10
5
V
0.25
Bề dày lớp dầu: h
d

= V/A
trong đó A: diện tích lớp dầu (m
2
), V: thể tích dầu tràn (m
3
).
2.3 Các vụ tràn dầu ở Việt Nam.
Theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu an toàn dầu khí, từ năm 1987 đến năm
2001 tại Việt Nam đã xảy ra hơn 90 vụ tràn dầu tại các vùng sông và biển ven bờ.
Riêng TP. Hồ Chí Minh, tính từ năm 1993 đến nay đã xảy ra trên 8 vụ tràn dầu với
lượng dầu ước tính là 2.520 tấn, gây thiệt hại hơn 7 triệu USD. Đặc biệt, trong 2
năm 2006, 2007đã liên tục xuất hiện nhiều sự cố tràn dầu “bí ẩn”. Nhất là từ tháng
1 đến tháng năm 2007 đã liên tục xuất hiện rất nhiều vệt dầu ở 20 tỉnh ven biển từ
đảo Bạch Long Vĩ xuống mũi Cà Mau. Các tỉnh này đã thu gom được 1720,9 tấn
dầu.
- Ngày 26/12/1992, Mỏ Bạch Hổ, vỡ ống dầu mềm từ tàu dầu đến phao nạp làm
tràn 300-700 tấn dầu Mazut.
16 | P a g e
- Năm 1994, tàu Neptune Aries đâm vào cầu cảng Cát Lái- TP HCM làm tràn
1864 tấn dầu DO.
- Tháng 9 / 2001 tàu Formosa (quốc tịch Liberia) đâm vào tàu Petrolimex 01
của Việt Nam tại vịnh Giành Rỏi- Vũng Tàu làm tràn ra môi trường biển ven bờ
khoảng 1000 m
3
dầu diesel. Sau đó 3 năm, tại khu vực biển Quảng Ninh- Hải
Phòng, sự cố dắm tàu Mỹ Đình, chứa trong mình khoảng 50 tấn dầu DO và 150 tấn
dầu FO, trong đó ta chỉ xử lý được khoảng 65 tấn, số dầu còn lại hầu như tràn ra
trên biển
- Khoảng 11h 20/3/2003, tàu Hồng Anh thuộc công ty TNHH Trọng Nghĩa, chở
600 tấn dầu FO thông từ Cát Lái tới Vũng Tàu, nhưng khi đến phao số 8 (Vũng

Tàu) thì bị sóng lớn đánh chìm. Dầu bắt đầu loang rộng ra vùng biển Cần Giờ, TP
HCM.
- Năm 2005, tàu Kasco Monrovia tại Cát Lái- TR HCM làm tràn 518 tấn dầu
DO.
- Trong 2 năm 2006 và 2007, tại ven biển các tỉnh miền trung và miền nam đã
xảy ra một sự cố tràn dầu bí ẩn, nhất là từ tháng 1-6/2007 có rất nhiều vệt dầu trôi
dạt dọc bờ biển của 20 tỉnh từ đảo Bạch Long Vĩ xuống tới mũi Cà Mau và đã thu
gom được 1729,9 tấn dầu. Qua phân tích 26 ảnh chụp từ vệ tinh ALOS-PALSAR
trong thời điểm từ 6/12/2006 – 23/4/2007, PGS.TS Nguyễn Đình Dương, Phòng
17 | P a g e
Nghiên cứu và Xử lý Thông tin Môi trường, Viện Địa lý đã ghi nhận được vết dầu
lớn nhất phát hiện vào ngày 8/3/2007 với chiều dài hơn 50 km và bề rộng hơn 1
km. Căn cứ vào vết dầu loang gây ô nhiễm trên biển cùng bề dày của vết dầu, ước
tính có từ 21620- 51400 tấn dầu đã tràn trên biển.
- 17h ngày 30/1/2007, hàng ngàn khách du lịch và người dân đang tắm biển tại
bãi biển Cửa Đại – Hội An (Quảng Nam), Non Nước (Đà Nẵng) hốt hoảng chạy dạt
lên bờ khi phát hiện ra một lớp dầu đen kịt ồ ạt tràn vào bờ. Thảm dầu kéo dài gần
20 km từ khu vực biển Đà Nẵng đến Quảng Nam. Một thảm họa sinh thái đang
biểu hiện trên bờ được đánh giá đẹp nhất hành tinh.
- Cuối tháng 2/2007, dầu vón cục xuất hiện trên bờ biển 3 xã thuộc huyện Lệ
Thủy- Quảng Bình. Sau hơn 10 ngày, dầu đã loang ra trên 60 km bờ biển từ Ngư
Thủy đến hanh Trạch ( huyện Bố Trạch) với mật độ ngày càng tăng. Một số bãi tắm
đẹp như Hải Ninh (Quảng Ninh), Nhật Lệ, Bảo Ninh, Quang Phú (Đồng Hới), Đá
Nhảy (Bố Trach) đã bị dầu tấp vào.
- Ngày 19/4/2007, dầu loang xuất hiện ở vùng biển Nha Trang và Ninh
Thuận.Tại Khánh Hòa, dầu loang vào tới bãi biển ngay trung tâm TP du lịch Nha
Trang. ở Ninh Thuận dầu loang kéo dài hàng chục km bờ biển.
18 | P a g e
- Cuối tháng 10/2007, tàu vận tải biển New Oriental bị lâm nạn và chìm đắm ở
vùng biển xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên vết dầu đã loang ra cách

vị trí tàu chìm về hướng tây khoảng 500m với diện rộng, ước tính khoảng 25 ha.
- Đêm 23/12/2007, trên vùng biển cách mũi Ba Làng An- xã Bình Châu- huyện
Bình Sơn- tỉnh Quảng Ngãi khoảng 3 hải lý, hai chiếc tàu chở hàng đã đâm nhau
làm hơn 170m
3
dầu diesel tràn ra biển. Đây là vụ tai nạn giữa 2 tàu chở hàng có
trọng tải lớn lần đầu tiên trên vùng biển Quảng Ngãi. Tuy nhiên, đến chiều 24/12
vẫn chưa có biện pháp khắc phục.
- Khoảng 22h ngày 2/3/2008 khi đến tọa độ 102
0
9,7’ B- 107
0
47,5’ Đ trên vùng
biển Bình Thuận, cách thị xã La Gi khoảng 9 hải lý về hướng Đông Nam, tàu Đức
Trí BWEG chở 1700 tấn dầu gặp sóng to, gió lớn, tàu đã bị chìm.
- Do mưa liên tiếp trong mấy ngày, lúc 12h ngày 16/10/2008, tại kho xăng dầu
hàng không trên đèo Hải Vân đã xảy ra tình trạng sạt lở. Hơn 40m bờ kè bảo vệ
bồn số 1 (chứa khoảng 3 triệu lít xăng A92) và bồn số 2 (chứa khoảng 3 triệu lít
xăng Jet) đã bị vỡ toác. Sự cố bất ngờ này làm đường ống dẫn dầu bồn số 2, đoạn
từ kho cung cấp đến kho lưu trữ bị vỡ làm một lượng dầu lớn chảy ra ngoài, sau đó
tràn xuống biển.
19 | P a g e
Hình 1 :Sự cố tràn dầu từ các kho chứa trên đèo Hải Vân đang gây ô nhiễm
nghiêm trọng vùng biển vịnh Đà Nẵng
- Ngày 7/7/2013 , một vụ tràn dầu nghiêm trọng đã xảy ra tại khu vực biển
phường Hải Cảng, Quy Nhơn (Bình Định). Vụ tràn dầu xảy ra tại đã ảnh hưởng
nghiêm trọng khu vực bãi tắm chính của thành phố, đồng thời uy hiếp và
gây thiệt hại nghiêm trọng đến hàng trăm lồng, bè nuôi cá trên biển của
hàng trăm hộ ngư dân tại phường Hải Cảng. Mặc dù khối lượng dầu tràn
cũng không quá lớn, nhưng do sự việc xảy ra khá bất ngờ nên sự cố này

đã gây thiệt hại lớn về nhiều mặt, cả về môi trường và kinh tế. Để xử lý hậu
quả, chính quyền thành phố Quy Nhơn đã phải huy động hàng ngàn lượt
nhân lực hốt dầu vón cục dày đặc tại bãi biển, vận chuyển hàng ngàn bao
cát nhiễm dầu đem đi xử lý để khắc phục ô nhiễm môi trường ở bãi biển
20 | P a g e
này. Riêng các hộ dân nuôi cá lồng bè thì thiệt hại do ô nhiễm khiến cho
thủy sản bị chết lên đến hàng tỉ đồng.
Hình 2 : Tràn dầu ở biển Quy Nhơn – Bình Định
2.4 Hậu quả của tràn dầu.
2.4.1 Đối với môi trường.
Dầu tràn làm thay đổi tính chất lí hóa của môi trường nước: tăng độ nhớt, giảm
nồng độ oxy hấp thụ vào nước, dẫn đến thiệt haị nghiêm trọng về sinh vật biển
đặc biệt là các rặng san hô và các loại sinh vật nhạy cảm với sự thiếu oxy. Một tấn
dầu mỏ tràn ra biển có thể loang phủ 12 km
2
mặt nước tạo thành lớp váng dầu ngăn
cách nước và không khí, làm thay đổi tính chất của môi trường biển, cản trở việc
trao đổi khí oxy và cacbonic với khí quyển.
21 | P a g e
- Các rặn san hô: Sự ô nhiễm dầu có thể dẫn đến tử vong trên diện rộng của san hô
và các động vật đáy không xương sống khác như trai, sò, động vật da gai và loài
giáp sát. Các cặn dầu và các phần dầu nhẹ dễ tan trong nước hơn sẽ làm các loài cá
và động vật không xương sống bị nhiễm bẩn (có mùi), đặc biệt là các loài sống
bằng cách ăn lọc.
Hơn nữa, một vỉa đá ngầm bị thoái hóa do dầu không phải là nơi hấp dẫn cho
ngành du lịch. Về lâu dài, một rặng san hô lớn bị tiêu diệt sẽ dẫn đến việc xói mòn
lớp nền của vỉa đá ngầm do sóng và các sinh vật gây xói mòn sinh học. Đến một
mức độ nào đó sự xói mòn bờ biển trên diện rộng sẽ xảy ra. Sự mất bờ biển và
vùng đất ven biển sẽ ảnh hưởng nặng nề đến khả năng phát triển kinh tế xã hội của
khu vực.

- Các bãi cát, bãi bùn (vùng kín gió): Ảnh hưởng của sự cố tràn dầu lên các bãi cát
và bãi bùn phụ thuộc vào kích thước của trầm tích, năng lượng sóng cũng như các
đặc tính lý hóa của dầu. Trong các khu vực tiếp xúc nhiều nhất với năng lượng sóng
cao, dầu có thể bị thấm sâu bên trong lòng trầm tích đáy. Trong các trường hợp này,
việc ô nhiễm dầu có thể dai dẳng trong thời gian dài và theo thời gian dầu sẽ rò rỉ ra
hoặc tiếp xúc lặp đi lặp lại do việc tái tạo trầm tích do sóng và thủy triều.
22 | P a g e

Hình 3: tác đông của tràn dầu
Cây đước: cây đước, do mực nước lên xuống của thủy triều và vị trí ven biển
của chúng nên dễ bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm dầu. Các dòng thủy triều và gió thổi về
bờ có thể đem các màng dầu vào khu rừng đước, nơi mà tiếp xúc lý hóa với động
và thực vật trong môi trường dẫn đến việc tử vong quy mô lớn.
Môi trường sống trong rừng đước rất đa dạng nuôi sống rất nhiều loài cá,
động vật không xương sống, chim, các loài thực vật và đóng vai trò vô cùng quan
trọng đối với các hệ sinh thái biển. Đước là môi trường sống quan trọng và là nơi
nuôi dưỡng nhiều loài có giá trị thương mại cao. Đước cung cấp đầu vào đáng kể
các chất hữu cơ cho nước biển và gắn kết các trầm tích mịn với nhau. Điều này làm
ổn định các dải đất ven bờ và bảo vệ chúng khỏi xói mòn do song, các lớp rong
biển, hồ và đầm lầy: Vì các lớp rong biển, hồ và đặc biệt là đầm lầy xuất hiện nơi
23 | P a g e
nước nông và thường nổi rõ khi triều thấp, chúng dễ bị tổn thương do ô nhiễm dầu
vì dòng triều và gió về bờ có thể đưa vết dầu về phía bờ. Ảnh hưởng của việc suy
thoái thảm rong biển, hồ và đàm lầy tương tự như đối với đước. Việc suy thoái sẽ
dẫn đến các môi trường sống này bị mất một số cá lớn và vừa, một số loài giáp sát
có giá trị. Điều này sẽ ảnh hưởng đến động vật bậc cao hơn ăn các sinh vật này và
cũng ảnh hưởng tới hệ sinh thái liền kề phụ thuộc vào các môi trường sống này.
Làm thay đổi tính chất, hệ sinh thái vùng bờ biển. Sóng đánh khoảng 10%
lượng dầu vào đất liền, số dầu đó mang nhiều hóa chất độc, đã làm hư hại đất ven
biển.

Cặn lắng xuống đáy biển làm ô nhiễm trầm tích đáy biển.
Làm ảnh hưởng đến khí hậu khu vực, giảm lượng bốc hơi nước dẫn đến giảm
lượng mưa, làm nghèo tài nguyên biển.
2.4.2 Đối với sinh vật.
Nhiều người không nhận ra rằng tất cả các loài động vật trong đại dương đều
bị ảnh hưởng bởi sự tràn dầu:
- Với dây truyền thức ăn: Dầu làm nhiễm độc phiêu sinh vật phù du và tảo. Cá nhỏ
ăn sinh vật phù du và tảo, cá lớn ăn cá nhỏ. Hải cẩu, cá voi, cá heo, chim và người
ăn cá. Tất cả trúng độc.
24 | P a g e
- Với các loài hải sinh vật có vú : Dầu dính vào bộ lông các loài có vú, làm mất đặc
tính cách nhiệt. Khi thân nhiệt bị mất, con thú chết. Cá voi và cá heo ngạt thở, bị
chết khi dầu làm nghẹt đường khí quản. Dầu làm gan và thận của rái cá và hải cẩu
trúng độc, chúng thường chết. Hơi từ dầu bốc hơi cũng gây nạn ngộp thở.
- Với các loài chim. Chim ngộ độc vì cố rỉa lông khi bộ lông của chúng dính dầu.
Thường chúng chết sau vài giờ. Khi bộ lông đã bị dính dầu, thân chim không giữ
thân nhiệt. Chỉ cần chừng 1 inch trên thân chim hở ra trong vùng khí hậu lạnh là
chim chết. Nếu dính nhiều dầu, vì quá nặng, chim không bay được và cũng có thể
không bơi nổi mà bị chìm. Cho đến một giọt dầu nhỏ cũng có thể làm chim không
còn đẻ trứng được.
- Sinh sản của cá: cá có thể bị ảnh hưởng bởi dầu bằng nhiều cách, cụ thể là qua
tiếp xúc vật lý với một vết dầu loang, mang cá hoặc các biểu mô mỏng bị dính các
sản phẩm dầu không tan, việc tiêu hóa gián tiếp hay trực tiếp các con mồi bị nhiễm
bẩn bởi dầu, ngộ độc trứng và ấu trùng và do bị ảnh hưởng bởi môi trường sống
của cá. Về ngắn hạn, các con cá trưởng thành tiếp xúc với dầu thể hiện một số thay
đổi về sinh lý (tăng nhịp tim, thay đổi cân bằng thấm lọc trong hệ hô hấp và đặc
tính của máu…), biểu hiện ở giảm khả năng hoạt động, ăn uống và khả năng theo
bầy, cũng như xuất hiện các tổn thương ở mang, vây và mắt. Về lâu dài, sự ô nhiễm
25 | P a g e

×